QUỐC TẾ VÀ
VẤN ĐỀ BIỂN
ĐÔNG
Các bản tin
liên quan
đến dư luận
quốc tế về
vấn đề Biển
Đông:
-
VNN
(7-6-2011):
Hiệp
định về
các sự
cố trên
Biển
Đông?
-
VOA
(8-6-2011):
Tranh
chấp
Biển
Đông
tiếp tục
gây chú
ư tại
Đông Nam
Á, thế
giới.
-
RFA
(9-6-2011):
Biển
Đông: Úc
nghiêng
về đâu?
-
RFA
(11-6-2011):
Căng
thẳng ở
biển
Đông có
thể dẫn
đến xung
đột quân
sự.
-
RFI
(12-6-2011):
Việt Nam
phải
hành
động
kiên
quyết
hơn để
bảo vệ
chủ
quyền
biển
đảo.
-
DCV
(12-6-2011):
GS Carle
Thayer:
TQ cắt
cáp: một
lần là
sự cố,
hai lần
là hành
động có
hệ
thống.
-
TT
(13-6-2011):
Trung
Quốc
tiếp tục
bị chỉ
trích.
-
VNN
(13-6-2011):
Biển
Đông
liệu có
trở
thành
chiến
trường?
-
VNN
(13-6-2011):
Ba đợt
“sóng”
địa
chính
trị trên
biển
Đông.
-
RFI
(13-6-2011):
Căng
thẳng
Biển
Đông
càng làm
Đông Nam
Á cảnh
giác với
Trung
Quốc.
-
DV
(13-6-2011):
Đối phó
với
chiến
thuật '2
không'
của
Trung
Quốc ở
biển
Đông.
-
BVN
(17-6-2011):
Chiến
lược của
Trung
Quốc
trên
biển
Đông và
triển
vọng
xung đột
vũ trang.
-
BVN
(18-6-2011):
Căng
thẳng
trên
Biển
Đông: có
thể có
một giải
pháp?
-
BVN
(18-6-2011):
Ư kiến
của
Carlyle
A.
Thayer
về t́nh
h́nh
Biển
Đông.
-
VNN
(19-6-2011):
Ba phép
thử cho
xung đột
Biển
Đông.
-
RFI
(20-6-2011):
Mưu đồ
bành
trướng
của
Trung
Quốc.
*****
Hiệp định về
các sự cố
trên Biển
Đông?
Tác giả:
Phương Loan
Vietnam Net:
07/06/2011
06:00 GMT+7
Theo
GS Carl
Thayer, cách
tốt nhất để
ngăn chặn
những va
chạm và căng
thẳng trở
thành vũ lực
là đưa tất
cả hải quân
liên quan
đàm phán một
hiệp định về
các sự cố
trên biển.
Hiệp định có
thể đi liền
với các cơ
chế có thể
được áp dụng
nếu xảy ra
vũ lực:
đường dây
nóng, ủy ban
kiểm soát
khủng
hoảng...
Biển Đông
trong tổng
thể chiến
lược của
Trung Quốc
Đặt trong
chiến lược
tổng thể của
Trung Quốc,
những hành
động mang
tính quyết
đoán của
Trung Quốc ở
vùng thềm
lục địa và
đặc quyền
kinh tế của
Việt Nam và
Philippines
nên nh́n
nhận như thế
nào, thưa
ông?
GS Carl
Thayer, Học
viện Quốc
pḥng
Australia:
Trung Quốc
muốn giành
vị thế là
một cường
quốc ở Châu
Á - Thái
B́nh Dương.
Trung Quốc
đặt ưu tiên
trong việc
thống nhất
Đài Loan và
đạt được sự
thừa nhận về
"chủ quyền
không thể
tranh căi"
của Trung
Quốc với
Biển Đông.
Sức mạnh
quốc gia
tổng hợp của
Trung Quốc
dựa trên sức
mạnh kinh
tế. Để đáp
ứng nhu cầu
tăng trưởng
kinh tế,
Trung Quốc
ngày càng
phụ thuộc
vào các
nguồn năng
lượng nhập
khẩu, dầu và
khí.
Các quan
chức Trung
Quốc thường
xuyên đưa ra
các dự đoán
về trữ lượng
dầu khí ở
Biển Đông
lớn hơn
nhiều so với
tính toán
của các công
ty dầu khí
và chính phủ
phương Tây.
Do đó, Trung
Quốc muốn
kiểm soát
nguồn tài
nguyên này,
bởi v́ nó
phong phú và
gần nhà hơn
rất nhiều so
với dầu từ
Trung Đông.
Hải quân
Trung Quốc
cũng có thể
bảo vệ đường
biển mà dầu
từ Biển Đông
sẽ được vận
chuyển.
Nói cách
khác, Biển
Đông chỉ là
một phần
trong nỗ lực
lớn hơn của
Trung Quốc
nhằm đảm bảo
nguồn cung
cho an ninh
năng lượng
trên thế
giới nhằm
phục vụ nhu
cầu tăng
trưởng kinh
tế cao.
Tuyên bố chủ
quyền của
Trung Quốc ở
Biển Đông
dựa trên bản
đồ 9 đoạn
h́nh chữ U.
Đường chữ U
này cắt vào
vùng đặc
quyền kinh
tế mà
Philippines
và Việt Nam
tuyên bố.
Trung Quốc
không thừa
nhận chủ
quyền của
các quốc gia
khác, nơi mà
có sự chồng
lấn với
tuyên bố của
Trung Quốc.
Trung Quốc
cũng xem
việc khai
thác và sản
xuất dầu và
khí của
Philippines
và Việt Nam
là hành động
đánh cắp tài
nguyên thiên
nhiên của
Trung Quốc
và vi phạm
chủ quyền
của nước
này.
Nhiều người
đánh giá các
hành động
vừa qua của
Trung Quốc
là phép thử
của nước này
đối với
ASEAN, Mỹ và
các thể chế
quốc tế.
Quan điểm
của ông?
Trung Quốc
muốn chia rẽ
các quốc gia
thành viên
ASEAN bằng
việc xem
Biển Đông là
vấn đề song
phương.
Trung Quốc
muốn kéo dài
các cuộc
thảo luận về
việc hướng
dẫn thi
hành DOC
cũng như COC
để tăng
cường sức
mạnh của
ḿnh.
Trung Quốc
muốn xây
dựng khu vực
an ninh Đông
Á không có
Mỹ. Phương
tiện chính
để đạt được
điều đó là
thông qua
tiến tŕnh
ASEAN+3.
