|
ĐẢO CHÍNH
1963 - VẤN ĐỀ LÀO VÀ TRUNG CỘNG
DẪN NHẬP
Nhân nhớ lại thảm kịch đảo chính 1-11-1963, thế mà đă 47 mùa Thu, HNV
trích đăng một phần "Hồi kư Cao Xuân Vỹ" do tác giả Cao Thế Dung
chấp bút, thực hiện từ thập niên 1980-1990 qua các bản ghi chép và trên
50 cuốn tapes, do sự đồng ư của cụ Vỹ, nay đă trên 90 tuổi, sức khỏe suy
yếu, lại mắc bệnh ung thư dạ dầy nhưng tinh thần vẫn c̣n minh mẫn, tinh
tường, giọng nói c̣n sang sảng của một ông già xứ Nghệ.
Qua hồi kư, nhân sĩ Cao Xuân Vỹ cho biết, tháng 9-1963, ông Nhu đă nắm
được nhiều tin tức Mỹ sẽ đảo chính, chủ yếu là nhóm Trần Thiện Khiêm,
Tham mưu trưởng liên quân (quân ủy đảng Cần Lao gốc Đại Việt và đảng Con
Ó của Pháp qua Trần Đ́nh Lan, Trưởng pḥng 6-Bộ TTM QĐQGVN - phản gián).
Đáng ngạc nhiên, Mỹ đă móc nối được Bs. Trần Kim Tuyến, trùm t́nh báo
chiến lược dưới danh nghĩa Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị và xă hội
phủ Tổng thống. Mỹ cũng đă móc nối Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh
Quân khu II ở Pleiku. Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu (NĐN) vẫn yên tâm, vẫn tin vào
Mỹ qua những quan hệ với CIA mà ông đă gắn bó từ lâu, đáng kể như tướng
Lansale và Colby, một giáo dân nhiệt tín, nói thông thạo tiếng Pháp, rất
gần gụi với NĐN và CXV. Nhóm đảo chính do Mỹ tổ chức qua Lu Conein,
Trung tá, Cố vấn bộ nội vụ, rút lại chỉ c̣n Khiêm. Bs. Tuyến "tỵ nạn" ở
nhà ông Vỹ v́ Ls. Trần Văn Khiêm em ruột bà Nhu âm mưu thanh toán, đă
cho ném lựu đạn vào nhà Gs. Tuyến. Sau, do đề nghị của ông Vỹ, Bs. Tuyến
được bổ làm Tổng lănh sự VNCH tại Cairo, Ai Cập (TT Nasser từ chối không
nhận với lư do Bs. Tuyến là trùm t́nh báo), ông Tuyến trở lại Hồng Kông.
Tướng Khánh ở măi trên cao nguyên nên chỉ c̣n lại một Trần Thiện Khiêm,
tay chân tin cẩn của nhóm đảo chính Lu Conein, gốc Bạch Nga, cha là
người trong Bảo hoàng Bạch Nga chống Bôn sơ vích (Lênin), thất bại lưu
vong qua Pháp, lấy vợ Pháp rồi sau di cư qua Mỹ ở St. Louis, bang
Missouri. Lu Conein sinh trưởng ở thành phố này. Sau ṭng quân gia nhập
cơ quan t́nh báo chiến lược OSS, qua Hoa Nam hoạt động với cấp thiếu úy.
Thời gian ở Hà Nội, ông bà Đại tá Nguyễn Văn Vỹ làm mối cho Lu Conéin
lấy một cô gái Pháp lai Việt, học sinh trường Sainte Marie, Hà Nội.
Không rơ lư do, vợ chồng Lu Conéin rất ghét bà NĐN. Theo cụ Vỹ, trước
quốc khánh 26-10, ông Nhu đă chuẩn bị hành lư qua Mỹ, hẹn bà Nhu đang
công du Mỹ, vợ chồng sẽ gặp nhau ở thủ đô Mỹ. Không có chuyện ông Nhu
chuẩn bị lưu vong. Dù t́nh huống như thế nào ông cương quyết sống chết
với anh và quê hương, không sờn ḷng. Cố vấn Nhu qua Mỹ đem theo chương
tŕnh và kế hoạch cho Miền Nam cải tổ chính trị xă hội để đương đầu với
CSBV, trọng điểm là nguy cơ Tầu Cộng và một giải pháp mới đối với HCM và
CSBV. Ông dự định sẽ tŕnh bày với Bạch Ốc và bộ ngoại giao Mỹ.
