Nguyễn Quốc Khải
Dân số
thế giới gia tăng rất chậm kể từ khi trái đất
mới khai thiên lập địa. Phải mất 250,000 năm,
dân số nhân loại mới đạt được mức 1 tỉ người vào
khoảng đầu thế kỷ 19, khi tế bào trứng của con
người được khám phá.
|
Tính đến cuối năm
2010, dân số thế giới là 6,893,100,000 (gần
7 tỉ) người. (H́nh: Noel Cells/AFP/Getty
Images) |
Hơn một thế kỷ sau đó, vào
khoảng 1930, nhân số tăng gấp đôi lên tới 2 tỉ.
Kể từ đó đến nay, dân số tăng nhanh chóng một
cách không ai có ngờ được. Chỉ cần khoảng 30 năm,
dân số nhân loại tăng thêm 1 tỉ từ 2 tỉ lên tới
3 tỉ vào năm 1960. Tỉ thứ tư chỉ cần 14 năm và
tỉ thứ năm và thứ sáu chỉ cần 13 năm và 12 năm.
Sự gia tăng dân số thật là khủng khiếp nếu đà
này tiếp tục. May thay, tốc độ tăng trưởng nhân
số đă ở điểm cao nhất và bắt đầu chậm lại. Vào
năm nay, tức là cũng sau 12 năm trái đất sẽ có
thêm 1 tỉ người nữa để đạt tới mức 7 tỉ, theo
ước tính của Cơ Quan Dân Số của Liên Hiệp Quốc.
Dân số thế giới sẽ c̣n tiếp tục gia tăng ít nhất
trong vài thập niên tới, nhưng tốc độ tăng
trưởng tiếp tục giảm dần.
Hai quả bom dân số
Kinh tế gia người Anh Thomas
Malthus vào năm 1798 đă nhận định rằng nhân số
sẽ gia tăng nhanh hơn là mức sản xuất thực phẩm,
cho đến khi chiến tranh, bệnh tật, và nạn đói
làm giảm số người. Quả thật là những bệnh dịch
lớn đă giết chết nhiều người trước khi Malthus
ra đời. Bệnh dịch (black death) lan tràn ở Âu
Châu trong các năm 1347-1349 đă giết chết ít
nhất 1/4 dân số Âu Châu.
Trong hai thế kỷ kế tiếp, sau
khi Malthus tuyên bố nhân số thế giới không thể
tiếp tục tăng, thực tế đă cho thấy một t́nh
trạng trái ngược: dân số thế giới tiếp tục tăng.
Sự bành trướng trồng những cây thực phẩm mới như
bắp và khoai, cùng với việc khám phá ra phân hóa
học đă giúp chặn đứng nạn đói ở Âu Châu. Kể từ
giữa thế kỷ 19, việc thiết lập hệ thống cống
rănh và cải thiện vệ sinh đă làm giảm bệnh dịch
tả (cholera) và thương hàn (thyphus). Cũng vào
thời Malthus, khoa học gia Edward Jenner đă bào
chế loại vac xin (thuốc chủng) đầu tiên để chữa
bệnh đậu mùa (smallpox). Sau đó nhiều thuốc
chủng khác và thuốc trụ sinh ra đời như
Penicillin. Thuốc DDT diệt muỗi truyền bệnh sốt
rét. Sự tiến bộ của ngành y khoa, cùng với
phương pháp dinh dưỡng tốt đă giúp con người
sống lâu hơn. Tuổi thọ trung b́nh tại những nước
kỹ nghệ hóa từ 35 năm đă tăng lên đến 77 năm
hiện nay. Tuổi thọ của Ấn Độ cũng đă tăng từ 38
năm vào năm 1952 lên đến 64 ngày nay. Tại Trung
Quốc, con số này đă tăng từ 41 đến 73. Không
những con người sống lâu hơn, mà số đàn bà ở
trong tuổi sanh con lên đến 1.8 tỉ, mặc dù mỗi
đàn bà sanh ít con hơn so với một thế hệ trước.
Nhà sinh học Hoa Kỳ Paul
Ehrich của Standford University xuất bản cuốn
sách “Population Bomb” vào năm 1968. Ông tiên
đoán rằng hằng trăm triệu người sẽ chết đói và
đă quá trễ để có thể làm được ǵ để cứu văn t́nh
trạng này. Bệnh ung thư nhân số gia tăng cần
phải cắt giảm bằng cách bắt buộc nếu những
phương pháp t́nh nguyện thất bại. Cuốn sách
“Population Bomb” của thế kỷ 20 đă làm ông Paul
Ehrich nổi tiếng y như cuốn sách “An Essay on
the Principle of Population” của ông Thomas
Malthus xuất bản vào cuối thế kỷ 18.