ASEAN đă đáp
trả bằng
việc mở rộng
thành viên
của Cấp cao
Đông Á gồm
cả Mỹ và
Nga.
Bài toán với
ASEAN là duy
tŕ vai tṛ
trung tâm
của nó trong
cấu trúc an
ninh khu
vực.
Trung Quốc
đang thử Mỹ,
đặc biệt là
Hiệp định An
ninh Song
phương với
Philippines
. Hiệp định
được kí năm
1954, hai
năm trước
khi
Philippines
tuyên bố chủ
quyền với
cụm đảo mà
họ gọi là
Kalayaan. Mỹ
nói rằng
Hiệp định an
ninh song
phương không
bao phủ vùng
đất sau năm
1954. Nhưng
Mỹ nói nếu
các tàu quân
sự của
Philippines
bị tấn công,
Mỹ sẽ tới để
hỗ trợ
Philippines
.
Vào tháng 3,
hai tàu chở
dầu của
Trung Quốc
yêu cầu một
tàu thăm ḍ
địa chấn của
Philippines
rời khỏi
vùng biển
xung quanh
Reed Bank.
Tàu của
Trung Quốc
không phải
là tàu chiến
và không một
viên đạn nào
được bắn ra,
do đó
Philippines
không thể
kêu gọi hỗ
trợ của Mỹ.
Lập ủy ban
kiểm soát
khủng hoảng?
Liệu cuộc
cạnh tranh
chiến lược
giữa Mỹ và
Trung Quốc
ảnh hưởng
như thế nào
tới vấn đề
Biển Đông?
Cạnh tranh
chiến lược
giữa Trung
Quốc và Mỹ
chủ yếu tập
trung vào
vai tṛ của
mỗi bên ở
Châu Á -
Thái B́nh
Dương. Trung
Quốc xem Mỹ
là một cường
quốc bên
ngoài. Trung
Quốc đặc
biệt quan
ngại về vị
trí vượt
trội của hải
quân Mỹ ở
Tây Thái
B́nh Dương,
đặc biệt là
việc Mỹ ủng
hộ Đài Loan.
Hai bên cũng
khác biệt
trong quan
điểm về việc
luật quốc tế
áp dụng như
thế nào đối
với vùng đặc
quyền kinh
tế EEZ. Mỹ
cho rằng
Công ước
Luật biển
cho phép tàu
quân sự được
đi qua và
tiến hành
các thăm ḍ.
Trung Quốc
th́ khăng
khăng rằng
luật của
nước này hạn
chế các hoạt
động như vậy
là tuân thủ
luật quốc
tế. Mỹ vẫn
tiếp tục
tiến hành
các nhiệm vụ
hải giám tại
EEZ của
Trung Quốc
và Trung
Quốc đáp trả
bằng rất
nhiều h́nh
thức đe dọa
khác nhau.
Mỹ không
đứng về bên
nào trong
tranh chấp
chủ quyền ở
Biển Đông.
Một nước có
biên giới
biển có thể
tuyên bố
vùng đặc
quyền kinh
tế rộng 200
hải lư. Quốc
gia ven biển
có chủ quyền
đối với tài
nguyên trong
vùng đặc
quyền kinh
tế. Mỹ bác
bỏ bất ḱ
tuyên bố
biên giới
biển nào
không dựa
trên đất
liền. Và do
đó, Mỹ phủ
nhận cơ sở
tuyên bố
"chủ quyền
không thể
chối căi"
của Trung
Quốc.
Mỹ quan tâm
đến an toàn
và tự do
hàng hải ở
Biển Đông.
Trung Quốc
không trực
tiếp đe dọa
đến những
lợi ích này.
Mỹ có lợi
ích trong
việc ngăn
chặn bất ky
quốc gia
nào, mà
Trung Quốc
là ví dụ,
thực hiện bá
quyền ở Biển
Đông
Mỹ có lợi
ích trong
việc ngăn
chặn bất ḱ
quốc gia
nào, mà
Trung Quốc
là ví dụ,
thực hiện bá
quyền ở Biển
Đông. Do đó,
sự đối đầu
Mỹ - Trung
ảnh hưởng
tới mỗi quốc
gia ở Đông
Nam Á và
quan hệ của
họ với các
nước lớn.
Trung Quốc
muốn làm xói
ṃn quan hệ
đồng minh
của Mỹ với
Philippines
và Thái Lan.
Trung Quốc
cũng muốn
làm xói ṃn
ảnh hưởng
chính trị
của Mỹ.
Mỹ muốn ngăn
chặn sự xói
ṃn ảnh
hưởng chính
trị của
ḿnh.
Liệu những
căng thẳng
có leo thang
thành xung
đột vũ trang
trên Biển
Đông? Ngăn
chặn cách
nào?
Khả năng về
các sự cố vũ
trang giữa
các tàu hải
quân hai
nước luôn có
thể xảy ra.
Nhưng không
có vẻ ǵ nó
sẽ leo thang
trở thành
xung đột vũ
trang. Các
sự cố trên
biển dễ ngăn
chặn hơn là
trên biên
giới đất
liền bởi v́
nó cô lập
hơn và liên
quan ít lực
lượng hơn.
Cách tốt
nhất để ngăn
chặn những
va chạm và
căng thẳng
trở thành vũ
lực là đưa
tất cả hải
quân liên
quan đàm
phán một
hiệp định về
các sự cố
trên biển.
Nó có thể
trở thành
một bộ quy
tắc quy định
cách thức
hành xử của
các tàu
chiến khi
đối đầu.
Một hiệp
định như vậy
có thể đi
liền với các
cơ chế có
thể được áp
dụng nếu xảy
ra vũ lực:
đường dây
nóng, ủy ban
kiểm soát
khủng
hoảng...
ASEAN đoàn
kết để ḱm
Trung Quốc
“Mỹ bác bỏ
bất ḱ tuyên
bố biên giới
biển nào
không dựa
trên đất
liền. Và do
đó, Mỹ phủ
nhận cơ sở
tuyên bố
"chủ quyền
không thể
chối căi"
của Trung
Quốc”.
Vai tṛ
của ASEAN,
mỗi thành
viên ASEAN,
của Mỹ và
Trung Quốc
trong xung
đột ở Biển
Đông?
ASEAN từng
đưa ra 2
tuyên bố
quan ngại
đáp trả hành
động va chạm
do Trung
Quốc gây ra.