VN-NHẬT VÀ ĐẤT HIẾM
Do vụ tranh chấp Điếu Ngư, Bắc Kinh không bán đất hiếm cho Nhật với thủ
đoạn để cho cục quan thuế không thông qua giấy phép xuất cảng đất quí
qua Nhật. Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích và phản đối. Nhật lẳng lặng ch́a lá
bài đất quí VN. Th́ ra đă bao nhiêu lâu nay, Mỹ và Nhật đă khám phá ra
các mỏ đất quí VN. Từ trước 95% đất quí Nhật và Âu Mỹ nhập cảng từ Tầu.
Chắc hẳn Bắc Kinh đinh ninh yên trí, TQ độc quyền đất quí (rare earth)
loại đất này cần dùng cho kỹ nghệ xe hơi, chế tạo máy tính, cell phone
v.v... Các mỏ đất quí VN được Mỹ-Nhật giấu kín. VN lanh tay đón nhận "cơ
hội vàng - đất vàng", Nguyễn Tấn Dũng hồ hởi đón tiếp các phái đoàn Nhật
qua VN "khai thác mỏ đất quí". Cuối cùng, Thủ tướng Nhật đến Hà Nội để
cụ thể hóa. Suốt dăy Trường Sơn và Tây Nguyên, VN c̣n nhiều mỏ quặng quí
dưới ḷng đất núi rừng. Trước năm 1945, Pháp chưa kịp t́m kiếm nên chỉ
có Mỹ là nước duy nhất biết được (như đă biết các địa điểm có mỏ đất quí).
Thí dụ, trong sách Hải Dương phong vật chí có nói đến mỏ đất son, nhưng
rồi không có phương tiện khai thác, dù có khác được cũng chẳng biết để
làm ǵ. Mỏ bị ch́m lấp theo thời gian không c̣n dấu tích. Có ai ngờ mỏ
đất quí VN nay trở thành mỏ vàng. Chả trách chi TQ ham VN cũng là phải.
Với mỏ đất quí VN, Nhật Bản đương nhiên phải dấn sâu vào VN. Tuần trước,
chính phủ Nhật băi bỏ lệnh cấm xuất cảng vũ khí ra nước ngoài. Nay th́
Nhật có thể bán cho VN vũ khí đủ loại, kể cả tàu chiến.
ĐỈNH CAO CỦA HÀ NỘI ĐỎ
VNCS đă gặp rất nhiều may mắn. Năm 2010 là đỉnh cao. Cùng một lúc diễn
ra 2 thượng đỉnh ASEAN và Á Đông, có cả Nga Sô tham dự. Với 2 thượng
đỉnh này, một TQ vĩ đại lu mờ hẳn. Tổng thư kư LHQ đến thăm Hà Nội trùng
vào 2 thượng đỉnh trên đường đi Bắc Kinh. Bà Hillary gặp Ngoại Trưởng
Nhật Bản ở Hawaii trước khi bay qua Hải Nam và Hà Nội, hai bên Mỹ Nhật
họp bàn về t́nh h́nh Á Đông, đảo Điếu Ngư và "vấn đề đất hiếm", đă trở
thành vấn đề nóng bỏng. Hiện Nhật chỉ c̣n tồn kho đất hiếm quí cho đến
tháng 3-2011. Kỹ nghệ xe hơi, máy tính, điện thoại di động sẽ như thếnào?
