|
|
Sử dụng công hàm của Phạm Văn Đồng làm
bằng chứng, Trung Quốc đă bộc lộ điểm yếu tạo cơ hội cho
Việt Nam đ̣i lại quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa
Lê Văn Cường/Bauxite
Vietnam
Phân tích sự việc
chính quyền Trung Quốc (TQ) sử dụng công hàm năm
1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (TT PVĐ) làm
bằng chứng chứng minh chính Việt Nam (VN) cũng tán
đồng Hoàng Sa và Trường Sa (HS–TS) thuộc chủ quyền
“không thể tranh căi” của TQ, chúng ta thấy rơ ư đồ
thâm hiểm, tinh vi nhưng cực kỳ xuẩn ngốc của chính
quyền TQ.
Ư đồ thâm hiểm, tinh vi nhưng cực kỳ xuẩn ngốc của
chính quyền TQ khi sử dụng công hàm năm 1958 của cố
TT PVĐ làm chứng cứ ở chỗ tự nó đă lộ ra việc TQ
không hề có bất cứ bằng chứng lịch sử nào chứng minh
quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của ḿnh, nên buộc
phải sử dụng công hàm năm 1958 của TT PVĐ và hy vọng
dựa vào cái phao lư thuyết Estoppel đă có thông lệ
áp dụng tại toà án quốc tế. Đại ư lư thuyết Estoppel
phán xét rằng: Anh không thể nói hai lời trái ngược
nhau, trước đây anh đă tuyên bố mảnh đất ấy là của
tôi, th́ nay anh không được phép tuyên bố ngược lại
mảnh đất đó là của anh. Trước đây TT PVĐ của VN đă
tán đồng, công nhận HS-TS thuộc chủ quyền của TQ th́
nay VN không được phép nói ngược lại. Lời nói ngược
lại của VN không có giá trị.
Lư thuyết Estoppel có giá trị áp dụng khi nước Cộng
ḥa xă hội Chủ nghĩa Việt nam (CHXHCNVN) và nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (VNDCCH) là một. Điều này
có thể làm cho các nhà lănh đạo nước CHXHCNVN lúng
túng, không biết nên xử lư thế nào! Nếu phủ định
nước VNDCCH không phải là nước CHXHCNVN th́ không
được, v́ không đúng với lịch sử. Nhưng nếu công nhận
nước VNDCCH và nước CHXHCNVN là một th́ lại sa vào
bẫy, lư thuyết Estoppel lập tức có giá trị áp dụng,
VN sẽ đuối lư không căi được trước Toà án Quốc tế.
Có thể v́ vậy Bộ Ngoại giao và Chính phủ Việt Nam
đành phải “ngậm hạt thị”, gây sự cố lỗi hẹn không
trả lời Kiến nghị của 18 vị nhân sỹ trí thức vào
ngày 13/7/2011 vừa qua, trong đó có mục quan điểm
của chính phủ VN đối với công hàm năm 1958 của cố TT
PVĐ.
Nếu đúng với lư do như trên chứ không phải v́ lư do
nào khác th́ 18 vị nhân sỹ trí thức gửi Kiến nghị
cũng sẽ thông cảm và huy động những tài trí đang ẩn
tàng trong nhân dân mách nước, trợ giúp.
Việc chính quyền TQ đang gây hấn, lấn chiếm tại biển
đông thuộc lănh hải VN ngày càng trầm trọng, nóng
bỏng cần phải khẩn trương giải quyết. May thay! Vấn
đề “ngậm hạt thị” khi đối chọi với thuyết Estoppel
và công hàm năm 1958 của TT PVĐ đă được một ông ẩn
danh nào đó đề cập tới. Ông ẩn danh phân tích t́nh
h́nh và lư luận rằng:
Không hiểu sao chính quyền VN cứ lo sợ hăo huyền, sẽ
không có chuyện xảy ra chiến tranh, xung đột đổ máu
nào đâu nếu Việt Nam cứ đàng hoàng yêu cầu TQ dừng
ngay việc gây hấn và phải trả lại những phần đă
chiếm tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa
năm 1988. Bởi lẽ nếu TQ gây sự, đụng đến VN, đồng
nghĩa với việc TQ lộ rơ bộ mặt bá quyền muốn làm bá
chủ thế giới, sẽ đụng đến toàn thể các nước yêu
chuộng hoà b́nh và công lư trên thế giới ngay. Một
cuộc chiến tranh bùng nổ, một bên đơn độc là TQ và
một bên là toàn thể thế giới bảo vệ cho lẽ phải và
sự công bằng. Chính quyền cộng sản cai trị nước CHND
Trung Hoa chắc chắn sẽ sụp đổ, lănh đạo TQ hiện nay
đủ trí khôn để nhận ra điều đó và cũng không muốn
điều đó xảy ra. Việt Nam hiện nay đang ở thế vô cùng
thuận lợi để đ̣i lại những ǵ mà TQ đă chiếm đoạt.
Đ̣i lại quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của VN đă bị
TQ chiếm đoạt năm 1974 và 1988 bằng cách nào? Rất
đơn giản, chính phủ Việt Nam cứ thẳng thắn và cương
quyết yêu cầu phía TQ phải rút hết người và các
phương tiện tại các quần đảo HS-TS trong ṿng 1
tháng để chính quyền VN tiếp quản. Nếu phía TQ không
đồng ư hoặc giả vờ đồng ư rồi cứ ở lỳ đó th́ buộc
ḷng chính phủ VN phải đưa ra toà án Liên Hiệp Quốc
phân xử.