Lần đầu tiên
là năm 1992
và lần thứ 2
là năm 1995
sau sự kiện
Mischief
Reef. Năm
2002, ASEAN
cũng đàm
phán DOC với
Trung Quốc.
ASEAN cũng
thông qua
Hiệp định
Thân thiện
và hợp tác
mà Trung
Quốc, Mỹ và
các nước lớn
khác đều kí.
Hiệp định
này yêu cầu
các bên kí
kết không sử
dụng vũ lực
hay đe dọa
sử dụng vũ
lực trong
quan hệ.
Vai tṛ của
ASEAN là duy
tŕ quyền tự
quản của
ḿnh ở ĐNA
và vùng biển
của ḿnh
khỏi sự can
thiệp của
nước lớn.
ASEAN cần
thể hiện một
mặt trận
đoàn kết
trước nước
lớn như
Trung Quốc
trong vấn đề
Biển Đông.
ASEAN cũng
đóng vai tṛ
đặc biệt
theo Hiến
chương LHQ
với tư cách
một hiệp hội
khu vực.
Theo Hiến
chương,
ASEAN có
trách nhiệm
hành động
một khi xung
đột nổ ra.
ASEAN do đó
nên thảo
luận trực
tiếp về Biển
Đông với
Trung Quốc
và nếu vi
phạm vẫn
tiếp tục,
cần báo cáo
lên HĐBA
LHQ.
Mỗi thành
viên ASEAN
có quan hệ
song phương
khác nhau
với Trung
Quốc. Nhưng
trong vấn đề
Biển Đông,
chỉ có 4
quốc gia
thành viên
không nêu
vấn đề này
tại ARF 17
diễn ra
tháng
7/2010:
Myanmar,
Thái Lan,
Lào, và
Campuchia.
Mỗi nước
trong nhóm
này có liên
kết kinh tế
mạnh với
Trung Quốc.
Trường hợp
Brunei th́
chưa rơ
ràng. Nhưng
những quốc
gia có lợi
ích trực
tiếp ở Biển
Đông:
Indonesia ,
Philippines
, Singapore
và Việt Nam
đều nêu vấn
đề. Các nước
muốn Mỹ duy
tŕ can dự
để cân bằng
với Trung
Quốc. Và
muốn ASEAN
duy tŕ một
mặt trận
thống nhất
để đối phó
với Trung
Quốc.
Vai tṛ của
Mỹ là đóng
góp vào trật
tự khu vực
bằng việc
duy tŕ
nguyên trạng
và cung cấp
sự ủng hộ về
mặt ngoại
giao cho các
quốc gia
đang chịu
sức ép từ
Trung Quốc.
Mỹ đă đề
xuất sẽ tạo
mọi điều
kiện thuận
lợi để xây
dựng cơ chế
đa phương
giải quyết
tranh chấp
lănh thổ ở
Biển Đông.
Chỗ đứng của
Trung Quốc
là thuyết
phục các
nước ĐNA về
việc Trung
Quốc thay
thế Mỹ với
tư cách là
cường quốc
vượt trội ở
khu vực và
các quốc gia
khu vực nên
xếp hàng với
Bắc Kinh
và/hoặc chấm
dứt chính
sách gây hại
đến lợi ích
của Trung
Quốc.
Lựa chọn
chính sách
tốt nhất cho
Việt Nam ?
Việt Nam
phải xử lư
vấn đề này ở
3 cấp độ:
-
Thứ nhất
là, làm
ḿnh
mạnh
lên.
Việt Nam
cần đưa
ra một
chiến
lược và
nguồn
lực để
xây dựng
năng lực
quản lư
và thực
hiện
quyền
chủ
quyền ở
vùng đặc
quyền
kinh tế.
Đồng
thời,
Việt Nam
cần duy
tŕ sự
đoàn kết
trong
nước.
-
Hai là,
Việt Nam
phải dựa
vào
ngoại
giao cấp
cao với
Trung
Quốc,
bao gồm
các cuộc
gặp
thượng
đỉnh để
thảo
luận và
đưa ra
biện
pháp
ngăn
chặn các
sự cố
như việc
cắt cáp
dầu khí
của tàu
B́nh
Minh 02
vừa qua.
Lănh đạo
hai nước
nên chỉ
đạo nhóm
làm việc
chung
thông
qua một
hướng
dẫn phù
hợp.
-
Ba là,
Việt Nam
cần cùng
với
Indonesia
, nước
Chủ tịch
ASEAN để
duy tŕ
thống
nhất và
cách
tiếp cận
chung
đối với
Trung
Quốc.
Đồng
thời,
Việt Nam
cần vận
động
hành
lang các
thành
viên
khác của
ASEAN.
*****
Tranh chấp
Biển Đông
tiếp tục gây
chú ư tại
Đông Nam Á,
thế giới
VOA -
Thứ Tư, 08
tháng 6 2011
Người dân
Việt Nam
biểu t́nh
chống Trung
Quốc tại Hà
Nội, ngày 5
tháng 6,
2011 - H́nh:
Reuters
Giữa lúc
Trung Quốc,
Philippines
và Việt Nam
tái khẳng
định chủ
quyền của
ḿnh tại
Biển Nam
Trung Hoa,
tức Biển
Đông, và
tiếp tục lời
qua tiếng
lại đổ lỗi
cho nhau là
đă làm tăng
căng thẳng
trong khu
vực, những
diễn tiến
mới trong
cuộc tranh
chấp đă thu
hút sự chú ư
của truyền
thông thế
giới.
Tờ The Wall
Street
Journal, số
ra ngày hôm
nay, thuật
lại những sự
kiện gần đây
trong vùng
biển Đông và
những phản
ứng tại Việt
Nam, với
hàng trăm
người tham
gia biểu
t́nh tại Hà
Nội vào cuối
tuần qua để
phản đối các
hành động
của Trung
Quốc.
Báo này nói
những cuộc
biểu t́nh
hay tập hợp
của công
chúng hiếm
khi diễn ra
ở Việt Nam,
cho nên khi
dân chúng
biểu t́nh,
th́ đây là
một dấu hiệu
cho thấy nhà
nước Việt
Nam coi vấn
đề đủ nghiêm
trọng để cho
phép các
cuộc tập hợp
như thế.