TT Ôn Gia Bảo chối không bán đất hiếm cho Nhật nhưng quan thuế không cấp
giấy phép làm sao đất hiếm qua Nhật (gần như Nhật tùy thuộc 100%)? Hành
động trả thù Nhật của Bắc Kinh đă gây tổn hại cho uy tín của Bắc Kinh
rất nhiều. Âu Mỹ coi là tṛ chơi xấu lại vi phạm luật lệ của Tổ chức mậu
dịch thế giới WTO. Cũng nhờ đất quí mà VN "lên giá". Thủ tướng Nhật tất
tả qua Hà Nội họp với VN ngày Chủ nhật 31-10 ngay sau Thượng đỉnh Đông Á.
Theo nghị tŕnh, Nhật thảo luận với VN về việc Nhật sẽ giúp VN dựng các
nhà máy hạt nhân nhưng chủ yếu vẫn là khai thác đất quí.
Vai tṛ của Nhật càng ngày càng trở nên quan trọng. Và mặc nhiên đă có 3
thế lực lớn ở VN đối đầu với Bắc Kinh: Mỹ - Nhật và Ấn Độ, chưa kể Liên
Hiệp Âu Châu và Úc. Liệu TC có khoanh tay thụ động chăng? Thưa nhất định
là không. Một là họ đang nỗ lực khuynh đảo nội bộ ĐCSVN để nắm thế chủ
động trước đại hội ĐCSVN đầu năm 2011. Hai là bám sát thượng du, miền
đáát sinh tử của Đại Hàn bành trướng. Ba là nắm Lào quốc, dưới cái mũ
đầu tư và giúp Lào phát triển, loại ảnh hưởng VN ra khỏi Lào, khuynh đảo
biên giới Lào, từ Tây Nguyên VN và phía Tây Trường Sơn thuộc Lào. Sau
thượng đỉnh ASEAN - Á Đông, 29-10-2010, chưa bao giờ chế độ VNCS mạnh và
kể cả hung dữ như bây giờ! Nhưng cũng chưa bao giờ VN bị Tầu Cộng áp đảo
mạnh như bây giờ từ Lào.
Hơn một lần HNV đă tŕnh bày trên mục này, Bắc Kinh tiếp tục "thuê" đất
Lào, lập các cộng đồng người Hoa. Làng Hoa kiều ở phía Đông Nam Viên
Chăn rộng tới 6.000 km2, c̣n phát triển thêm nữa, đến tận Sầm Nứa sát
nách VN. Bắc Lào, như tỉnh Phông Saly chẳng hạn, TC nắm 100%. Toàn bộ
lực lượng vũ trang của tướng Vang Pao và vùng dân tộc H'Mông Lào nằm gọn
trong ảnh hưởng Bắc Kinh. Do bị Mỹ bỏ rơi sau năm 1975, tàn dư của đội
quân đánh thuê của CIA lọt vào ṿng tay TC trong một t́nh thế tuyệt vọng,
họ không c̣n biết nương tựa vào đâu trước Pathe và quân đội CSVN. Bản
thân Vang Pao, định cư ở Mỹ (Fresno) cũng chạy theo Bắc Kinh. Thập niên
1980-1990, Vang Pao đi về Bắc Lào qua ngả Hồng Kông, bay vào Côn Minh,
Vân Nam rồi về căn cứ Bắc Lào. Mặc dầu dân H'Mông ta gọi là Mèo, Tầu gọi
là Miêu - Tam Miêu, căm thù Hán tộc từ trong máu. Tổ tiên Tam Miêu những
ngàn năm xưa sống ở đồng bằng phía Nam sông Hoàng Hà, khu vực đệm giữa
Hán tộc du mục và Việt tộc ở đồng bằng sông Dương Tử xuôi Nam, cho nên
ngôn ngữ Tam Miêu pha trộn Việt và Hán. Dần dần Tam Miêu bị Hán tộc tiêu
diệt, một số chạy chết về phương Nam rồi định cư ở Bắc Lào và thượng du
Bắc Việt. Dân tộc Lào gốc Thái (Vân Nam), khác H'Mông về ngôn ngữ, văn
hóa, phong tục... Vang Pao là tướng của CIA mà không phải là tướng của
QĐ Hoàng gia Lào. Lực lượng vũ trang H'Mông đến nay vẫn coi VNCS là tử
thù. Tôi nghĩ rằng Nhật Bản và Đài Loan biết rất rơ thế lực của TC ở Bắc
Lào và nay th́ đă lớn mạnh khắp nước Lào. Trong 5 năm qua, số đầu tư của
TC vào Lào và Cao Miên gia tăng tốc độ, cao hơn số đầu tư vào VN đến
trên 50%. Đó là "đầu tư chính trị".
