Nhớ Về Ông Bà Ngô
Đ́nh Nhu
Trần Lệ Xuân cùng chồng Ngô Đ́nh Nhu, ảnh năm 1962
Tôi mới
nhận được một giấy mời tham dự Lễ Tưởng niệm cố Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm vào ngày 02/11. Tôi không một chút suy nghĩ và
đă nhận lời. Lần đầu tiên nhận một giấy mời như thế kể từ
khi ông chết. Cám ơn ban tổ chức.
Tôi nh́n thấy tên người tổ chức: ông Lê
Châu Lộc. Người đă có thời hănh diện v́ đă được sống bên
cạnh vị Tổng Thống ấy. Từ Lê Châu Lộc, tôi liên tưởng đến
những người từng có cơ hội gần gũi với Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm như Đỗ Thọ, Nguyễn Hữu Duệ, Cao Xuân Vỹ, Tôn Thất
Thiện, Cụ Quách Ṭng Đức, Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến Lâm
Lễ Trinh, cụ Đoàn Thêm, Vơ Văn Hải, Nguyễn Thành Cung,
Nguyễn Cửu Đắc, Nguyễn Văn Minh và v.v…
Ít ai có lời phỉ báng, nặng nhẹ, nếu
không nói là một ḷng, một dạ. H́nh như ít có vị lănh đạo
nào, dù đạo hay đời mà khi chết đi để lại thương nhớ và niềm
kính trọng nơi những kẻ dưới quyền đến như ông? Hồ Chí Minh
chăng? Không. Nào ai khác không có. Nhớ những người này,
những kẻ một ḷng, một dạ với ông th́ đồng thời tôi cũng
muốn không nhớ tới Đỗ Mậu, một số tướng lănh hay Thích Trí
Quang và Cabot Lodge. Nói chi đến thứ viết như Nguyễn Đắc
Xuân, viết bẩn, bôi bẩn.
Khu biệt thự
Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn
mét vuông
vừa được nâng cấp trở
thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn
mộc bản triều Nguyễn.
Tôi sẽ đến đó với một tấm ḷng thanh
thản.
Bởi v́ tôi đi đến đó không phải để vinh
danh một vị tổng thống của nền đệ nhất cộng hoà. Đến đó
không phải để tôn sùng, không phải để thần thánh hóa như
người ta mỉa mai. Đến đó không phải v́ ngu muội.v́ thiếu
hiểu biết lịch sử. Như người ta chửi. Cũng chẳng một chút
mưu cầu ǵ. Bất cứ mưu cầu ǵ. Và có thể, tất cả những người
đến đó, như tôi, đều chẳng có mưu mô, mưu cầu nào cả. Mưu
cầu dựng lại đảng Cần lao nhân vị? Buồn cười. Đừng ai gán
ghép ǵ cả. Có người vui mừng v́ những cái chết đó. Có người
buồn, thương tiếc. Người vui th́ được, tại sao lại khó chịu
khi người khác không vui, khi người khác buồn? Hăy cứ để cho
người vui được vui và người buồn được phép buồn.
Tôi đến với một chút ḷng. Chỉ có thế.
Đến v́ nghĩ rằng những năm tháng ấy, mặc dù chẳng phải là
một xă hội toàn hảo. Mặc dù xă hội ấy chập chững khập khễnh
giữa dân chủ, phong kiến, tự do và độc đoán. Tôi tránh chữ
độc tài bởi v́ nó nhiều mức độ quá. Và tôi vẫn tự hào với
ḿnh, với bạn bè ḿnh, đó là những năm tháng đẹp nhất quăng
đời tuổi trẻ của tôi, của chúng tôi. Tôi đă hỏi các bạn bè
tôi, ít ai nói khác.
Hỡi những ai, những loài chim ri, chim
sẻ đă từng là Chu Văn An, Petrus Kư, Gia Long, Trưng Vương.
Nói lên đi, đă có lần nào các anh bị tù, bị bịt mồm, bịt
miệng một cách bất công, bị đàn áp một cách vô lư… Và các
anh, các chị đă có lúc nào cảm thấy bị ngộp thở, bị đè nén
trong thời gian đó v́ lư do tôn giáo? Do ai và người nào,
bày tôi nào mà chúng ta bị đối xử như thế? Hăy t́m cho tôi
một thời gian nào của mảnh đất miền Nam trong 20 năm và nay
nửa thế kỷ đă qua những ngày tháng tốt đẹp hơn những ngày
tháng ấy?
Tôi nhắc lại nơi đây một nhận xét của
Vơ Phiến về giai đoạn 1954-1963 như sau:
“Trong khung cảnh thái b́nh, nước nhà
vừa có chủ quyền …, chính phủ đang được tín nhiệm, trong
không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do, văn học nghệ
thuật đă phát triển nhanh chóng mạnh mẽ. T́nh h́nh văn học
trong giai đoạn mở đầu miền Nam phản ánh cái phấn khởi, tin
tưởng, tích cực….Sang giai đoạn sau cả văn nhân lẫn văn
chương đều hóa ra phong trần…
(Trích Văn học miền Nam tổng quan, Vơ
Phiến, trang 207)
Trước 1954 và sau 1963, chúng ta đă
sống thế nào? Trước 1954, nhiều nỗi bấp bênh. Tương lai vô
định. Sau 1963, t́nh thế rối beng, tuổi trẻ chán ngán.
Trong khi thời gian từ 1954, miền Nam
như một miền đất hứa cho nhiều người. Chúng ta đă đến đó và
góp bàn tay, góp trí óc chúng ta xây dựng mảnh đất miền Nam
ấy. Hơn thế nữa, chúng ta đă góp xương máu để giữ nó, mặc dù
bây giờ chúng ta đă mất. Mất tất cả? Dù thế, chúng ta đă để
lại một di sản văn hóa, tinh thần tự do và một thể chế hành
chánh tương đối quy mô và hữu hiệu.
Và chỉ khi thật sự mất miền Nam, chỉ
khi chúng ta không c̣n ǵ… chúng ta mới có dịp so sánh và
nh́n lại. Chúng ta mới thực sự hiểu và đánh giá đúng mức cái
gia tài văn học, văn hoá, giáo dục của miền Nam. Nhiều khi,
chúng ta đă có lúc đ̣i cái nọ, cái kia mà thực sự cái chúng
ta đ̣i đă nằm sẵn trong túi áo?
Nghĩ lại thời đó, chúng ta vẫn thong
dong tuổi trẻ? Chúng ta đă được đào tạo đến nơi đến chốn?
Trường y, trường dược, trường kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia
Hành Chánh với các đại học Sài G̣n, Đà Lạt, Huế.
Chúng ta từ đâu mà lớn lên và trở thành
những chuyên viên hàng đầu của miền Nam Việt Nam? Hăy cố nhớ
lại xem. Hăy dùng tất cả cái tấm ḷng để nhớ đến. Nơi ấy vẫn
là một niềm Nam đáng sống với những ngày tháng tuổi trẻ được
lớn lên và trưởng thành. Theo cụ Đoàn Thêm, dự án trung tâm
Phú Thọ tưởng không thành v́ thiếu giáo sư. Ông Diệm bảo:
“Có nhiều học nhiều, có ít học ít, đợi
đến bao giờ và cứ cho phép mở.
Viện Đại học Đàlạt được thành lập dễ
dàng với sự nâng đỡ đặc biệt của ông.