The Wall
Street
Journal nói
mặc dù những
tranh chấp
lănh thổ tại
Biển Đông từ
lâu vẫn gây
căng thẳng
trong khu
vực, trong
vài năm trở
lại đây,
ngoại giao
đă chuyển
hướng để trở
nên đối
nghịch hơn,
ngay cả
trước khi
Bắc Kinh
tuyên bố
vùng biển
này là
'quyền lợi
cốt lơi' của
họ.
Theo tờ báo
này th́
trước chiều
hướng đó, Hà
Nội phần lớn
vẫn giữ im
lặng.
Vietnam Net
Bridge đă
đăng một bài
phỏng vấn
Thượng Tướng
Nguyễn Chí
Vịnh tại
diễn đàn an
ninh
Shrangri-La,
Singapore,
trong đó Phó
Bộ trưởng
Quốc pḥng
Việt Nam nói
rằng sự kiện
mới đây ở
Biển Đông
không đủ
nghiêm trọng
để Việt Nam
phải củng cố
lực lượng
hải quân một
cách quá vội
vă.
Trả lời câu
hỏi của một
nhà báo, hỏi
rằng Việt
Nam sẽ làm
ǵ để bảo vệ
các hoạt
động ḍ t́m
dầu hỏa tại
Biển Đông,
Tướng Nguyễn
Chí Vịnh xác
nhận Việt
Nam không ḍ
t́m dầu hỏa
trong các
khu vực
tranh chấp
mà chỉ trong
các vùng
biển thuộc
chủ quyền
của Việt
Nam. Và ông
đơn cử
trường hợp
tàu B́nh
Minh 2, sau
khi đươc sửa
chữa, đă
tiếp tục các
hoạt động ḍ
t́m của
ḿnh.
Trong suốt
chiều dài
lịch sử,
giữa Việt
Nam và Trung
Quốc vẫn xảy
ra nhiều
cuộc đối
đầu, mặc dù
quan hệ đă
cải thiện
trong nhiều
năm qua với
nước láng
giềng phương
Bắc vẫn được
coi là kẻ
thù truyền
thống của
Việt Nam, đă
khiến Hà Nội
giờ đây ngại
ngần, không
tỏ ra quyết
liệt hơn
liên quan
tới cuộc
tranh chấp ở
Biển Đông.
Dưới hàng
tít 'Việt
Nam và Con
Rồng', ám
chỉ Trung
Quốc, bài
báo ghi thêm
tiêu đề:
Đông Nam Á
cần sự hỗ
trợ của Hoa
Kỳ để chống
chọi với
hành động
hiếp đáp của
Trung Quốc.
Trong thời
gian qua,
nhiều nhà
hoạt động
tích cực, và
các blogger
chỉ trích
chính sách
ngoại giao
mềm mỏng đó
của Hà nội
đối với Bắc
Kinh, đă bị
bắt bớ và
tống giam.
Nhưng tờ The
Wall Street
Journal nhận
định rằng
giờ đây,
dường như Hà
nội đang
chuẩn bị để
kêu gọi sự
chú ư rộng
răi hơn của
công luận
quốc tế về
vấn đề này.
Tờ báo nói
từ bỏ chính
sách ngoại
giao ôn ḥa
đó để công
khai hậu
thuẫn t́nh
cảm bài
Trung Quốc
của công
chúng là 'tự
sát', trừ
phi Hà nội
có lư do để
tin rằng
Việt Nam có
nhiều đồng
minh hậu
thuẫn ḿnh.
Lên tiếng
hồi cuối
tuần, Bộ
trưởng Quốc
pḥng Việt
Nam Phùng
Quang Thanh
đă góp tiếng
cùng các vị
tương nhiệm
Philippine
và Malaysia,
tiếp tục
nhấn mạnh
rằng cuộc
tranh chấp
với Trung
Quốc phải
được giải
quyết mà
không có sự
can thiệp
của các bên
thứ Ba.
Tuy nhiên,
mới đây
dường như
đang có
khuynh hướng
ủng hộ một
vai tṛ cho
các bên thứ
Ba đặc biệt
là Hoa Kỳ,
trong các nỗ
lực nhằm
giải quyết
cuộc tranh
chấp ở Biển
Đông.
Tại Diễn Đàn
An Ninh Châu
Á ở
Singapore
hồi cuối
tuần, Bộ
trưởng Quốc
pḥng Hoa Kỳ
Robert Gates
nói giải
pháp tốt
nhất để giải
quyết vụ
tranh chấp
hiện nay là
nhờ đến một
bên thứ Ba
đứng ngoài
làm trung
gian điều
giải.
Ông Robert
Gates nói
ông lo sợ
rằng nếu
không phác
họa ra luật
chơi một
cách rơ
ràng, và
đồng thuận
về hướng
tiếp cận để
xử lư vấn
đề, th́ các
vụ đụng độ
khác sẽ tiếp
tục xảy ra
trong vùng
tranh chấp ở
Biển Đông.
Những cố
gắng của
ASEAN cho
tới nay đă
tỏ ra không
mấy hữu
hiệu. Tờ báo
nói với sự
hậu thuẫn
của Hoa Kỳ,
ASEAN sẽ có
thể đưa ra
một mặt trận
thống nhất
hơn, để có
thể giúp các
nước hội
viên tuyên
bố chủ quyền
tại Biển
Đông, đối
đầu ngang
hàng hơn
trước thái
độ cứng rắn
hơn của
Trung Quốc
liên quan
tới cuộc
tranh chấp ở
Biển Đông.
Nguồn:
The Wall
Street
Journal,
VietnamNet
*****
Biển Đông:
Úc nghiêng
về đâu?
Việt Hà –
RFA -
2011-06-09
Tàu Trung
Quốc tiếp
tục cắt cáp
thăm ḍ của
tàu Viking
của Petro
Việt Nam
sáng 9 tháng
6 tiếp sau
vụ tàu B́nh
Minh 2 hôm
26 tháng 5.
Vụ xung đột
có ảnh hưởng
thế nào đối
với các nước
lớn khác
trong khu
vực như Úc?
F-111 của Úc
đánh ch́m
tàu Bắc Hàn
chở ma
túy-2006 -
AFP photo
Diễn đàn Đối
thoại
Shangri La
tại
Singapore đă
kết thúc,
giữa lúc
những căng
thẳng trên
biển Đông
đang khiến
nhiều nước
quan ngại.