NGÔ Đ̀NH NHU VÀ VẤN ĐỀ LÀO
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Lào là một quốc gia độc lập, quân đội
ngoại nhập Pháp và VM phải rút khỏi Lào. Một thất bại lớn cho CSBV.
Nhưng VM đâu có rút, biến h́nh ẩn náu, rút vào bóng tối. Pathet Lào vẫn
là CSBV. VNCH thiết lập bang giao với Lào và lập ṭa đại sứ ở Viên Chăn,
ông Tôn Thất Hối là đại sứ tiên khởi, kế tiếp là Đại sứ Kỳ Quân Thân với
nhiệm vụ bí mật xây dựng hệ thống t́nh báo và cán bộ tuyên vận trong
cộng đồng Việt kiều, mở đường hàng không Air VN Sàig̣n - Viên Chăn. Đồng
thời tổ chức mạng lưới t́nh báo ở Bắc Thái, tiếp giáp Lào từ ngả Vọng
Các, phối hợp với Viên Chăn. CSBV ở Lào ở vào thế bị động, bị cô lập ở
Viên Chăn và các thành phố như Paksé. Tuy nhiên, CSBV vẫn bảo toàn được
chủ lực ở các tỉnh biên giới Việt - Lào từ Phong Saly đến Séno, Sầm Nứa,
mỗi ngày phát triển mạnh thêm. Cái nh́n về Lào của bộ ngoại giao Mỹ và
CIA khác VN từ căn bản. Ông Nhu nói rất đúng: "Mỹ không hiểu ǵ về thực
tại Lào quốc". Phe Quốc gia Lào rất yếu, lại thêm ảnh hưởng chống Pháp
chống Mỹ. Đầu năm 1960, cán bộ và quân "t́nh nguyện" CSBV xâm nhập Lào
ào ạt, nhất là khu vực trải dài bên kia Trường Sơn từ đường số 9, Quảng
Trị đến Kontum-Pleiku. Chính phủ hoàng gia Lào càng ngày càng suy yếu,
không thể nào liên hiệp hợp tác với phe Pathet Lào do CSBV chỉ đạo bí
mật. Phe Hữu phái Lào mỗi ngày thêm mạnh và chống Cộng do Mỹ và VNCH
viện trợ thúc đẩy. Liên hiệp Lào lung lay, chính phủ Lào phải đưa "vấn
đề Lào" ra HĐBA LHQ để yêu cầu Hà Nội phải rút hết quân về nước. Tháng
5, 1959, t́nh h́nh Lào căng thẳng rồi tê liệt, Pathet Lào quyết định ly
khai, rút quân về chiến khu cũ. Đây là dịp tốt nhất để CSBV tung quân và
cán bộ vào Lào nấp dưới cái mũ Pathet Lào. Hà Nội c̣n gửi các sư đoàn
thiện chiến vào Lào, dọc theo biên giới. Tháng 8, 1960, Đại úy Nhảy dù
Khong Le làm đảo chính. Chính phủ liên hiệp Lào tan vỡ. Khong Le gốc
Việt tức Lê Công Lễ, mẹ Lào, thân phụ là công chức của Pháp, người Hà
Đông. Chính phủ trung lập Lào ra đời do Hoàng thân Souvana Phouma lănh
đạo, ông hoàng này là anh em cùng cha khác mẹ với Souvanouvong. Hoàng
thân Phouma cầm đầu Hữu phái.