Ông trợ cấp nhiều cho Đại học Huế, tặng
tiền dịch sách để tiến tới một cơ quan dịch thuật và khuyến
khích lập một viện Hán học.
Ông hoan nghênh sự cố gắng chấn hưng
Nho giáo của Hội Khổng Học và dặn Bộ giáo dục tổ chức trọng
thể lễ kỷ niệm Khổng tử.
Như sự trưởng thành của quân đội, từ
những tiểu đoàn bộ binh hay khinh binh thời Bảo Đại tới một
lực lượng hùng hậu với đủ các quân chủng và binh chủng, là
kết quả nỗ lực của mọi cấp chuyên trách Việt Nam với sự giúp
đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ”
Nay th́ đă mấy lần từ ngày 01/11/1963?
Hơn 40 năm rồi. Có điều ǵ cần phải nói nữa không? Có nhiều
điều chúng ta không nên nhớ đến nữa. Forgive and forget. Có
nhiều điều nên quên để di dưỡng tuổi già, để nh́n về thế hệ
con cháu chúng ta.
Độc giả nghĩ rằng tôi sẽ viết về ông
Diệm. Thưa không. Viết về ông, nhiều người đă sống bên cạnh
ông viết đủ và họ có đủ tư cách để viết về ông hơn tôi gấp
bội.
Cho nên, bài này tôi sẽ viết về vợ
chồng ông Nhu, bị hiểu lầm và bị ghét nhất là bà Ngô Đ́nh
Nhu. Nhiều người không ưa bà, ghét là đằng khác, khinh nữa.
Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt
khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Tôi biết rơ. V́ chính tôi cũng
chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của
bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.
Nhưng đă trót quư mến ai rồi th́ khó mà
nghĩ khác được. Trước đây, tôi đă trót quư mến Nam Phương
Hoàng Hậu.Và niềm kính trọng vẫn c̣n đó. Nay th́ đến lượt
ông bà Nhu cũng vậy thôi.
Nhớ lại, khi ấy, tôi c̣n rất trẻ. Tôi
đă đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô
Đ́nh Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ
đinh ninh đó là những lớp học về xă hội. Sau này, đọc sách
vở th́ tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên
hồi đó.
Đầu óc làm chính trị, nh́n xa nên nhóm
ông Nhu đă mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời
cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả
tôi th́ họ phải có tŕnh độ tương đương tú tài hoặc hơn thế
nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các
buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà
Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi v́
tôi theo học tại trường ḍng Chúa Cứu thế nên ngày thứ năm
là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm
gia đ́nh. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo
anh tôi “theo học” lớp Xă hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ
tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Pḥng học chỉ có một cửa lớn
ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào pḥng học.
Trong những dịp này, tôi được nh́n thấy
ông Ngô Đ́nh Nhu. Dưới mắt một đứa bé con th́ anh tôi là
người tài giỏi hơn người. Thật vậy, vào năm 1953, anh tôi đă
thi xong Phần 1, tiến sĩ triết học ở Bỉ và 1955 về nước t́nh
nguyện ra miền Bắc phục vụ. Vậy mà ông này, cái ông dáng
người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại c̣n là thầy
dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nh́n ông mà trong
ḷng chỉ biết nể phục.
Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi
bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt.
Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và
nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và
điềm đạm.
Mặc dù chỉ là kư ức của một đứa trẻ
con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về
những hoạt động của ông Nhu khi c̣n ở Hà Nội. Việc ông lấy
bà Nhu cũng đă gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà
Nội. V́ một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia
đ́nh danh gia vọng tộc.
Nhưng khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai
ông bà cũng là cớ sự cho những lời đồn thổi sau này kể từ
sau 1963.
Đối với tôi, sau 1963, cái ǵ cũng trở
thành đầu đề để đàm tiếu gia đ́nh ông Nhu. Có cần nhắc lại
những điều viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng
Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân không?
Xin được nhắc lại một lần cuối. Trong
bài kư: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường
‘gặt băo’ của anh em Ngô Đ́nh Diệm ở Sài G̣n tháng 11–63”.
http://www.giaodiem.com/doithoaiIII/ndx_evilroute.htm
Ông Xuân đă viết với lối viết quen
thuộc, nửa hư, nửa thực như sau:
Suốt tuần qua báo chí Sài G̣n đăng
nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long,
đặc biệt là những h́nh ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần
Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đ́nh Nhu – người tự mệnh danh là
đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng
tôi đến ngay pḥng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường
Pasteur. Cái pḥng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ
quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn
mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính
như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong
pḥng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta
cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng pḥng riêng của Tổng Thống
Diệm gần pḥng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đ́nh Nhu muốn
vào pḥng riêng của của vợ phải đi qua pḥng của anh trai
ông. Không rơ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn
chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy?
Và Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp:
Những thành viên trong đoàn sinh viên
Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn c̣n ở Huế khá đông
như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế,
anh Lư Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ
Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đ́nh
Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị
Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim
Xuyến v.v… Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không c̣n
nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham
gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968;
Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba th́ thoát ly, phụ trách
Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau
làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lănh đạo sinh viên phát
động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không
có Diệm. Kha mất v́ bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi.
Theo ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp
trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh
của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cho người viết hay: pḥng ăn
dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ.
Riêng pḥng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân
bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà
Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rơ nét nổi lên phần ngực phía
trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các
bức tường chung quanh pḥng bà Nhu đều có gương phản chiếu
không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm ǵ có chuyện đó. Tường
thường như mọi bức tường nhà khác.
Chi tiết mà ông Ngô Bảo, nay đă 78
tuổi, cho biết một lần nữa chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn
Đắc Xuân đă bịa đặt, viết lếu láo và đám nam nữ sinh viên
cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đă im lặng. Im
lặng ở đây được coi là đồng loă.
Dù chỉ nh́n thoáng qua, ấn tượng về ông
c̣n được ghi nhớ măi trong tôi. Nhưng ấn tượng đó c̣n được
ghi khắc thêm là trong số học tṛ của ông Nhu có linh mục
Phước. Lm Phước kể lại cho tôi là có dịp đi Đà lạt sau này,
có đến thăm thày cũ. Ông đă hết lời nói về gia đ́nh thày của
ḿnh. Ông Nhu th́ học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai
ai cũng phải nh́n nhận như vậy. Cụ Đoàn Thêm nhận xét: “Về
phương diện trí thức, tŕnh độ của ông Nhu rất cao. Học vấn
cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à,
kẻ chú ư có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và
việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung
quanh.”
Bà th́ vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ ǵn
gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất
tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng
với vài người khác ngồi ở pḥng khách. Chủ khách đàm đạo
trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào
nhau để trước bụng.
Đấy là cử chỉ của những gia đ́nh có lễ
giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói
bớt cho.
Nghe sao th́ nói lại.
Mà câu chuyện này tôi nghe khi c̣n ở
ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư.
Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục
nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều ǵ đi nữa. Làm
sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được?
Ai nghĩ xấu th́ đó là việc của họ. C̣n
tôi th́ không. Ai ghét th́ cứ việc. C̣n tôi không là không.
Nói xấu cho một người th́ dễ. Kính trọng được một người th́
mới là điều khó.
Bẵng đi một thời gian gần 10 năm, tôi
lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác.