Vụ tàu Trung
Quốc cắt cáp
thăm ḍ của
tàu Viking
của Petro
Việt Nam đă
là vụ thứ
nh́. Việt Hà
phỏng vấn
giáo sư Nick
Bisley dạy
môn quan hệ
quốc tế tại
trường đại
học La Trope
của Úc. Giáo
sư Bisley
cũng là
thành viên
của Hội đồng
an ninh và
hợp tác châu
Á Thái B́nh
Dương, và đă
có mặt tại
diễn đàn đối
thoại
Shangri La
vừa qua ở
Singapore.
Cơ cấu kiềm
chế xung đột
Việt Hà:
Xin ông cho
biết những
căng thẳng
trên biển
Đông có ảnh
hưởng thế
nào đối với
Úc?
Nick
Bisley:
quan điểm
của Úc cũng
giống như
nhiều nước
khác quan
tâm đến các
diễn biến
trên biển
Đông. Mối
quan ngại
lớn nhất là
những xung
đột rơ ràng
tại biển
Đông, nơi
quyền lợi
của các nước
lớn như Mỹ
và Trung
Quốc cùng
một số nước
khác tại
Đông nam Á
lại trùng
hợp nhau.
Những đụng
độ xẩy ra
thường xuyên
xuất phát từ
nguyên nhân
do mối lợi
bị va chạm
th́ sẽ không
chỉ là những
đụng độ nhỏ
trên biển mà
có thể xảy
ra những
xung đột lớn
hơn.
Ngoại trưởng
Úc Kevin
Rudd - AFP
photo
“kể cả Trung
Quốc và Mỹ
đều không
muốn đi theo
hướng mà họ
cho là có
thể ràng
buộc những
họat động
của họ trong
một quá
tŕnh đa
phương”
GS Nick
Bisley
Quan điểm
của Úc cũng
như một số
nước khác
trong khu
vực là cần
tạo ra một
cơ cấu để có
thể kiểm
soát và kiềm
chế được các
xung đột
này, tránh
các xung đột
có thể leo
thang thành
xung đột lớn
hơn. Nhưng
vấn đề mà
chúng tôi
gặp phải,
cũng được
thể hiện ở
Shangri La,
là kể cả
Trung Quốc
và Mỹ đều
không muốn
đi theo
hướng mà họ
cho là có
thể ràng
buộc những
họat động
của họ trong
một quá
tŕnh đa
phương. Cho
nên ASEAN,
Úc, Nhật,
Hàn Quốc đă
nhiều lần
đưa ra các
đề nghị
nhiều bên để
kiểm soát và
kiềm chế
những xung
đột trên
biển, hay
khi xày ra
khủng hoảng,
thậm chí đề
nghị một bộ
quy tắc ứng
xử. Tuy
nhiên cả
Trung Quốc
lẫn Hoa Kỳ
đều không
muốn bị ràng
buộc bởi cơ
chế này. Úc
cũng như
nhiều nước
khác cũng có
quyền lợi
gián tiếp
liên quan
đến những sự
kiện tại
biển Đông
nhưng không
thể làm được
ǵ nhiều bởi
những ảnh
hưởng mạnh
từ hai cường
quốc, mà họ
không sẵn
sàng thay
đổi lập
trường để
phù hợp với
một quá
tŕnh đa
phương.
Úc nghiêng
phía nào?
Việt Hà:
ông có nghĩ
có một lúc
nào đó Úc sẽ
trực tiếp
can thiệp
vào những
căng thẳng
trên biển
Đông ? Nếu
có là trong
trường hợp
nào? Mức độ
ra sao?
Nick
Bisley:
tôi nghĩ rất
khó có khả
năng Úc sẽ
can thiệp
vào những sự
kiện đụng độ
nhỏ trên
biển Đông,
Úc không
muốn tham
gia về mặt
quốc pḥng
vào các khu
vực nhạy cảm
như biển
Đông. Úc sẽ
rất miễn
cưỡng trong
chuyện này
trừ khi có
sự hậu thuẫn
của Liên
Hiệp Quốc
hay đa quốc
gia.
“nếu Mỹ cần
sự đóng góp
của Úc th́
Úc sẽ không
thể không
tham gia dù
khó khăn”
GS Nick
Bisley
Ngoại lệ duy
nhất là khi
xảy ra xung
đột nghiêm
trọng giữa
Trung Quốc
với Mỹ.
Trong trường
hợp đó, vị
trí của Úc
là rất khó
khăn v́ Úc
là đồng minh
của Mỹ, tôi
cho là sẽ
không có một
hành động
can thiệp
quân sự nào
của Mỹ mà Úc
không tham
gia. Về mặt
chính trị
th́ cũng sẽ
rất khó cho
Úc để nói
“không” với
Mỹ. Tôi nói
một ví dụ về
Đài Loan, dù
đây không
phải là biển
Đông nhưng
cũng gần đó,
và đây là
một bất đồng
giữa Mỹ và
Trung Quốc.
Tôi nghĩ Úc
sẽ rất khó
khăn khi
phải chọn
lựa giữa một
bên là đồng
minh Mỹ và
một bên là
một nước
nhập khẩu
lớn của Úc,
đối tác
thương mại
lớn của Úc
là Trung
Quốc. Có rất
nhiều lư do
mà Úc muốn
tránh can
thiệp nhưng
cuối cùng
nếu Mỹ cần
sự đóng góp
của Úc th́
Úc sẽ không
thể không
tham gia dù
khó khăn, kể
cả vấn đề về
biển Đông.
Trung Quốc
không đáp
ứng
Việt Hà:
Vậy theo ông
chính phủ Úc
sẽ làm ǵ
trong thời
gian sắp tới
và phải làm
ǵ để thúc
đẩy quá
tŕnh đưa
đến việc t́m
ra một giải
pháp cho vấn
đề biển
Đông?
Nick
Bisley:
đối với Úc,
cách duy
nhất để Úc
có thể đạt
được mục
đích về
chính sách
trong khu
vực là t́m
đối tác để
cùng làm
việc. Úc một
ḿnh chỉ là
nước nhỏ và
không muốn
đơn độc một
ḿnh, mà
muốn làm
việc với các
nước khác có
cùng quan
điểm để t́m
ra một cơ
chế đa
phương. Thái
độ của Úc
như tôi biết
được qua sự
tiếp xúc với
giới chức
chính phủ
lúc này là
đồng hành
với ASEAN để
đạt được bộ
quy tắc về
ứng xử trên
biển Đông,
hay có thể
là một tuyên
bố mạnh hơn
bản tuyên bố
năm 2002.