Mỹ bắt đầu trực tiếp can thiệp vào Lào, CIA thành lập đạo quân đánh thuê
người H'Mông do Vang Pao cầm đầu. Ảnh hưởng của VNCH lu mờ hẳn trước
những sai lầm đến ngớ ngẩn ngây thơ của bộ ngoại giao Mỹ và cả HP
Kennedy về thực tại Lào. Mấu chốt vẫn là CSBV và Pháp đứng phía sau giật
dây. Tháng 5, 1962, Sàig̣n triệu hồi Đại sứ Kỳ Quân Thân và đóng cửa ṭa
đại sứ khi CP Phouma công nhận Hà Nội và để cho họ lập ṭa đại sứ ở Viên
Chăn. T́nh h́nh càng căng thẳng. HP Kennedy tiến hành giải pháp trung
lập hóa Lào quốc. Hội nghị quốc tế về nền trung lập Lào được triệu tập ở
Giơ-ne. Phía VN, nhà ngoại giao Phan Văn Thính, làm Tổng thư kư phái
đoàn VN (Tiến sĩ Thính từng là Đệ I Tham vụ ṭa Đại sứ VNCH ở Luân Đôn,
hiện đang hưu dưỡng ở Maryland). Hội nghị về Lào với 13 nước gồm Anh, Mỹ,
Pháp, Liên Xô, Trung Cộng, Ấn Độ ... VNCH và VNDCCH (Bắc Việt) họp nhiều
ngày mới đạt được thỏa hiệp chung. Với áp lực của Mỹ, VNCH phải kư cùng
với VNDCCH.
Hội nghị đang họp ở Giơ-ne-vơ, ông Nhu đi Ma rốc đại diện bào huynh NĐD
dự lễ đăng quang tân quốc vương Hassam II, ông CXV tháp tùng. Thực ra
th́ phó tổng thống hay bộ trưởng ngoại giao đại diện cũng đủ nhưng ông
Nhu lấy cớ này để ghé Paris với một sứ mệnh tối mật. Ông Vỹ là tổng giám
đốc Tổng nha thanh niên, dù là Tổng ủy viên TNCH cũng không đúng tư cách
tháp tùng tham dự lễ đăng quang. Tại sao lại có mặt ông Vỹ? Cũng là do
sứ mệnh tối mật liên quan đến HCM-CSBV và một giải pháp cho "vấn đề VN".
Hai ông Nhu-Vỹ từ Ma rốc trở lại Ba Lê, lưu lại một tháng rưỡi. Sao lại
lâu quá vậy trong khi ở quê nhà t́nh thế đang cấp bách, công việc bề bộn?
"Ở lại ngày nào, ông Vỹ cứ như lửa đốt ruột". Nhưng tin đi với về giữa
Hà Nội - Paris không dễ dàng mau chóng. Dịp ở Paris cho sứ mệnh tối mật,
ông Nhu đi Giơ-ne-vơ, họp với phái đoàn của ta, nghe báo cáo chi tiết
diễn tiến của hội nghị và đưa ra những chỉ thị cần thiết. Quan điểm của
NĐN về nền trung lập Lào trái ngược với quan điểm và cái nh́n chủ quan
cao ngạo của Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Harriman, được TT Kennedy tin
cẩn và mến mộ bậc nhất. Ông Nhu gặp và thảo luận với Harriman nhiều giờ.
Có lúc ông ta mặt đỏ bừng bừng tức giận ông Nhu phản bác quan điểm và
lập trường của ông ta. Harriman thất bại không thuyết phục nổi NĐD,
trước sau vẫn cho rằng Pathet Lào là con đẻ của CSBV và chừng nào quân
đội và cán bộ CSBV c̣n hiện diện ở Lào như hiện nay (1962) th́ không thể
có nền trung lập Lào, kư kết cũng là vô ích.