Hồi ấy, tôi c̣n là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham
dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Đôi lần lại có dịp
được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo
veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn
Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc.
Im lặng. Ai khen th́ khen. Ai vỗ tay th́ vỗ. Ông vỗ nhẹ tay
lấy lệ, c̣n vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn
đề ǵ khác. Gần như ông không chú ư đến ai cả. Có cảm tưởng
như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề
ngoài ŕnh rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ,
ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích,
không nói nửa lời.
Nói như cụ Đoàn Thêm th́ ông Nhu “cử
chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho
Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay
thù, miễn là họ biết sợ ḿnh là đủ).”
Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc ǵ
với ông, tôi nh́n chăm chăm vào ông. Kính phục th́ có, sợ
th́ không.
Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không
sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông
Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ th́ khúm núm ra mặt.
Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề
chú ư đến những cử chỉ , thái độ của mấy ông này.
Ông không phải là loại người của đám
đông.
Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền.
Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn
thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết tŕnh học tập như ở Suối
Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay h́nh ảnh đăng dài dài trên báo hà
rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa,
xe cộ tiền hô hậu ủng.
Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô
trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống.
Tôi đă đọc lại các số báo Lập Trường,
Hành Tŕnh, Đất nước và Tŕnh bày sau 1963. Không hề nghe
thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đ́nh Nhu. Tiền bạc
không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đă làm được như vậy?
Xin hăy đọc vài ḍng của cụ Đoàn Thêm viết về ộng Nhu để
thấy con người ấy sống như thế nào:
“Tôi c̣n ghi nhận những ống quần nhầu
không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da
quai sờn . Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến
tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng
thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một
căn pḥng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy c̣n những pḥng
rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, th́ ông
không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm
không nghe, quyết giữ ông lại để c̣n luôn luôn hỏi việc. Căn
cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi
đă kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa
vị của ông anh … Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất
đắc dĩ.
Theo như lời kể của cụ Đoàn Thêm:
“Đến khi cần cử ông qua Pháp thương
thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh
phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là
với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đă được đem
dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển
nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu
không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết
phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn).
Người nào đă đọc cụ Đoàn Thêm th́ đều
hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có
mà chê cũng có. Vậy nên những nhận xét của cụ phải được coi
là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn bôi bẩn hay xưng tụng
quá mức.
Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản
như thế, hẳn người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người
thế nào?
Tư cách ở chỗ ấy, trí thức thứ thiệt ở
chỗ ấy. Cứ thử nh́n lại, những người thay thế ông sau này,
quyền bính vào trong tay, họ đă hành xử thế nào? Cứ như ông
Đỗ Mậu hồi làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời
gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đ́nh
Nhu trong 9 năm làm cố vấn?
Có một vị nào sau này lên cầm quyền có
một phong cách trí thức như một Ngô Đ́nh Nhu và tư cách một
kẻ sĩ như một Ngô Đ́nh Diệm?
Từ đầu đến giờ, tôi chỉ muốn nói về CON
NGƯỜI mà không đề cập ǵ đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn
Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị.
Nhưng nếu con người mà không xứng đáng th́ nói chi đến thứ
khác?
Sau này, tại California, tôi lại một
lần nữa nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi
ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.
Tôi đă nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên
Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản
chất trung thực cho biết, ông biết ǵ nói nấy, có nói có,
không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho
“ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà
Nhu trên dưới 10 lần, v́ hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng
Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu v́
giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra
cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm th́ bà sợ và cử chỉ
e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn pḥng ông
Diệm lúc nào th́ vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và
đàng hoàng. Ông đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.
Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong
khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đă yêu
cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong
khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đă vui vẻ
chào.
Một lần nữa, ông Lộc vội vă không kịp
chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho
biết: Lộc nó là sĩ quan th́ chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn,
hà cớ ǵ lại phải chào bà Nhu.
Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có
nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần
“làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.
Trường hợp thứ hai là nhiếp ảnh gia
Trần Cao Lĩnh.
Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người
được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Diệm
trong các buổi lễ chính thức. V́ thế, ông đă nhiều lần ra
Huế để chụp ảnh cho gia đ́nh ông Diệm.
Ông đă kể lại một cách sinh động duyên
dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn,
nhà báo đă tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại
toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo,
Phạm Đ́nh Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v…
Theo lời kể của anh Trần Cao Lĩnh, ông
đă hết lời đối với gia đ́nh ông Diệm và đặc biệt là đối với
bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học,
có giáo dục. Cử chỉ phong cách quư phái, chừng mực lễ độ
trong cư xử. Không phải loại người bờm xơm, cớt nhả, dâm
đăng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ư.
Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông
Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà
Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà c̣n cả với
Giám mục Ngô Đ́nh Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà
Nhu không dám tự tiện vào pḥng ông Diệm.
Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ
hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh
để rồi kính trọng nhân cách con người bà?
Phải thú thực không có bao nhiêu. Không
mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà th́ gần như tất
cả. Đàn ông ghét đă đành, đàn bà cũng ghét theo. Ghét ngay
từ những năm1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ
Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu
chỉ là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng
với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà
trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ
sinh đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài
đó.
Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép
miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm ǵ đâu? Không làm
cũng chết chỉ v́ bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá
mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường
nhịn. Đàn ông nào nó chịu được.
Có lẽ chúng ta lại cần đến lời bàn của
cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu xem sao.
Theo cụ Đoàn Thêm:
– Dù không làm hay chưa làm việc ǵ có
hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào
việc chính quyền.
– Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với
h́nh ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ư nhị hiền
hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
– Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, theo cụ Đoàn Thêm
là nỗi ác cảm với bà là do người đă đẹp mà lại muốn khoẻ và
hách nữa th́ quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu th́
người ta c̣n nhẫn nhịn chờ đợi, nhưng đối với bà th́ ngay cả
sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ.
– Nên dù trái hay phải, gnười đàn bà VN muốn vội sống theo
gương đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể
được yên thân trên một đất nước mà nhiều người c̣n ghê sợ
những Vơ Hậu và những Từ Hy.
– Tâm lư số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nh́n thấy
những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và
việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho dư luận chỉ
trích nghiêm ngặt.
Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó.
Người ghét cứ ghét, cứ mỗi ngày mỗi nhiều thêm do cái thể
chế tam đầu chế, cộng thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đ́nh
Nhu.
Những người ngưỡng mộ và quư mến bà
chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có
người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. V́ không ai có đủ
tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đă không làm cho
đến khi ông ĺa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất
nết” như bà Nhu nó khó lắm. Tôi hiểu.
Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên
đă tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long
sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lơa
với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những điều bôi
nhọ bà Nhu của Nguyễn Đắc Xuân. Tôi chỉ yêu cầu một cô nữ
sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân
viết là đúng hay sai. Nói sai dĩ nhiên là không dám nói. Nói
đúng th́ hóa ra đồng lơa bôi nhọ. Trả lời khôn ngoan nhất là
không nhớ. Không nhớ ǵ hết.
Theo quư vị độc giả, tôi phải nghĩ thế
nào về những sinh viên đă im lặng, không dám lên tiếng về
những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân?
Nhưng nếu chúng ta có thể tạm quên đi
tất cả những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi
nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nh́n lại kể từ tháng 11/1963 đến
nay bà Nhu đă làm ǵ? Đă nói ǵ? Đă viết ǵ? Và đă sống như
thế nào?
Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào
bóng tối. Không nói. Cắt đứt mọi liên lạc với mọi người
trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và
Nhu. Một vài người đă có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ,
Lê Châu Lộc đều nhận thấy bà sống cuộc đời ẩn dật và sống
chết với quá khứ đó. Ai hiểu được tâm trạng và nỗi buồn, nỗi
đau của bà gần 50 năm này?
Và trong thời gian đó, bà đă sống đúng
nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đă tẩy rửa
những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?
Kể như bà đă chết cùng với hai anh ông
Diệm Nhu. Đối với bà, cuộc sống đă không c̣n nữa. Sự im lặng
của bà mang nhiều ư nghĩa: Đắng cay và tủi hận.
Những ai từng kết án bà th́ xin nhớ
rằng nếu bà là loại người tham tiền cố vị, không tư cách hay
tệ hơn nữa trăng hoa, mất nết… Chúng ta sẽ thấy một bà Nhu
sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau
01/11/1963.
Nhưng ngay những kẻ thù oán, chuyên đặt
điều nói xấu bà cũng không có được bằng cớ nhỏ nhoi ǵ để
bôi nhọ bà.
Bà sống ẩn dật một thời gian ở Ư rồi
sang Pháp mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê
lấy tiền tiêu xài. ngày ngày đi lễ nhà thờ, lấy kinh nguyện
làm lẽ sống.
Một con người như thế, chịu biết bao
điều sỉ nhục, biết bao điều tệ bạc, phản trắc về thế thái
nhân t́nh.
Nhân cách ấy, cách chọn lựa lối sống
ấy, không phải là dễ, không phải ai cũng làm được. Và chỉ
cần nh́n lại những tháng ngày sau 1963, tôi nghĩ thật mấy ai
đă làm được như bà?
Người ta đồn bà đang viết nhật kư. Mong
là như vậy . Ông Lê Châu Lộc có nói với tôi là bà viết nhiều
lắm. Tôi chỉ biết vậy.
Trong cuộc sống này, trong suốt những
năm làm vợ ông Nhu. Tôi mường tượng h́nh ảnh mô tả của nhiếp
ảnh gia Trần Cao Lĩnh nói tới ánh mắt reo vui, âu yếm của
ông khi nh́n mẹ con bà Nhu ăn mặc chuẩn bị chụp h́nh. Đặc
biệt , ông nuông chiều cậu Út.
Đó là một gia đ́nh êm ấm.
Ông đă chết từ 02/11/1963.
Phần bà Nhu đă chết kể từ ngày ấy.
Nhưng bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất
cộng hoà và chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay.
Nghĩ đến hai người phụ nữ danh tiếng
tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng
hậu và bà Ngô Đ́nh Nhu, tôi không khỏi có chút so sánh và
ngậm ngùi, thương tiếc cho hai người phụ nữ tài sắc ấy mà số
phận dành cho họ không khỏi bất công.
Tôi quư mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu
và trân trọng quư mến bà quả phụ Ngô Đ́nh Nhu.
2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô
Đ́nh Nhu
Nguyễn Văn Lục (2010/10/20)
Cựu Nghị Sĩ Lê Châu Lộc nói về bà Ngô Đ́nh
Nhu
Thanh Phong/Viễn Đông (thực hiện)
Cập nhật lúc 7:25:20 PM – 26/04/2011
http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=10893&item=94
Như
Viễn Đông đă loan tin, bà Ngô Đ́nh Nhu, nhũ danh Trần Lệ
Xuân đă qua đời tại Roma, thủ đô Ư Đại Lợi, vào lúc 2 giờ
sáng Chúa Nhật lễ Phục Sinh 24-4-2011. Cuộc đảo chánh ngày
1-11-1963 xẩy ra lúc bà Nhu đang có mặt tại Hoa Kỳ để “giải
độc”, Anh chồng của bà là cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và phu
quân của bà là ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă bị phe đảo chánh
giết trên đường từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu. Từ
đó đến nay bà sống ẩn dật tại Pháp và Ư, qua đời tại một
bệnh viện ở thủ đô Ư Đại Lợi. Sau cuộc đảo chánh, nhiều
người đă viết sách nói về bà Nhu với nhiều ẩn ư.
Để t́m
hiểu về bà, ngày 25-4-2011, chúng tôi đă phỏng vấn cụ Cao
Xuân Vỹ, nguyên Tổng Trưởng Thanh Niên Đệ Nhất Cộng Ḥa và
ông Lê Châu Lộc, cựu Tùy Viên của cố Tổng Thống VNCH Ngô
Đ́nh Diệm và cựu Nghị Sĩ Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Riêng
cuộc phỏng vấn cụ Cao Xuân Vỹ, nội dung những lời cụ nhận
xét về bà Ngô Đ́nh Nhu cũng tương tự như cuộc mạn đàm giữa
cụ và ông Vơ Long Triều (Viễn Đông đă đăng trong số báo hôm
qua 26-4-2011). Chỉ có một điều cụ tiết lộ cho chúng tôi là
làm cách nào Luật Sư Trương Phú Thứ được gặp bà Ngô Đ́nh Nhu
để viết hồi kư. Cụ Cao Xuân Vỹ nói: “Từ hồi đảo chánh tới
giờ, bà không tiếp ai cả. Ông Thứ đến tôi mấy lần, năn nỉ
tôi giới thiệu cho ông được gặp bà Ngô Đ́nh Nhu, nể t́nh tôi
mới chỉ vẽ cho ông Thứ là hăy lên Đà Lạt, t́m đến căn nhà
của bà Nhu đang xây dở dang, chụp tấm ảnh rồi đem qua bên
đó, nói là mới ghé thăm căn nhà của bà, có chụp tấm ảnh đem
lại biếu bà, v́ khi xưa bà Ngô Đ́nh Nhu có mua một căn nhà
trả góp tại Đà Lạt, bà cho tu sửa nhưng chưa xong th́ xẩy ra
đảo chánh, và bà vẫn mong ước làm sao được nh́n thấy căn nhà
đó”.
Theo cụ
Vỹ, ông Trương Phú Thứ đă làm theo lời cụ Vỹ chỉ vẽ, và đă
được gặp bà Ngô Đ́nh Nhu, c̣n việc làm sao ông thực hiện
cuốn Hồi Kư cho bà, th́ phải hỏi Luật Sư Trương Phú Thứ.
Sau đây
là nôi dung cuộc phỏng vấn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc.
Viễn
Đông: Xin chào
Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Theo chỗ chúng tôi được biết, ông từng
là Tùy Viên cho cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, xin ông vui
ḷng cho độc giả nhật báo Viễn Đông được biết những ǵ ông
biết về bà Ngô Đ́nh Nhu.
Nghị
Sĩ Lê Châu Lộc:
OK, tôi biết cái ǵ th́ tôi nói nghe, tôi không có phịa ra
được, tánh tôi hồi đó tới giờ là như vậy, tôi biết th́ tôi
nói, không biết th́ tôi dựa cột nghe chứ không như mấy tay
con nít, hồi đệ nhất cộng ḥa mới đi học lớp chót, mà nói
chuyện ông Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cứ như nằm ở dưới giường
của ông ấy vậy.
Viễn
Đông: Từ sau cuộc
đảo chánh 1-11-1963 đến nay, đă có lần nào bà Ngô Đ́nh Nhu
liên lạc với ông không?
