|
|
Nhớ lại vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế
Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, Phan
Văn Tuấn là một thiếu niên ở tuổi
16, đang là học sinh lớp Đệ Tam,
trường tư thục Nguyễn Du, Gia Hội
Huế, nhà ở khu Chợ Xép, sát cửa Đông
Ba.
Rạng sáng ngày mồng hai Tết, anh
cũng như toàn thể dân chúng thành
phố Huế nghe nhiều tiếng nổ chát
chúa liên hồi, tiếng đạn pháo kích
vào thành phố và tiếng súng giao
tranh càng lúc càng nhiều. Lúc đầu,
họ chợt choàng tỉnh dậy, và tưởng
như nghe tiếng pháo mừng xuân của ai
đó chợt nổ giữa khuya, nhưng sau đó
vài phút, trưởng thành trong chiến
tranh, người dân đều biết rằng thành
phố đang bị tấn công và những cuộc
giao tranh đang xẩy ra, bây giờ đang
ở ngay trong thành phố.
Tất cả đều xuống hầm trú ẩn hoặc ẩn nấp sát
dưới sàn nhà, được che chở bởi những chiếc
giường hay những chiếc “phản ngựa” bằng gỗ,
và lo lắng theo dơi động tĩnh, từ đó cho đến
sáng với niềm lo âu, giữa tiếng súng lớn nhỏ
khi dồn dập khi thưa thớt trải dài trong đêm
tối, giữa một đêm Huế mùa Xuân khá lạnh.
Việt Cộng phản bội lệnh hưu chiến để đem
quân tấn công nhiều thành phố và thị trấn
miền Nam!
Vào tờ mờ sáng, từng đoàn dân chúng từ phía
ngoài hớt hải chạy vào thành nội theo ngơ
cửa Đông Ba và loan tin Việt Cộng đă về
thành phố, ít lâu sau những toán Việt Cộng
khác đă hiện diện trong vùng của Phan Văn
Tuấn.
Việt Cộng có hai thành phần, theo trang bị,
cán bộ với dép râu, nón cối, quần dài màu
olive, áo sơ mi trắng, đeo xắc cột và mang
K.54., đứng tuổi, binh lính Việt Cộng với
đầu trần hay nón tai bèo, dép râu, hầu hết
mặc quần ngắn, áo đủ loại, mang ba lô, trang
bị AK 47, lựu đạn, bộc phá.
Ngay trưa mồng hai Tết, Phan Văn Tuấn chạy
theo đám trẻ, chứng kiến cảnh xử bắn năm
người dân tại ngay cửa Đông Ba, nạn nhân bị
trói tay, đứng dựa lưng vào vách thành.
Trong số thường dân này, có người đang mặc
áo quần ngủ, có người c̣n đi chân đất, Phan
Văn Tuấn chỉ nhận ra một người quen, đó là
một viên chức cảnh sát trong thành phố đă về
hưu.
Chỉ huy toán vơ trang và ban lệnh hành quyết
năm người dân này là ông thầy dạy Việt Văn
trước đây tại trường Nguyễn Du của Phan Văn
Tuấn: Tôn Thất Dương Tiềm. Năm người bị bắn
phơi xác giữa trời nắng, đầy kiến, ruồi và
măi mấy hôm sau gia đ́nh mới lén lút mang về
chôn cất.
Ba ngày sau, khi phi cơ của VNCH và Đồng
Minh bắt đầu can thiệp bắn vào các mục tiêu
của Cộng Sản, th́ gia đ́nh Phan Văn Tuấn
quyết định chạy về phía đồn Mang Cá tức là
bộ Tư Lệnh SĐ1BB. Họ tránh đi theo các con
đường lớn và đi băng qua những khu vườn nhà
dân, nhưng đến giữa đường th́ bị Việt Cộng
chặn lại.
Phan Văn Tuấn bị tách khỏi gia đ́nh và bị
bắt dẫn đi cùng với một toán thiếu niên khác
khoảng 10 người trở lại vùng chiếm đóng của
Việt Cộng tại chùa Diệu Đế, Gia Hội. Toán
thiếu niên này, dưới sự canh gác cẩn mật của
những tên lính Việt Cộng, tuổi cũng c̣n rất
nhỏ, được dùng trong việc khiêng vác những
nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm , ḿ gói từ
các hiệu buôn trong thành phố về bộ chỉ huy.