Nếu đưa ra toà án Liên Hợp Quốc, chắc chắn TQ sẽ
thua kiện, v́ TQ không có bằng chứng lịch sử nào
chứng minh quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của TQ. TQ
chỉ dựa vào cái công hàm năm 1958 và thuyết
Estoppel. Cái công hàm năm 1958 và thuyết Estoppel
đă được hoá giải không thể áp dụng bằng lập luận:
Bất cứ nước nào trên thế giới, chính phủ nước đó
phải có trách nhiệm đảm bảo giữ ǵn an ninh cuộc
sống cho cộng đồng cư dân đang sinh sống tại lănh
thổ nước đó. Chính phủ nước VNDCCH phải có trách
nhiệm đảm bảo cuộc sống và giữ ǵn an ninh cuộc sống
cho cộng đồng cư dân sinh sống trên lănh thổ phía
Bắc Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Cộng hoà
(VNCH) phải có trách nhiệm đảm bảo giữ ǵn an ninh
cuộc sống cho cộng đồng cư dân sinh sống trên lănh
thổ phía Nam Việt Nam. V́ một lư do nào đó hai chính
phủ nước VNDCCH và chính phủ nước VNCH hợp nhất lại
với nhau thành một chính phủ mới th́ chính phủ mới
đó phải có trách nhiệm đảm bảo giữ ǵn an ninh cuộc
sống cho cộng đồng cư dân thuộc cả hai vùng lănh thổ
của cả hai nước VNDCCH và VNCH. Cụ thể nước VNDCCH
và nước VNCH hợp nhất thành nước CHXHCNVN th́ chính
phủ nước CHXHCNVN phải có trách nhiệm đảm bảo giữ
ǵn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân sinh sống
trên toàn bộ lănh thổ của cả hai miền Nam và Bắc
Việt Nam.
Qua đó, bất kỳ ai cũng nhận thức được rằng chính
quyền nước VNDCCH chỉ là một bộ phận, một chính
quyền địa phương phía Bắc thuộc nước CHXHCNVN từ năm
1976, (nước CHXHCNVN bao gồm và hợp nhất của hai
nước VNDCCH, lănh thổ địa phương phía Bắc và nước
VNCH, lănh thổ địa phương phía Nam). V́ chính phủ
nước VNDCCH chỉ là một chính quyền địa phương phía
Bắc nên mọi tuyên bố của chính phủ nước VNDCCH chỉ
có tính chất địa phương chứ không có tính chất đại
diện cho toàn thể nước CHXHCNVN và như tuyên bố của
chính phủ nước CHXHCNVN, nên không áp dụng được lư
thuyết Estoppel. Hơn nữa nước VNCH, lănh thổ địa
phương phía Nam ngày nay thuộc quyền quản lư của
chính phủ nước CHXHCNVN nên chính phủ nước CHXHCNVN
phải có quyền và có trách nhiệm với cộng đồng cư dân
sinh sống tại đây giải quyết những vướng mắc tồn
đọng của nước VNCH trước kia. Do đó lư thuyết
Estoppel cũng không áp dụng được trong trường hợp
chính phủ nước CHXHCNVN đại diện cho chính quyền địa
phương phía Nam ngày nay tức chính phủ nước VNCH
trước đây khởi đơn kiện đ̣i chủ quyền quần đảo HS-TS
đă bị TQ chiếm đoạt năm 1974 và năm 1988.
Quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của nước VNCH, chính
quyền địa phương phía Nam thuộc nước CHXHCNVN ngày
nay, có nhân chứng là chính phủ Pháp và chính phủ
Hoa kỳ làm chứng tính đến thời điểm năm 1973. Thử
hỏi phía chính quyền TQ có nhân chứng nào chứng nhận
quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền TQ? Đó là chưa kể tới
việc phía VN có rất nhiều tài liệu lịch sử chứng
minh HS-TS thuộc chủ quyền của VN c̣n TQ th́ không
có tài liệu lịch sử nào khác ngoài cái công hàm năm
1958 của TT PVĐ và lư thuyết Estoppel không áp dụng
được. Vụ án sẽ nhanh chóng kết thúc và TQ sẽ thua
kiện, chịu án phí.
Có lẽ đă chợt hiểu lư sự cùn không bịp được nhân dân
Việt nam, nên TQ đă nhanh chóng đổi chiến thuật ép
VN và Philippines chỉ đàm phán song phương, tuyệt
đối không đưa ra toà án quốc tế. Chính phủ Việt Nam
phải hết sức tỉnh táo, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Cũng nên nhắc lại lời cảnh báo tới các nhà lănh đạo
nước CHXHCNVN rằng: Đây là thời cơ thuận lợi duy
nhất để Việt nam đ̣i lại chủ quyền biển đảo đă bị TQ
chiếm đoạt năm 1974 và năm 1988. Nếu để lỡ thời cơ,
không đ̣i lại được phần đă mất, tức là các vị không
làm tṛn trách nhiệm được nhân dân cả nước tin tưởng
giao phó.
Hà Nội, ngày 16/7/2011
L.V.C.
Nguồn:Bauxite
Vietnam
|
|
|
|