NS.
Lê Châu Lộc: Có,
nhưng mới gần đây thôi. Tôi xin nói rơ là hồi đó bà đi qua
Mỹ để giải độc th́ ở nhà xẩy ra cuộc đảo chánh cho nên suốt
thời gian đó cho đến măi mấy tháng trước đây tôi mới được
nói chuyện lại với bà, là nhờ một dịp may có người bạn
chuyển lời của tôi chào thăm bà, nên sau đó bà gọi và tôi
nói chuyện với bà, trước khi bà vào nhà thương mấy tuần nay,
chỉ có lần duy nhất này thôi, gần 50 năm tôi mới lại nói
chuyện với bà.
Viễn
Đông: Trong cuộc
nói chuyện này, bà Ngô Đ́nh Nhu có trao đổi với ông vấn đề
ǵ đặc biệt không, thưa ông?
NS.
Lê Châu Lộc: Câu
đầu tiên bà nói: “Lâu quá tôi mới nhớ lại ‘ông sĩ quan’”,
giống như bà thường kêu tôi ở dinh Độc Lập hay Dinh Gia Long
vậy thôi, v́ tôi là sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, nên bà
tránh kêu tên tôi mà kêu là ông sĩ quan như người Việt ḿnh
vẫn hay kêu như vậy. Sau đó, tôi và bà có nói chuyện về một
số tài liệu mà bà nhờ người này, người nọ edit giùm, tôi
cũng có phụ trong đó một phần, phần nhỏ thôi, tại v́ tôi
không có th́ giờ. Chỉ hỏi thăm sức khỏe và nói mấy chuyện đó
chứ không đề cập chuyện ǵ đặc biệt, mới mẻ hay giựt gân cả.
Viễn
Đông: H́nh như bà
Ngô Đ́nh Nhu có viết hồi kư, Nghị sĩ có biết việc đó không?
NS.
Lê Châu Lộc: Thật
ra nhiều người đồn đăi lâu rồi, tôi biết ông Trung Tướng
Khánh xăm xê viết hồi kư của bà Nhu, nhưng tôi coi ra th́
chẳng phải hồi kư ǵ, nhưng từ đó tới giờ nhiều người lăm le
để có cái lợi ǵ đó ḿnh không biết, nhưng cái này cũng có
thể gọi là hồi kư, cũng có thể coi như là những lời ghi lại
phần lớn tâm tư của bà khi bà sống cuộc đời cô đơn, góa bụa
như vậy, trong đó nó thể hiện cái “tâm đạo” của bà, những
lời than thở, cầu nguyện, khóc lóc với Thiên Chúa về những
nỗi bất công mà dân Việt Nam ḿnh phải chịu, về những nỗi
bất công mà gia đ́nh bên chồng bà phải chịu, rồi bà hết sức
cầu xin cho nước Việt Nam ḿnh sớm trở lại thời kỳ thanh
b́nh mà dân tộc Việt Nam ḿnh được người ta kính trọng. Đại
loại cái đề tài cầu nguyện của bà nó xoay quanh cái đau khổ
của dân tộc Việt Nam, mà bà là cái người gần gũi nhất cho
nên gánh chịu những hậu qủa tàn khốc nhất, thành thử đó là
cái tôi biết được, c̣n nói về vấn đề chánh trị, những cái
giựt gân, v.v., th́ không có. Cũng có thể có một vài ba vấn
đề sinh hoạt quốc gia nhưng không có ǵ đặc biệt cả.
Viễn
Đông: Trong tập
tạm gọi là hồi kư đó, có chỗ nào bà Ngô Đ́nh Nhu tỏ dấu
trách móc, oán hận những người làm hại gia đ́nh bà?
NS.
Lê Châu Lộc: Tôi
không cảm thấy có sự oán hận như anh dùng chữ đó, chữ buồn
phiền, khóc than th́ có thể có, đó là cái tâm tư muốn thấy
lại một sự thật mà người ta đă chôn vùi hoặc trả lại cho dân
tộc Việt Nam ḿnh công lư và ḥa b́nh, mà ḿnh đă đánh mất
do một số người ngu dại làm sai, th́ cái đó có. C̣n bảo rằng
cái hận thù th́ tôi đọc tôi không thấy bà đề cập đến, mà tôi
có cảm giác như đọc một cuốn hồi kư của một nữ tu.
Viễn
Đông: Theo như
Luật Sư Trương Phú Thứ cho biết, những ngày gần đây ông ấy
vẫn thường xuyên liên lạc với bà Ngô Đ́nh Nhu để hoàn thành
cuốn Hồi Kư, và sẽ cho ra mắt vào tháng 9 hay tháng 10 này;
việc đó như thế nào, thưa ông?
NS.
Lê Châu Lộc:
Đúng.
Viễn
Đông: Như vậy,
chính tay bà Ngô Đ́nh Nhu ghi hồi kư hay bà nói để Luật Sư
Trương Phú Thứ viết?
NS.
Lê Châu Lộc: Đa
số do chính tay bà viết, cũng có một phần do ông Thứ thâu
lại khi ông trực tiếp thăm viếng bà.
Viễn
Đông: Một số sách
báo viết rằng, khi làm Dân Biểu, là vợ của ông Cố Vấn Ngô
Đ́nh Nhu, đôi khi bà có những cử chỉ, hành động có vẻ cao
ngạo trong cách cư xử với Tổng Thống hoặc phu quân của bà.
Là người Tùy Viên Tổng Thống, thường xuyên có mặt trong
Dinh, xin ông cho ư kiến?
NS.
Lê Châu Lộc:
Những người nói hay viết đó, anh có điều tra không? Anh có
hỏi: Ông là ai, bà là ai? Chú là ai, cậu là ai? Mà ở đó vào
lúc nào, biết được, thấy được và nghe được vào lúc nào hay
không? Chắc là không, phải không? Nếu anh nói được cho tôi
người nào đó trực tiếp nghe được và nói th́ tôi sẵn ḷng tôi
nghe, c̣n người ta viết mà họ không tham khảo, không dẫn
chứng được ḿnh là ai, không chứng minh được th́ cái tin đó
ở đâu th́ không có giá trị ǵ, chúng ta đừng nên để ư tới
làm ǵ.
Về vấn
đề cư xử th́ ở Dinh Gia Long hay Dinh Độc Lập, gia đ́nh ông
bà Cố vấn cũng đôi khi qua lại nhưng không qua lại lu bù,
đâu đó có nề nếp hết.
Khi mà
bà Ngô Đ́nh Nhu muốn tham khảo Tổng Thống th́ cũng phải qua
sĩ quan tùy viên là chúng tôi, thường bà nói: “Ông sĩ quan,
tôi có một vần đề muốn xin tŕnh với Tổng Thống, ông sĩ quan
thấy Tổng Thống có rảnh lúc nào?”. Th́ tôi coi cái chương
tŕnh làm việc của Tổng Thống ngày đó, tôi nói: “Dạ không,
bữa nay không có” hay “Bữa nay có lúc mấy giờ…”. Th́ bà nói:
“Cũng được, thôi th́ ông tŕnh với Tổng Thống cho tôi xin
gặp Tổng Thống chút được không”? Tôi vào tŕnh, nếu Tổng
Thống cho th́ tôi mời bà vô c̣n không th́ thôi, vậy đó chứ
không có chuyện ra vô lu bù. Tôi xác nhận hoàn toàn không
có.