Năm ngày sau, toán dân công thiếu niên của
Phan Văn Tuấn, vào mỗi đêm, được lệnh mang
cuốc đi đào những giao thông hào trong vùng
Gia Hội. Toán thiếu niên này đứng theo chiều
dọc, đào những chiếc hố bề ngang khoảng hai
thước, bề sâu một thước.
Thoạt đầu Phan Văn Tuấn nghĩ đây chỉ là
những công sự cho bộ đội Việt Cộng tránh bom
đạn trong thời gian VNCH bắt đầu phản công
chiếm lại Huế, nhưng đến đêm giữa ánh đèn
chập chờn, Việt Cộng bắt đầu dẫn ở đâu về
từng toán người, cũng như năm người bị giết
trong những ngày đầu tại cửa Đông Ba, đều
mặc thường phục, có người mang dép, có người
đi chân đất. Tất cả đều bị trói tay quặt ra
sau lưng và được cột nối liền với nhau như
những xâu người bằng những sợi giây điện
thoại, giây kẽm hay lạt tre.
Phan Văn Tuấn bắt đầu kinh hoàng khi thấy
bọn lính Việt Cộng, giọng miền Bắc, ra lệnh
cho hàng người đứng sát và xoay lưng về phía
giao thông hào. Một tên cán bộ bắt đầu đọc
bản án tử h́nh, đại khái cho rằng những
người này là “phản bội tổ quốc, phản bội
nhân dân”. Sau một cái khoát tay, một tràng
AK chát chúa nổ, nhưng Việt Cộng chỉ nhắm
bắn vào người đứng ở đầu hàng, trước sức
mạnh của loạt đạn bắn gần, ông già bị hất
ngữa ra, chới với trong mấy giây và lăn
xuống hố. Sức nặng kéo theo người bên cạnh,
người tiếp theo cũng đổ nhào, và cứ như thế
kéo theo những người khác, tất cả đều ngă
xuống giao thông hào.
Giữa tiếng la khóc, van xin, năo ḷng vang
cả một góc trời, bọn Việt Cộng bắt đầu thúc
giục đám dân công của Phan Văn Tuấn: “Nấp,
nấp (lấp đất) nhanh lên, nhanh lên! Địt mẹ,
nhanh lên!” Tiếng báng súng AK dọng vào vai,
vào đầu, khi toán đào hố ngần ngừ, chậm tay.
Phan Văn Tuấn sững sờ, một lưỡi lê đâm sát
vào sườn, máu chảy đầm vạt áo. “Nấp đi mày”.
Tiếng khóc la, những cái đầu muốn ngẩng cao
hơn, những cái miệng đầy đất cát, nhưng đôi
mắt trợn trừng, tức giận, tuyệt vọng, u uất.
Những cú nện vào đầu nạn nhân đang vùng vẫy
dưới hố, những tiếng chửi rủa tục tằn, thêm
một tràng AK tiếp theo. “Nấp nhanh lên”.
Tiếng ồn ào, kêu gào than khóc. Rồi tất cả
trở lại im lặng như địa ngục. Hố sâu đă trở
thành mặt bằng, nhưng đất c̣n cựa quậy, có
nơi bỗng sụp xuống. Những người dân Huế dưới
hầm mộ kia chưa chết hẳn, trừ ông già xếp
hàng đầu, may mắn hưởng tràng AK đầu tiên.
Những lần sau, có lúc sợ ánh sáng từ họng
súng khai hỏa sẽ bị phi cơ trinh sát phát
giác, không cần dùng đến một viên đạn, tên
lính Việt Cộng chỉ cần trở cán cuốc lại,
đánh thẳng vào đầu nạn nhân đứng đầu hàng,
người này ngă ngửa ra đằng sau, cứ tuần tự
như thế, bị chôn sống từng hố từng hố một.