Trái lại ngay trong thời gian hội nghị, quân đội CSBV tiếp tục xâm nhập
và tăng cường các hoạt động ở Lào. NĐN đưa ra một số đề nghị, dĩ nhiên
Harriman làm ngơ. Harriman thù ghét NĐN từ cuộc gặp gỡ sóng gió này. Ai
cũng biết Harriman chủ trương lật đổ chế độ NĐD và trao cho Cabot Lodge
thực hiện. Thời gian dài ở Paris, ông Nhu làm ǵ? Không có việc ǵ khác
hơn là sứ mệnh tối mật qua trung gian của Pháp De Gaulle với gạch nối
Paris-Hà Nội. De Gaulle vẫn một đầu óc cao ngạo "Pháp quốc vĩ đại -
Grandeur de la France", ông không tiếp NĐN do nghi lễ quốc gia, ông Nhu
chỉ là cố vấn riêng của TTD. Mà thực vậy, Tổng thống Diệm (viết tắt TTD)
chưa từng kư một sắc lệnh nào bổ nhiệm Cố vâán Nhu, ông Nhu không có
lương và phụ cấp chức vụ của ngân sách quốc gia. Chi tiêu (ăn uống) của
gia đ́nh ông bà Nhu, sở nội dịch tính vào lương và phụ cấp của tổng
thống. De Gaulle liên lạc thảo luận với NĐN về "giải pháp VN" qua Bộ
trưởng phủ Tổng thống Antoine De Pinay (cựu Thủ tướng, cựu Tổng trưởng
tài chính), một cộng sự thân tín của De Gaulle. Pinay gặp NĐN nhiều lần
và chuyển ư kiến của De Gaulle đến ông Nhu. Ông Nhu có đủ tin tức bên
trong để biết rằng Thủ tướng CP trung lập Lào, HT Phouma là con bài của
Pháp. Đại úy Khong Le đảo chính là người của t́nh báo Pháp qua đặc vụ
ACTION Pháp. Không phải NĐN ảo tưởng bỏ Mỹ chạy theo Pháp nhưng ông biết
rơ, trong thực tế, các vấn đề Đông Dương, Pháp vẫn có một vai tṛ trọng
yếu. Đại sứ Pháp ở Sàig̣n LaLouette khá thân với NĐN. Có thể nói, NĐN đă
kết giao với một nhóm các nhà ngoại giao ở Sàig̣n như Đại sứ Ư Đại Lợi
Gioxanni Orlandi, Trưởng phái bộ ủy hội quốc tế kiểm soát đ́nh chiến (QTKSĐC),
Đại sứ Ấn Độ Goburdhum, sau thêm Đại sứ Ba Lan Maneli trong Ủy hội
QTKSĐC do Khâm mạng Ṭa Thánh Vatican làm trung gian. Đại sứ CS Ba Lan
Maneli là "đầu dây mối nhợ" NĐN và Maneli kết giao trong mục tiêu lập
đầu cầu giữa Hà Nội và Sàig̣n. Ông Nhu ở Paris lâu ngày cũng do mục tiêu
"sinh tử" này. Qua tin tức mật của Maneli, CSBV gặp rất nhiều khó khăn
kinh tế, khó thoát khỏi một trận đói đang gần kề. Goburdhun và Maneli
cũng cho NĐN biết, HCM rất giao động lo âu trong thế đi dây giữa Liên Xô,
TQ. Quan trọng hơn cả, Maneli cho biết, HCM rất ngán sợ Mỹ đổ quân vào
miền Nam tham chiến tạo cớ cho Mao Trạch Đông đè nặng áp lực lên Hà Nội.
Và, TC có thể đổ quân vào Bắc Việt, điều mà HCM đă rất sợ hăi do kinh
nghiệm 10,000 cố vấn TQ và Lă Quư Ba ở thượng du trước HĐ Giơ-ne 1954.
Tuy vẫn giữ trục giao liên với Maneli, dù ông ta là đảng viên cao cấp
ĐCS Ba Lan nhưng với bảo đảm "an toàn" của Khâm sứ Salvatore d'Asia, NĐN
thấy rằng qua cuộc đảo chính của Khong Le và CP trung lập Lào Phouma,
vai tṛ của Pháp rất quan trọng. Hoa Kỳ vẫn là sức mạnh chủ yếu, thế tựa
của VNCH nhưng phải có một giải pháp thực tế cho miền Nam VN. Ông Nhu
nhận được điện tín của TTD gọi về gấp với nhiều công việc trong đó có
việc soạn thảo một thông điệp của tổng thống đọc trước quốc hội và quốc
dân "quốc gia lâm nguy". Cuộc trao đổi giữa De Gaulle - NĐN qua Pinay
đang đến hồi quan trọng nhất, ông Nhu phải ở lại Paris. TTD đồng ư và
chỉ thị cho ông những điểm chính trong bản thông điệp. Ông Nhu cặm cụi
viết rồi trao cho ông CXV đích thân đem bản thảo về trao tận tay TTD. Do
đó, ông Vỹ phải rời Paris, may được bộ quần áo mới do thợ Paris cắt đo
cũng không kịp mang về. Vụ NĐN bất đồng với Harriman về giải pháp trung
lập hóa Lào quốc là một trong mấy nguyên nhân đưa đến vụ đảo chính 1963
mà Harriman chủ động. Cabot Lodge chỉ là người đồng t́nh và thực hiện.