Thứ hai
là cái cử chỉ của bà đối với người chồng là ông Cố Vấn Ngô
Đ́nh Nhu thế nào tôi không biết, nhưng mà hai vợ chồng ông,
tôi không thấy bao giờ lớn tiếng. Cái này có lẽ phải hỏi
những anh em cận vệ ở đó, chứ tôi không biết chuyện pḥng
the của hai ông bà.
Thứ ba
là đối với Tổng Thống, bà một mực kính trọng, khi Tổng Thống
nói không có rảnh th́ bà vui vẻ ra về ngay. Có đôi khi Tổng
Thống nói với tôi: “Anh bảo bà ấy chờ”, th́ bà chờ. Đó là
sự thật về cái nề nếp gia giáo trong gia đ́nh họ Ngô. Ngay
cả ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu muốn lên tŕnh diện với Tổng
Thống không phải cứ tự tiện vô, ông cũng phải qua sĩ quan
Tùy Viên là chúng tôi, thường ông hỏi: “Anh Lộc ơi, cụ rảnh
không?”. Th́ tôi nói, thí dụ cụ rảnh lúc 12 giờ 15, th́ ông
Cố vấn nói, “Tôi chỉ nói chuyện với cụ khoảng 10, 15 phút
thôi”, và tôi vô tôi thưa, th́ Tổng Thống nói, ừ mời ông Cố
Vấn vào. Và tôi thấy hai ông rất kính trọng nhau, tôi có thể
quả quyết với anh về điều này, người nào nói ông Nhu hay bà
Nhu lạm quyền muốn leo lên đầu Tổng Thống là không đúng.
Chúng ta nên nhớ, thời đó là thời kỳ chúng ta chống cộng mà,
chúng đâm bị thóc, thọc bị gạo, cố xuyên tạc, bôi nhọ, nó
dùng chiến thuật tuyên truyền để mà khuynh đảo miền Nam.
Bây giờ
ở vào thế chống cộng khó khăn ḿnh mới thấy nó dùng truyền
thông, nó bỏ 500 triệu đô la để nó thi hành cái đường lối
thâm nhập, nó khuynh đảo ḿnh. Hồi trước người ta không biết
cho nên cứ nghe rồi đồn ra mà không chịu t́m hiểu sự thật ǵ
hết.
C̣n
những người Mỹ mà nói ra những điều đó, anh coi kỹ lại đi,
những người Mỹ đó có bao giờ vào thăm viếng một gia đ́nh
Việt Nam không hay đáp máy bay xuống là đến đường Tự Do, nói
chuyện với mấy người đổi tiền, với mấy cô bán bar lấy tin
tức về Việt Nam bằng cách đó, th́ họ về họ viết trong sách
vở, báo chí và ai cũng cứ tin theo đó mà không có biết cái
chuyện thật như thế nào. Nên riêng với anh, tôi xin thưa,
cái chuyện liên hệ giữa gia đ́nh ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, kể
cả bà Ngô Đ́nh Nhu với Tổng Thống là một cái liên hệ Trên,
Dưới rơ rệt.
Viễn
Đông: Có một thời
gian, ông Trần Văn Chương (thân phụ bà Ngô Đ́nh Nhu) làm Đại
Sứ VNCH tại Hoa Kỳ xin từ chức, nghe nói v́ lư do chế độ của
TT. Ngô Đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo. Điều đó như thế nào,
thưa ông?
NS.
Lê Châu Lộc:
Chuyện đàn áp Phật giáo có hay không, anh trả lời tôi nghe!
Hồ sơ của Ủy Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc nó c̣n đó. Chuyện
của ông bà Chương, rơ ràng lúc đó là hiểu sai. Từ hiểu lầm
hoặc nó bị mờ tối ǵ đó như thế nào không biết, màcứ dựa
theo tin tức của người Mỹ do những hỏa mù người Mỹ phóng ra,
rồi xúm nhau người quốc gia Việt Nam ḿnh cấu xé cho đến độ
người Mỹ đem 500.000 quân nhảy vào rồi bỏ chạy có cờ, rồi bỏ
mặc ḿnh kéo nhau xuống biển mà chết, có không? Cái chuyện
ông bà Trần Văn Chương làm, ngay chính bây giờ những người
thân thuộc trong gia đ́nh ông bà cũng rất khổ tâm!
Viễn
Đông: Giả sử khi
cuộc đảo chánh xẩy ra, bà Ngô Đ́nh Nhu vẫn ở trong nước th́
theo nhận xét của ông, tánh mạng của bà Ngô Đ́nh Nhu có an
toàn không?
NS.
Lê Châu Lộc: Thật
sự tôi không biết rơ cái quan điểm của người Mỹ đối với bà
Ngô Đ́nh Nhu, nhưng đối với Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đ́nh
Nhu th́ rơ ràng. Trong tài liệu đă giải mật, người Mỹ ra
lệnh giết anh em Tổng Thống nhưng không thấy ra lệnh giết bà
Ngô Đ́nh Nhu.
Viễn
Đông: Một cách
tổng quát, xin Nghị Sĩ Lê Châu Lộc cho độc giả báo Viễn Đông
biết cảm nghĩ riêng của ông về bà Ngô Đ́nh Nhu.
NS.
Lê Châu Lộc: Từ
lâu tôi đă nghĩ thế này, chứ không phải sau khi bà Nhu qua
đời, tôi cảm thấy buồn phiền và hối hận, v́ cái chuyện dân
ḿnh đă không khôn ngoan đủ để mà có sự nhận xét về người,
về việc, về đường lối, sách lược và ư đồ của cộng sản để rơi
vào chính sách hỏa mù mà nguời bị chỉ trích ghê gớm nhất là
bà Ngô Đ́nh Nhu, tôi phải nói thật là tội nghiệp hết sức!
Tôi không biết bà nhiều. Trong thời gian tôi làm hơn 4 năm
có thể nói tôi gặp bả chừng lối năm, bảy lần ǵ đó, nói
chuyện đôi ba lần. Ở trong những buổi tiếp tân, dạ yến, dạ
tiệc ǵ th́ bà giữ vai tṛ Đệ Nhất Phu Nhân th́ tôi thấy bà
là một người hiểu biết, khôn ngoan lắm mà bà giữ vai tṛ của
bà là vợ hay là em dâu Tổng Thống rất đàng hoàng, bà giữ vai
tṛ đệ nhất phu nhân bên cạnh Tổng Thống Diệm rất là xuất
sắc. Bà có kiến thức tây học và đông phương, do đó ông bà
đại sứ các nước Nhật Bổn, Ấn Độ, Đại Hàn hay Đài
Loan, v.v., ai cũng rất kính nể bà. Đối với những người Tây
phương như ông bà đại sứ Pháp, ông bà đại sứ Mỹ, Anh họ cũng
quư trọng bà vô cùng, bởi v́ bà bặt thiệp, lanh lợi và khôn
ngoan, nhất là trong cái áo dài, gọi là áo dài hở cổ Ngô
Đ́nh Nhu, th́ tôi thấy được một con người đàn bà có tinh
thần tự trọng, có sáng kiến y như là người mẹ, người vợ,
người chị, người em Việt Nam nào khác vậy, rất là có sự quán
xuyến công việc. Bà làm việc đến nơi đến chốn.