Cho nên Úc
đang cố gắng
hết sức ḿnh
để làm việc
cùng ASEAN
hầu t́m ra
cách kiểm
soát các vấn
đề về biển
Đông. Nhưng
viễn ảnh đạt
được kết quả
như mong
muốn th́
thực sự
không sáng
sủa lắm.
Theo tôi bên
ngoài ASEAN
mọi người
muốn nh́n
thấy Úc
thành công
trong việc
thực hiện
được một
điều ǵ đó
để cuối cùng
ASEAN, Úc,
Nhật, Hàn
quốc có thể
tạo dựng
được một
cách để kiềm
chế khủng
hoảng trên
biển Đông.
Nhưng tất cả
c̣n lệ thuộc
vào sự hưởng
ứng của Mỹ
và Trung
Quốc. Trong
hai nước lớn
này, nước có
vẻ sẵn sàng
hơn trong
việc ủng hộ
sự thành
h́nh những
quy định
chung cho
biển Đông là
Mỹ. Chính bộ
trưởng quốc
pḥng Mỹ đă
nói tại
Shangri-la
là nếu không
có một quy
định chung
như vậy th́
khả năng
căng thẳng
leo thang là
có thể xảy
ra. Quả bóng
đang ở bên
sân của
Trung Quốc
nhưng với
những ǵ mà
tôi quan sát
th́ tôi
không nghĩ
Trung Quốc
sẽ có những
chuyển động
tích cực
đáng nói
trong vấn đề
này.
May lắm chỉ
đạt một thời
biểu
Một góc chợ
Việt Nam ở
Sydney-AFP
photo
Việt Hà:
Ông có nói
đến việc đưa
ra một cơ
chế đa
phương cho
vấn đề biển
Đông. Chúng
ta đă có
tuyên bố về
ứng xử của
các bên và
đang mong
đợi một bộ
quy tắc về
ứng xử của
các bên trên
biển Đông,
theo ông đâu
là khó khăn
cho ASEAN
trong việc
tiến tới một
bộ quy tắc
như vậy?
Nick
Bisley:
tôi nghĩ là
khả năng của
Asean để
nhất trí với
nhau về vấn
đề này là
rất hạn chế.
Chúng ta
thấy một ví
dụ điển h́nh
là xung đột
đang diễn ra
giữa Thái
lan và
Campuchia
cho thấy khả
năng giải
quyết vấn đề
của ASEAN
giữa các
thành viên
hạn chế thế
nào. Rơ ràng
là ASEAN
cũng làm
được những
điều có lợi
cho các nước
thành viên
nhưng trong
các vấn đề
về tranh
chấp chủ
quyền lănh
thổ th́
ASEAN c̣n
hạn chế. Và
việc mà
chúng ta
đang làm là
thiết lập
được COC cho
ASEAN và
Trung Quốc.
Điều này
đang tạo ra
một khó khăn
kép cho
ASEAN.
“do sự khác
biệt giữa
các nước mà
một COC có
tính ràng
buộc là rất
khó đạt
được”
GS Nick
Bisley
Thứ nhất là
sự khác biệt
giữa các
nước thuộc
khối, họ
cũng có
tranh chấp.
Thứ hai là
với Trung
Quốc rồi c̣n
Mỹ. Cho nên
khó mà có
thể hy vọng
vào một COC
phát xuất
trước từ
ASEAN có
tính ràng
buộc và làm
nguội t́nh
h́nh trong
tương lai
gần. ASEAN
theo đuổi
con đường
ngoại giao
và điều có
thể xảy ra
theo tôi có
lẽ là một
dạng giữa
COC và tuyên
bố về cách
ứng xử của
các bên, có
thể là một
thỏa thuận
giữa các bên
về một quá
tŕnh tiến
tới để đạt
được COC.
Tôi nghĩ do
sự khác biệt
giữa các
nước mà một
COC có tính
ràng buộc là
rất khó đạt
được, nhưng
rơ ràng là
đă 9 năm rồi
và vấn đề
chỉ càng trở
nên phức tạp
hơn ngay cả
trong trường
hợp ASEAN
muốn giữ thể
diện của
ḿnh mà nói
rằng muốn
làm được cái
ǵ đó để có
thể cho mọi
người thấy.
Tôi nghĩ là
rất có thể
chúng ta sẽ
nh́n thấy
cái ǵ đó
như là một
tiến tŕnh,
một thời
biểu thôi,
v́ ASEAN th́
thích cái
gọi là quá
tŕnh nhưng
tôi không
tin là một
COC có thể
thỏa măn
được tất cả
các bên có
thể sớm
thành h́nh.
Việt Hà:
Xin cảm ơn
ông đă dành
cho đài Á
châu tự do
buổi phỏng
vấn này.
Copyright ©
1998-2011
Radio Free
Asia . All
rights
reserved.
*****
Căng thẳng ở
biển Đông có
thể dẫn đến
xung đột
quân sự
Việt Hà,
phóng viên
RFA -
2011-06-11
Trong loạt
bài t́m hiểu
ư kiến giới
quan sát
quốc tế về
vấn đề Biển
Đông, Việt
Hà tiếp tục
có bài phỏng
vấn ông Ian
Storey, một
chuyên gia
về Đông Nam
Á.
Bộ ngoại
giao
Phillipines
cho phổ biến
ảnh tàu
Trung Quốc
xâm phạm
vùng biển
đặc quyền
kinh tế gần
đảo chính
Palawan của
nước này hôm
và 24 tháng
5, 2011 -
AFP
Ông Storey
cũng là
người tham
dự diễn đàn
đối thoại
Shangri La ở
Singapore
vừa qua, và
đă có những
bài viết về
vấn đề xung
đột trên
Biển Đông.
Hung hăng
hăm dọa
Việt Hà:
Trước hết
xin ông cho
biết đánh
giá của ḿnh
về hành động
mới đây nhất
của Trung
Quốc cắt cáp
một tàu thăm
ḍ khác của
Việt Nam vào
ngày 9 tháng
6, chỉ vài
ngày sau
Shangri La
và không lâu
sau vụ thứ
nhất. Mức độ
nguy hiểm
của hành
động mới này
thế nào?