Lần này cũng vậy, trái bom dân
số đă không nổ. Cuộc cách mạng xanh đă giúp mức
sản xuất thực phẩm gia tăng mạnh mẽ nhờ vào sự
phát minh các loại hạt giống có năng suất cao
như lúa Thần Nông, phương pháp dẫn nước, phân
hóa học, và thuốc diệt trừ sâu bọ và bệnh thảo
mộc. Ngày nay, vẫn c̣n có nhiều người thiếu dinh
dưỡng nhưng nạn chết đói hàng loạt rất hiếm hoi,
ngoại trừ do “nhân tạo” như nạn đói năm Ất Dậu
tại Việt Nam do chính quyền Nhật gây ra, tại
Ukraine vào năm 1932-1933 do chính sách sản xuất
tập thể cưỡng bức dưới thời Joseph Stalin, và
nạn đói tại Trung Quốc vào những năm 1958-1961
do chính sách Nhẩy Vọt và sản xuất tập thể của
Mao Trạch Đông.
Hạn chế sinh sản
Vào thế kỷ 18 tại Âu Châu và
đầu thế kỷ 20 tại Á Châu, một người đàn bà trung
b́nh sanh 6 đứa con để giữ cho nhân số không
thay đổi v́ phần lớn những đứa trẻ chết trước
khi đến tuổi trưởng thành. Tỉ lệ sanh sản này đă
giảm xuống c̣n 4.8 vào năm 1965-70 và 2.6 vào
năm 2005-10.
Ngày nay tại những nước phát
triển, tỉ lệ sanh sản để giữ quân b́nh về nhân
số là 2.1 cho mỗi phụ nữ tại những nước đă phát
triển và tỉ lệ này cao hơn tại những quốc gia
đang mở mang. Một điều quan trọng không ai tiên
đoán được là vào đầu thập niên 1970s, tỉ lệ sanh
sản trên thế giới đă bắt đầu thuyên giảm mạnh
chưa từng thấy. Do đó mức tăng trưởng dân số đă
giảm trên 40%.
Phụ nữ Pháp tiên phong trong
việc giảm sanh đẻ bắt đầu từ thế kỷ 18. Sau đó
cả Âu Châu và Hoa Kỳ theo gương phụ nữ Pháp. Vào
cuối thập niên 1990s, tỉ lệ sanh sản tại Âu Châu
là 1.4. Tại Trung Quốc với một dân số bằng 1/5
dân số thế giới, mặc dù dân số tiếp tục tăng,
nhưng tỉ lệ sanh sản đă giảm xuống c̣n 1.5 dưới
mức thay thế trong khoảng 20 năm vừa qua do
chính sách bắt buộc một con bắt đầu từ năm 1979.
Tỉ lệ sanh sản cao hiện nay chỉ tồn tại ở Phi
Châu. Tuy nhiên nhân số Phi Châu chỉ chiếm 16%
nhân số toàn cầu.
Vào năm 1952, chỉ vài năm sau
dành được độc lập, Ấn Độ đă bắt đầu thi hành
chánh sách hạn chế sanh đẻ để giảm bớt việc gia
tăng dân số. Mục tiêu của chánh sách này là Ấn
Độ cần đạt được tỉ lệ thay thế dân số 2.1 vào
năm 2010. Điều này đă không xẩy ra và c̣n cần
thêm một thập niên nữa. Hiện nay tỉ lệ này là
2.6. Theo một ước tính, dân số Ấn Độ sẽ nhiều
hơn dân số của Trung Quốc vào năm 2030 và lên
quá 1.6 tỉ vào năm 2050. Phương pháp hạn chế
sanh đẻ chánh ở Ấn Độ là triệt tiêu khả năng
sanh sản (sterilization) của đàn bà và cả đàn
ông. Phương cách thắt ống dẫn tinh trùng (noscalpel
vasectomy) ở đàn ông giản dị và ít tốn kém hơn
là cách cột buồng trứng (tubal ligation) ở đàn
bà.
Dân số Việt Nam
Theo cuộc kiểm tra thực hiện
vào 1 tháng 4, 1999, dân số Việt Nam là khoảng
trên 76 triệu. Từ năm 1979 đến 1999 dân số gia
tăng 24 triệu. Mặc dù dân số gia tăng, nhưng tốc
độ gia tăng dân số đă giám. Trong khoảng thời
gian 1979-1989 mức gia tăng là 22.7% và trong
1989-1999 là 18.5%. Trung b́nh mức tăng trưởng
hàng năm là khoảng 2% vào đầu thập niên 1990s và
1.4% vào cuối thập niên này.