Bà thảo
ra Luật Gia Gia Đ́nh, tôi cho là một cái luật tiến bộ cho
đến giờ này, ngày hôm nay vẫn c̣n giá trị, chứng tỏ Việt Nam
ḿnh đă có quan niệm về phụ nữ đi trước Liên Hiệp Quốc cả 50
năm. Tại sao tôi nói vậy? Bởi v́ cái Luật Gia Đ́nh của bà
Ngô Đ́nh Nhu mục đích là để bảo vệ cho quyền lợi người phụ
nữ Việt Nam, bảo vệ trẻ con Việt Nam và bảo vệ cho gia đ́nh
Việt Nam. Ấy thế mà với Mỹ và cộng sản nó thành ra cái luật
cấm đàn ông Việt Nam lấy hai vợ. Khổ nỗi, cái sự tuyên
truyền của nó khéo léo cho đến độ mà chính người phụ nữ Việt
Nam ḿnh cũng chống đối cái luật đó mới chết chứ! Bây giờ
ḍm lại, thấy cái luật đó thấy tiếc quá! Bây giờ cái trào
lưu nhân loại nó tiến bộ, xuyên qua Liên Hiệp Quốc, nó đă
thể hiện cái tinh thần phải kính trọng người phụ nữ, phải
thương yêu, bảo bọc cho trẻ con, và nhiều quốc gia, thấy
hoàn cảnh gia đ́nh nó suy đồi th́ đă cố gắng gây dựng lại
cái gia đ́nh như là nền tảng của một xă hội lành mạnh.
V́ vậy
nhân bà Nhu nằm xuống, tôi nhớ tới một trong nhiều việc bà
làm, đó là việc thảo ra Luật Gia Đ́nh, và tôi mong rằng cái
dịp này sẽ gây lại sự chú ư của thế hệ phụ nữ Việt Nam ở
trong nước cũng như ngoài nước, để nhớ lại cái thân phận của
ḿnh, và để nhớ lại rằng đă có một thời kỳ, ḿnh đă có một
bộ luật mà hiện tại nó vẫn c̣n đó, có thể phải tiến hành nữa
để làm sao cho người phụ nữ Việt Nam được có chỗ xứng đáng
như là Liên Hiệp Quốc đă thể hiện như trào lưu của tư tưởng
tiến bộ của nhân loại. Đó là chuyện làm tôi nhớ lại trong
vai tṛ của bà Cố vấn ở trong đó, có những cách cư xử, sự
khôn ngoan và trong vai tṛ Dân Biểu, bà đă làm ǵ và đă
chứng tỏ bà là ai? Xuyên qua những lời mà tôi đọc ở mớ giấy
bà viết, phần lớn bằng tiếng Pháp, tôi thấy bà là người có
cái “tâm đạo” lớn, hết sức sâu sắc.
Suốt
thời gian đó tôi không thấy có sự cay cú mà là sự khóc lóc,
cầu nguyện để không phải xin cho ḿnh, bởi v́ bà sống cuộc
đời như là ẩn tu, có đôi khi một ngày bà chỉ uống nước thôi,
cái này ông Thứ ông làm chứng được, bà chỉ cầu nguyện xin
làm sao để Ơn Trên thương đến dân Việt Nam, trả lại cho dân
Việt Nam cái công lư để nó có thể đi tới ḥa b́nh. Không có
công lư cho dân tộc Việt Nam, chúng ta không có ḥa b́nh.
Dân tộc Việt Nam bị coi như một công cụ từ đời Tây thuộc rồi
Mỹ thuộc, chỉ bắt đầu khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa xây dựng một
cái xă hội, trong đó có sự công bằng, nhân vị con người được
tôn trọng rơ rệt trong đời sống quốc gia. Người phụ nữ được
kính trọng, nên anh thấy một bước rất dài, từ thời Pháp
thuộc tới thời kỳ Đệ Nhất Cộng Ḥa, bao nhiêu người phụ nữ,
không riêng ǵ chỉ làm bác sĩ, giáo sư mà vào quốc hội, làm
nghị sĩ, dân biểu, làm những việc lớn trong xă hội. Con
đường đó bị đứt đoạn v́ cuộc đảo chánh năm 1963, thành ra
nhân dịp này tôi nhớ lại vài đặc điểm đó của bà Cố Vấn Ngô
Đ́nh Nhu, nhưng đặc biệt tôi nhấn mạnh đến con người đó, có
thể khó hiểu đối với một vài người, nhưng đối với tôi, giọng
nói của bà v́ có pha lẫn Bắc, Trung, Nam, bà là con của gia
đ́nh, người cha là Bắc, mẹ là Trung, sống ở trong Nam, lớn
lên ở trong Nam, đi học trường Pháp cho nên ngôn ngữ có thể
có những cái bất lợi, người ta nghe nó có hơi trái tai; cách
tŕnh bày làm cho người ta có thể nói là mất cảm t́nh. Hoặc
là v́ không có đủ thời giờ để giáo dục người phụ nữ Việt
Nam, giáo dục người dân Việt Nam về quyền lợi thiết yếu của
người phụ nữ và của dân Việt Nam, cho nên người ta hiểu lầm.
Nói một cách chung, những công tŕnh mà TT. Ngô Đ́nh Diệm và
Đệ Nhất Cộng Ḥa cố gắng thành đạt, dĩ nhiên có sự thiếu sót
gây nên sự đổ vỡ. Có dịp nào khác chúng ta sẽ nói nhiều hơn.
Hôm nay qua câu hỏi của anh, tôi chỉ đưa ra một vài khía
cạnh như vậy.
Viễn
Đông: Xin chân
thành cám ơn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc, hẹn gặp ông vào dịp khác.
NS.
Lê Châu Lộc: Thân
chào các anh chị em trong ṭa soạn và độc giả nhật báo Viễn
Đông.
———————————
Vài chuyện về bà Ngô Đ́nh
Nhu
Cập nhật lúc 4:32:00 AM – 26/04/2011
http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=10880&item=94
Ông
Vơ Long Triều tṛ chuyện cùng ông Cao Xuân Vỹ
Chiều
Thứ Hai, 25-4-2011, được tin bà Ngô Đ́nh Nhu, nhũ danh Trần
Lệ Xuân, qua đời hôm Chủ Nhật, thọ 87 tuổi, hai người bạn là
nhà báo Vơ Long Triều và ông Cao Xuân Vỹ đă có một buổi mạn
đàm về bà Ngô Đ́nh Nhu.
Ông Cao
Xuân Vỹ là cựu tổng giám đốc Thanh Niên, thời Đệ Nhất Cộng
Ḥa, người rất thân cận với gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm – Ngô
Đ́nh Nhu. Ông Vơ Long Triều đă cho phép nhật báo Viễn Đông
đăng báo cuộc mạn đàm này.
Ô.
Vơ Long Triều:
Thưa anh, bà Ngô Đ́nh Nhu mới qua đời, anh biết chưa?
Ô.
Cao Xuân Vỹ:
Thưa, tôi có biết rồi. Bên Tây có gọi điện thoại báo cho tôi
biết rồi.
Ô.
Vơ Long Triều:
Báo chí nói bà Ngô Đ́nh Nhu để lại nhiều ấn tượng cho người
Việt Nam, có cái đúng, có cái sai, nhưng mà ḿnh cũng mừng
cho bà lúc sắp qua đời có con, có cháu đầy đủ bên cạnh và
được lănh phép xức dầu Thánh. Không biết khi c̣n trẻ, bà Nhu
có giữ đạo giáo đàng hoàng không?