Ian
Storey:
Đây là một
trong một
loạt các
hành động đă
xảy ra trong
vài tháng
qua không
chỉ bao gồm
Việt Nam mà
c̣n bao gồm
cả
Philippines
. Trung Quốc
đă trở nên
mạnh mẽ hơn
trong việc
đ̣i chủ
quyền trên
biển Đông
trong vài
năm qua. Chỉ
trong vài
tháng qua
th́ hành
động của
Trung Quốc
thêm hung
hăng để t́m
cách khiến
các nước
khác không
thể khai
thác nguồn
lợi về dầu
khí trên
biển Đông.
12 thuyền
đánh cá
Trung Quốc
cột dây
thừng với
nhau thành
hàng ngang
để ngăn chặn
nỗ lực bảo
vệ bờ biển
của tàu Hàn
Quốc - AFP
photo.
Việt Hà:
Nguyên
nhân nào
Trung Quốc
lại trở nên
hung hăng
hơn trong
các tháng
vừa qua?
Ian
Storey:
Nó có nhiều
lư do khiến
Trung Quốc
trở nên hung
hăng hơn
trong vài
tháng qua,
thứ nhất là
Trung Quốc
có khả năng
về quân sự
để tạo sức
ép khi đ̣i
chủ quyền
trên biển
Đông. Chúng
ta có cơ hội
về chính trị
vào năm tới
khi có đại
hội đảng
nhưng không
một lănh đạo
Trung Quốc
nào tỏ ra
mềm mỏng đối
với vấn đề
chủ quyền.
Ngoài ra tôi
cũng cho
rằng Trung
Quốc đang
muốn thử các
nước đ̣i chủ
quyền khác
trong khu
vực và cả Mỹ
nữa, vốn là
nước đă lên
tiếng quan
ngại về căng
thẳng trên
Biển Đông
trong ṿng
18 tháng
qua.
Việt Hà:
Các nước
Việt Nam,
Philippines
đều đă có
những phản
ứng phản đối
Trung Quốc
về mặt ngoại
giao và thậm
chí căng
thẳng trên
Biển Đông
c̣n được đưa
ra các hội
nghị quốc tế
mà gần đây
nhất là diễn
đàn đối
thoại
Shangri La
nơi có cả Mỹ
và nhiều
nước khác,
dường như
các phản ứng
như vậy chưa
đủ mạnh với
Trung Quốc
với bằng
chứng là
hành động
gần đây nhất
của Trung
Quốc với tàu
Viking của
Việt Nam ?
“Họ nói là
họ cam kết
đảm bảo sự
ổn định trên
Biển Đông và
tuân thủ
tuyên bố
chung của
các bên về
ứng xử trên
biển Đông
được kư năm
2002 nhưng
hành động
của họ th́
vẫn tiếp tục
mạnh mẽ và
hung hăng
với các nước
khác”.
Ian Storey
Ian
Storey:
Trong năm
2010 một
loạt nước
tại diễn đàn
khu vực
ASEAN vào
tháng 7 và
hội nghị
quốc pḥng
ASEAN vào
tháng 10 đă
đưa ra các
thông điệp
tới Trung
Quốc là họ
không hài
ḷng và quan
ngại với
thái độ của
Trung Quốc
không chỉ
trên biển
Đông mà c̣n
cả các vùng
biển khác.
Có mong đợi
là nếu có
những chỉ
trích đồng
loạt như vậy
th́ Trung
Quốc sẽ xem
xét lại
chính sách
của ḿnh
nhưng thực
tế họ đă
không làm
vậy. Tôi
không thấy
các dấu hiệu
này. Họ nói
là họ cam
kết đảm bảo
sự ổn định
trên Biển
Đông và tuân
thủ tuyên bố
chung của
các bên về
ứng xử trên
biển Đông
được kư năm
2002 nhưng
hành động
của họ th́
vẫn tiếp tục
mạnh mẽ và
hung hăng
với các nước
khác.
Hiện đại hóa
quân đội
Việt Hà:
Ông đánh giá
thế nào về
mức độ quan
ngại và sự
chuẩn bị của
các nước
trước các
hành động
của Trung
Quốc?
Ian
Storey:
Tôi nghĩ là
các nước
trong khu
vực và thậm
chí là cả
vùng đông
bắc là Nhật
Bản rất lo
ngại về đ̣i
hỏi của
Trung Quốc
về lănh thổ
trên biển.
Họ phản ứng
thế nào? Họ
theo đuổi
một loạt các
chiến lược,
họ theo đuổi
con đường
ngoại giao,
họ nói
chuyện với
Trung Quốc
song phương
và cả đa
phương.
Một vài nước
c̣n hiện đại
hóa quân đội
như để bảo
vệ ḿnh
trước Trung
Quốc. Ví dụ
điển h́nh là
Việt Nam mua
máy bay
chiến đấu và
tàu ngầm từ
Nga. Một vài
nước trong
vùng Đông
Nam Á đang
tiến gần hơn
với Mỹ v́ Mỹ
là nước duy
nhất có thể
cân bằng với
Trung Quốc
trên Biển
Đông.
Mỹ cam kết
có mặt
BT Quốc
pḥng Mỹ
Robert Gates
và BT Quốc
pḥng Trung
Quốc Lương
Quang Liệt
tại Hội nghị
Thượng đỉnh
An ninh châu
Á lần thứ 10
tại
Singapore
ngày 3 tháng
6 năm 2011
Việt Hà:
Có phân
tích gia cho
rằng Mỹ chỉ
có thể đưa
ra lời nói
mà không thể
có hành động
v́ Mỹ đang
phải đối mặt
với nhiều
vấn đề trong
và ngoài
nước, đặc
biệt là thâm
hụt ngân
sách. V́ vậy
khả năng Mỹ
can thiệp
quân sự vào
xung đột
trên biển
Đông khi có
những đụng
độ quân sự
là rất khó
xảy ra. Theo
ông th́ sao?
Ian
Storey:
Tôi nghĩ c̣n
hơn là lời
nói từ phía
Mỹ, mặc dù
đúng là thực
tế nước Mỹ
đang phải
đối mặt với
khó khăn về
kinh tế và
ảnh hưởng
tới ngân
sách của họ.
Nhưng Bộ
trưởng quốc
pḥng Mỹ
Robert Gates
đă nói rơ là
Mỹ cam kết
về mặt quân
sự trong khu
vực, sẽ tăng
thêm sự có
mặt của ḿnh
tại khu vực,
và thắt chặt
quan hệ với
các nước
khác trong
khu vực.