Ông Nhu thường nhắc đi nhắc lại với ông CXV và mấy cán bộ thân tín: "Nếu
CSBV khống chế Lào. miền Nam sẽ lâm nguy. Nếu CS chiếm được miền Nam, cả
nước VN sẽ thành một tỉnh của Tầu!"
Năm 2010 này VN đang trong ṿng tay Bắc Kinh, nô lệ từ văn hóa đến kinh
tế. Chế độ Lào Cộng hiện nay và đảng CS Lào là công lao sinh thành của
ĐCSVN từ thuở VM năm 1945-46. Nguy cơ VN bị loại ra khỏi Lào quốc đang
thành sự thực. Cho dù Biển Đông có sóng yên biển lặng, Trường Sa được
Hoa Kỳ che chở th́ nếu TC khống chế toàn bộ Lào, VN sẽ cực kỳ lâm nguy
như VNCH trước đây. Đó là bài học lịch sử cho VN hôm nay và ngày mai (kỳ
sau tiếp theo). Hoa Kỳ trước đây đă sai lầm nghiêm trọng về Lào nay lại
tái diễn chăng?
MẤY NÉT VỀ NHÂN SĨ CAO XUÂN VỸ
Suốt gần 10 năm nhân sĩ Cao Xuân Vỹ được ông NĐN rồi TTD coi như con,
tin cẩn tín nhiệm không phải do chính trị hay đảng phái (đảng Cần Lao)
mà do t́nh nghĩa sâu đậm giữa họ Cao và họ Ngô. Thân phụ ông Vỹ, cử nhân
Cao Xuân Tảo, bạn học với NĐD cùng lớp ở trường Hậu Bổ - Pháp chính Huế.
Khi Tuần vũ NĐD về Huế làm Thượng thư Bộ Lại th́ mời bạn Cao Xuân Tảo
làm Tả Thị Lang tức Tổng thư kư bộ. Ông ngoại cụ Vỹ là Thân thần Tôn
Thất Hân, Nhiếp chính vương lại là ân nhân của họ Ngô. Thượng thư Ngô
Đ́nh Khả, Phụ đạo, Lưu kinh đại thần do vụ "đầy vua không khả" chống lại
Pháp truất ngôi và lưu đày vua Thành Thái, cúp hết lương bổng, gia đ́nh
th́ đông con, lại chưa người nào thành đạt, sống trong cảnh túng quẫn,
Thân thần Tôn Thất Hân lấy tiền nhà chu cấp cho gia đ́nh cụ Khả mỗi
tháng 5 đồng bạc (trị giá bằng gần nửa lương Thông phán bấy giờ là 12$
một tháng). Do đó họ Ngô nhớ ơn măi măi.
Về Hồi kư Cao Xuân Vỹ: do Cao Thế Dung chấp bút, thêm phần biên chú ngày
tháng năm, đối chiếu với các biến cố theo sử biên niên và sử sách liên
hệ. Một phần sẽ được trích dẫn ở mục này theo các biến cố lịch sử với sự
đồng ư của tác giả Cao Xuân Vỹ. Bản quyền là của ông bà CXV & Thanh Lan
và các con. Tác gia Cao Thế Dung chỉ tự nguyện văn bản hóa. Mọi sự trích
dịch cần được tác giả CXV đồng ư (chưa in thành sách).
HÀ NHÂN VĂN
|
|