Ô.
Cao Xuân Vỹ:
Không những bà giữ đạo đàng hoàng mà c̣n giữ đạo khắt khe
nữa là khác.
Ô.
Vơ Long Triều:
Vậy th́ quá tốt, nhưng mà gia đ́nh bà là Phật giáo thành ra
gặp bên nây là Công giáo, mà Công giáo rất là đạo đức thành
ra không biết bà có làm phép giao với ông Nhu hay là được
“chuẩn”?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Có
làm phép giao đàng hoàng v́ gia đ́nh bên đây khắt khe lắm.
Nghiêm lắm.
Ô.
Vơ Long Triều:
Khi người ta nói bà lạm quyền một phần tại v́ là phu nhân
của ông Ngô Đ́nh Nhu. Sự lạm quyền đó, bây giờ quá khứ đă
trôi qua, ḿnh nghĩ lại, nó có lợi cho đất nước hay nó có
hại cho đất nước?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Bà
Nhu có hơi văn minh một tư, muốn thể hiện lối sống mới một
tư, thấy bà học trường đầm thành ra nhiều người không ưa,
ghét bà rồi nói này nói kia chứ thực ra bà nguyên tắc lắm
đó. Trong gia đ́nh bà, bà nghiêm khắc lắm. Con bà, bà dạy
theo kiểu lễ giáo Việt Nam theo Nho giáo, tôi ở bên cạnh tôi
biết.
Ô.
Vơ Long Triều: Bà
Nhu bị nhiều tiếng oan lắm; có một vụ bà tuyên bố không biết
có thiệt hay không, nó hơi bừa băi, lúc mà ông Thích Quảng
Đức tự thiêu, bà nói cái này là “barbecue”, có không anh?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Bà
có nói câu này, có xúc phạm đến tôn giáo. Tánh của bà rất
thẳng thắn và có thể bà ảnh hưởng văn hóa Tây phương, v́ xưa
bà học trường đầm mà.
Ô.
Vơ Long Triều:
C̣n vụ ngày xưa, em bà ly dị hay ǵ đó, tôi không biết,
nhưng mà “thôi” với anh luật sư Nguyễn Hữu Châu. Hồi tôi qua
Pháp, tôi có gặp ảnh. Có phải tại v́ vậy mà bà Nhu ra Luật
Gia Đ́nh, một vợ một chồng?
Trần Lệ
Chi, chị ruột bà Nhu (1) Nguồn: Corbis
Ô.
Cao Xuân Vỹ:
Không phải v́ vụ em bà mà bà Nhu đă chống quan niệm “trai
năm thê bảy thiếp” từ trước rồi, v́ mấy ông quan của ḿnh
cứ vợ nhất, vợ nh́, vợ ba, nên bà ra Luật Gia Đ́nh. Theo tôi
cái này là do giáo dục gia đ́nh của bà rất kỹ chứ không phải
v́ vụ em bà đâu.
Ô.
Vơ Long Triều:
Tôi có nghe nói rằng ông thân sinh của bà là Đại Sứ VNCH tại
Mỹ, vào lúc Phật giáo được coi là bị đàn áp th́ ông cụ từ
chức để phản đối, vụ đó có không, thưa anh?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Ông
Trần Văn Chương từ chức không phải vụ đó, nhưng v́ ông cảm
thấy không làm đủ vai tṛ một người Đại Sứ tại Mỹ.
ĐS Trần Văn Chương (1956), cha bà bà Nhu Nguồn: Corbis
Ô.
Vơ Long Triều: Từ
sau cuộc đảo chánh 1963 đến nay, có khi nào anh gặp lại bà
Ngô Đ́nh Nhu không?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Hồi
tôi qua Pháp, tôi có tới cái chỗ bây giờ tôi quên mất đi, bà
có hai cái nhà do một người tư bản Pháp mua biếu bà, nó là
cái Apartement.
Ô.
Vơ Long Triều:
Anh có biết bà đang viết một cuốn hồi kư không?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Hồi
qua Pháp gặp bà, tôi biết bà có viết hồi kư.
Ô.
Vơ Long Triều:
Bây giờ anh là chứng nhân lịch sử. Bữa nào xin gửi anh một
số câu hỏi về chiến tranh Việt Nam. Tôi có một Show trên đài
truyền h́nh nói về chiến tranh Việt Nam, thành ra thế nào
tôi cũng hỏi anh vài câu. Hôm qua được tin bà Nhu, thấy cũng
tội nghiệp cho bà.
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Bà
Nhu theo tôi biết, tánh bà rất thẳng thắn, không nể nang ai
hết, nên đôi khi chính nhiều bà làm việc chung với bà cũng
không ưa bà, nhưng đó là cái bản tính của một người, vừa
được giáo dục theo lễ giáo Á Đông, lại vừa hấp thụ nền giáo
dục Tây phương nên như vậy.
Ô.
Vơ Long Triều:
Theo anh, cách cư xử của bà Nhu với tư cách là em dâu của
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và vợ của ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu
có cư xử đàng hoàng với những người cộng sự viên của chế độ
hay là hơi kiêu căng?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Ḿnh
phải nói trong lănh vực nào. Chứ c̣n trong gia đ́nh họ Ngô,
th́ là nề nếp phong kiến. Bà Nhu vẫn cư xử theo cá tính nề
nếp gia đ́nh phong kiến, lễ giáo chứ không cư xử theo kiểu
Tây phương mà bà đă hấp thụ được, không hề hách dịch, kiêu
căng.
Ô.
Vơ Long Triều:
Khi bà Nhu đưa ra cái mốt mới của chiếc áo dài cổ hở, bị
nhiều người chỉ trích dữ dội; theo tôi, đó cũng là cách làm
đẹp của phụ nữ, nhưng c̣n anh, anh có tán thành không?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Bà
ưng tiến bộ mà. Bà cũng muốn ra vẻ ta đây là văn minh. Bà
lấy cái kiểu áo Lemur. Tôi nói lại, bà Nhu tánh rất thẳng
thắn, nên dễ mất ḷng nhiều người, dễ mất ḷng giữa các bà
với nhau ấy, v́ bà pha Tây vô. C̣n các bà khác nhiều khi
theo phong kiến.
Ô.
Vơ Long Triều:
Tôi có người bạn là bà Lê Quang Kim, bà này từ Pháp về, hoạt
động chung trong Hội Phụ Nữ của bà Nhu một thời gian, sau bà
Kim rút ra và chỉ trích dữ lắm! Bà Nhu có một cô con gái là
Ngô Đ́nh Lệ Thủy, được cưng nhất, theo anh, cô này có đàng
hoàng không, v́ tôi thấy có một bài của một người bạn học
cùng lớp với Lệ Thủy, rồi hoạt động Công giáo ǵ đó, mà gần
đây có người gửi cho tôi cái email, rất kính nể Lệ Thủy, anh
thấy sao?
Ô.
Cao Xuân Vỹ: Cô
Lệ Thủy là người được ông Nhu rất cưng, và giáo dục rất kỹ,
cô rất lễ phép và theo phong tục Việt Nam.
Ô.
Vơ Long Triều:
Cám ơn anh rất nhiều.