Việt Nam áp dụng chính sách
hai con bắt đầu từ năm 1993 để kiểm soát nhân số
đă giúp cho mức tăng trưởng dân số tiếp tục giảm
xuống c̣n 1.3% vào năm 2004 và 1.096% vào năm
2010. Tỉ lệ sanh sản giảm từ 3.8 vào năm 1989
xuống c̣n 1.93 vào năm 2010. Tuy nhiên dân số
Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng vào khoảng 1
triệu mỗi năm. Dân số của Việt Nam vào năm 2010
là 89,571,130. V́ áp lực quốc tế, Việt Nam đă
hủy bỏ chính sách 2 con vào năm 2003 v́ tính
cách cưỡng bức và thay thế bằng chánh sách
khuyến khích gia đ́nh nhỏ.
H́nh thức cưỡng bức của chính
sách hai con bao gồm việc trục xuất người vi
phạm ra khỏi Đảng CSVN nếu là đảng viên, cha mẹ
phải trả tiền sức khỏe và học phí cho đứa con
thứ ba, và nhân viên chánh phủ sẽ bị kỷ luật.
Một biện phát trừng phạt nặng là tịch thu đất.
Tuy nhiên, biện pháp trừng phạt không được áp
dụng trên toàn quốc và tùy thuộc vào quyết định
của các viên chức địa phương. Rút kinh nghiệm
của Trung Quốc, Việt Nam đă không áp dụng chính
sách một con để tránh sự mất quân b́nh giữa hai
phái nam và nữ.
Hàng năm con số phá thai chính
thức được ghi nhận là 900,000 trường hợp. Thực
tế con số phá thai có thể cao hơn. Phá thai là
một phương pháp hạn chế dân số ở Việt Nam và
giúp cha mẹ có lối thoát trong việc chọn con
trai hay con gái. Cũng như ở Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan và Trung Quốc, cha mẹ Việt Nam có khuynh
hướng trọng con trai. Theo thống kê của Liên
Hiệp Quốc, trung b́nh một phụ nữ Việt Nam trải
qua ba lần phá thai trong đời để theo chính sách
hai con. Mặc dù chính sách này không khắt khe
như ở Trung Quốc, nhưng cũng đă tạo ra t́nh
trạng bất thăng bằng về nhân chủng. Ở Việt Nam
tỉ lệ con trai so với con gái là 112/100.
Kết luận
Nhờ những phương pháp kiểm
soát dân số và tiến bộ về khoa học, sự gia tăng
nhân số thế giới đă chậm lại và hai quả bom dân
số đă không nổ. Nhân loại cần 13-14 năm nửa để
đạt được 8 tỉ, và 20-25 năm sau đó để đạt 9 tỉ,
tức là vào khoảng 2045-50. Trung b́nh mỗi năm
dân số thế giới sẽ gia tăng 50 triệu người cho
đến giữa thế kỷ 21. Vào lúc đó, lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại, nhân số thế giới sẽ ổn
định và sẽ không gia tăng nữa.
Ưu tiên quan trọng hiện nay
đối với thế giới không c̣n là vấn đề đông dân,
mà là nạn nghèo đói, thiếu hạ tầng cơ sở và môi
trường nhiễm độc. Thực phẩm sẽ không thiếu nhưng
sự phân phối vẫn là một thử thách lớn lao.
(1 tháng 10, 2011)
* Tài liệu tham khảo:
1. Paul Ehrich, “The
Population Bomb,” Cuthogue, New York,: Bucaneer,
1971.
2. Robert Kunzig, “Population
7 Billion,” National Geographic, January 2011,
Vol. 219, No. 1.
3. John Parker, “Another Year,
Another Billion,” The World in 2011, The
Economist, December 2010.
4. Eye Witness, “The Black
Death 1348,”
www.eyewitnesstohistory.com,
2001.
5. WorldWatch Institute,
“Vietnam May Revisit Two Child Population
Policy,” January 5, 2009. Owen Bennett-Jones,
“Vietnam's Two-Child Policy,” BBC News, November
8, 2000.
6. The Gardian, “Vietnam a
development success story?” December 23, 2010.
7. Thuy Hang, “Vietnam's
population tops 85 million,” Vietnews, August
15, 2009.
8. Carl Haub and Phuong Thi
Thu Huong “An Overview of Population and
Development in Vietnam,” Population Reference
Bureau and the National Committee for Population
and Family Planning, February 2003.