Dưới áp lực của lưỡi lê, báng súng và sự
canh gác cẩn mật, Phan Văn Tuấn và bạn bè đă
trải qua những giây phút kinh hoàng: đào hố,
lấp đất chôn chính đồng bào ruột thịt của
ḿnh!
Đó là nỗi đau đớn mà Phan Văn Tuấn phải chịu
đựng, mục kích trong hơn chục lần trên mười
hố chôn sống người như thế trong vùng đất
quê hương hiền lành của Tuấn. Cuối cùng,
Phan Văn Tuấn và hai người bạn đồng lứa khác
đă trốn thoát được, chạy về phía pḥng tuyến
quốc gia, ôm chặt lấy người lính đầu tiên mà
khóc nức nở.
Sau khi quân đội VNCH chiếm lại Huế, Phan
Văn Tuấn và hai người bạn đă đi t́m lại
những giao thông hào chôn người cho chính
quyền địa phương cải táng. Tất cả những
người khác trong toán “dân công” cùng với
Phan Văn Tuấn đều đă bị bị Việt Cộng thủ
tiêu trước khi rút ra khỏi thành phố.
Phan Văn Tuấn lớn lên, vào trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức và trở thành một sĩ quan Pháo
Binh, năm 1975, bị tập trung trong trại Cộng
Sản và cuối cùng vượt biển sang Úc. Nhưng từ
những ngày xẩy ra vụ thảm sát Mậu Thân, anh
không bao giờ muốn trở lại Huế, quê hương
của ḿnh, không muốn nh́n lại cảnh Huế, nghe
tiếng Huế, thưởng thức một ḍng nhạc Huế với
nỗi ám ảnh và mặc cảm khôn nguôi.
Có ai lại ghê sợ chính với quê hương ḿnh.
Phan Văn Tuấn dấu cả với vợ con của anh
những ǵ đă xẩy ra tại vùng Gia Hội trong
những ngày tết Mậu Thân tại Huế. Anh muốn
quên đi nhưng cơn ác mộng vẫn ṿ xé tâm hồn
anh qua nhiều năm tháng, anh nhớ lại những
cái đầu cọ quậy, những cái miệng đầy đất cát,
những đôi mắt trợn trừng, van xin hay tuyệt
vọng của đồng bào anh.
Năm ngoái, nhân dịp nhớ lại vụ thảm sát Mậu
Thân tại Huế, sau gần 40 năm im lặng, Phan
Văn Tuấn đă dành cho nhà văn Nam Dao trong
chương tŕnh phát thanh “Tiếng Dân Tôi” ở
Adelaide, Úc một cuộc phỏng vấn mà qua đó,
không những Phan Văn Tuấn đă xúc động v́ hồi
tưởng, khóc nức nở, mà chính người phỏng vấn
cũng nghẹn ngào khóc theo.
Nhắc lại vụ chôn người ở Huế, Phan Văn Tuấn
như bị đưa vào một trạng thái mê sảng, điên
cuồng, đau đớn như đang ở trong chính cơn ác
mộng. Anh hứa rằng anh sẽ không bao giờ nhắc
lại câu chuyện này một lần nữa với bất cứ ai,
v́ không chịu đựng nỗi đau đớn, dày ṿ đang
hành hạ tâm hồn anh khi phải vận dụng trí
năo để hồi tưởng những câu chuyện cũ.
Không, anh Phan Văn Tuấn ơi, anh phải can
đảm để sống và nhớ lại những ǵ anh đă trải
qua, không phải riêng để cho những bà con xứ
Huế, cho đồng bào ḿnh, mà cả nhân loại cần
có những nhân chứng như anh, để nói lên sự
độc ác của con người, trong đó có sự độc ác
từ bản chất, không thể tha thứ được của
những con người Cộng Sản, mà ngày nay chế độ
này đang c̣n ngự trị, làm t́nh làm tội cả
dân tộc của chúng ta. Những con người này
không c̣n lương tri, sống trong dối trá, nên
Huế ngày nay mới có những con đường tủi nhục
mang tên Mậu Thân, 68, để chúng cười cợt như
lũ quỷ đói trên những linh hồn oan khuất của
hàng ngh́n đồng bào Huế vô tội của chúng ta.
|
|
|
|