Theo tôi mặc
dù Mỹ không
phải là một
nước tranh
giành trực
tiếp về chủ
quyền trên
biển Đông
với Trung
Quốc nhưng
Mỹ thực sự
quan ngại về
sự ổn định
trong khu
vực và lo
lắng về việc
đi lại trong
khu vực sẽ
trở nên khó
khăn và nguy
hiểm hơn.
Cho nên theo
tôi Mỹ sẽ
tiếp tục
theo dơi
t́nh h́nh
tại biển
Đông và cho
mọi người
biết những
quan ngại
của ḿnh.
Việt Hà:
Trong
diễn đàn
Shangri La,
Philippines
lên án việc
Trung Quốc
đổ vật liệu
ở khu vực
gần Reed
Bank (Băi Cỏ
Rong) và ông
có nói rằng
đây là hành
động vi phạm
nghiêm trọng
nhất kể từ
khi DOC được
kư vào năm
2002. Ông
đánh giá mức
độ vi phạm
nghiêm trọng
này thế nào
trong bối
cảnh Trung
Quốc liên
tục gây khó
khăn cho các
tàu của Việt
Nam thời
gian gần
đây?
“Nhưng tôi
nghĩ những
ǵ sẽ xảy ra
trong ṿng 6
tháng tới 1
năm nữa sẽ
là sự gia
tăng có mặt
của hải quân
Mỹ trong khu
vực, và hy
vọng điều
này có thể
làm các nước
trong khu
vực b́nh
tĩnh hơn”.
Ian Storey
Ian
Storey:
Có báo cáo
cho biết là
tàu Trung
Quốc đă đổ
vật liệu xây
dựng tại Amy
Douglas Reed
vào cuối
tháng 5 và
theo tôi đây
là hành động
nghiêm trọng
hơn nhiều
các hành
động cắt cáp
tàu Việt Nam
.
Tuyên bố
chung của
các bên về
ứng xử trên
biển Đông
hồi năm 2002
chỉ rơ là
cấm các bên
chiếm đóng
các đảo và
băi chưa
chiếm đóng.
Từ năm 2002
tất cả các
bên đều tuân
thủ điều
này. Nhưng
nếu đúng là
Trung Quốc
đă đổ vật
liệu và có
dự định xây
dựng trên đó
th́ cho đến
giờ đó là
hành động vi
phạm DOC
nghiêm trọng
nhất kể từ
năm 2002.
Việt Hà:
Với những
căng thẳng
tiếp tục gia
tăng tại
biển Đông và
thái độ cứng
rắn của
Trung Quốc
theo ông
liệu Trung
Quốc c̣n có
thể đi xa
đến mức độ
nào trong
việc đ̣i chủ
quyền trên
biển?
Ian
Storey:
Những sự
kiện gần đây
liên quan
đến các tàu
cá và tàu
thăm ḍ có
thể leo
thang thành
những xung
đột vũ trang
nghiêm trọng
hơn. Nói ví
dụ là vụ 26
tháng 5, sau
đó tàu Việt
Nam có quay
lại và tôi
đọc báo và
thấy nói là
có tàu hộ
tống.
Chẳng hạn
những tàu
này gặp tàu
Trung Quốc
trong tương
lai và bắn
nhau th́
trên thực tế
không có cơ
chế nào ngăn
chặn những
hành động
này và đây
là mối nguy
hiểm thực sự
tại biển
Đông, gây
thiệt mạng,
mất ổn định
trong khu
vực, và gia
tăng căng
thẳng.
Khu trục hạm
USS
Chung-hoon
của Hoa Kỳ
Photo
courtesy of
Wikipedia
Việt Hà:
Trong
trường hợp
như vậy,
liệu có thể
hy vọng Hoa
Kỳ sẽ can
thiệp?
Ian
Storey:
Như tôi đă
nói là Hoa
Kỳ không
theo bên nào
nhưng theo
đuổi một
giải pháp
ḥa b́nh
theo luật
quốc tế,
phản đối các
hành động sử
dụng vũ lực,
và đe dọa vũ
lực. Nhưng
tôi nghĩ
những ǵ sẽ
xảy ra trong
ṿng 6 tháng
tới 1 năm
nữa sẽ là sự
gia tăng có
mặt của hải
quân Mỹ
trong khu
vực, và hy
vọng điều
này có thể
làm các nước
trong khu
vực b́nh
tĩnh hơn.
Việt Hà:
ASEAN bị
chia rẽ và
nhiều người
lo ngại rằng
sau
Indonesia,
các nước
khác làm chủ
tịch là nước
nhỏ, chịu
ảnh hưởng
của Trung
Quốc và
không có
quyền lợi
trên Biển
Đông th́
Trung Quốc
sẽ lấn át
hơn nữa, bây
giờ họ chỉ
đợi hết nửa
năm nữa là
hết nhiệm kỳ
của
Indonesia.
Theo ông
trong ṿng 3
đến 4 năm
nữa, với
t́nh h́nh
như vậy,
điều ǵ sẽ
xảy ra với
xung đột
trên Biển
Đông?
Ian
Storey:
Khó để nói
điều ǵ sẽ
xảy ra trong
ṿng 4 năm
nữa, nhưng
rơ ràng là
khi Việt Nam
là chủ tịch
ASEAN vào
năm ngoái,
Việt Nam đă
rất quan tâm
đến việc đưa
vấn đề này
vào nghị sự,
Indonesia
cũng nói là
sẽ cho vấn
đề này vào
ưu tiên khi
làm chủ tịch
dù không
quan tâm
nhiều như
Việt Nam.
Tôi nghĩ là
khi
Campuchia là
chủ tịch
ASEAN, v́
quan hệ mật
thiết giữa
Campuchia và
Trung Quốc
tôi không
cho rằng
ASEAN sẽ
quan tâm đến
vấn đề Biển
Đông lắm.
Việt Hà:
Xin cảm
ơn ông.
*****
Việt Nam
phải hành
động kiên
quyết hơn để
bảo vệ chủ
quyền biển
đảo
RFI -
Chủ nhật 12
Tháng Sáu
2011
Bản đồ yêu
sách lănh
hải tại biển
Đông, trong
đó có yêu
sách của
Trung Quốc
mang tên gọi
"đường lưỡi
ḅ", hay
h́nh chữ U
-
Nguồn :
eia.doe.gov
Lê Phước
Chủ đề Biển
Đông và thái
độ trịch
thượng của
Trung Quốc
đối với các
nước láng
giềng đă thu
hút mạnh mẽ
báo chí thế
giới. Tạp
chí
Courrier
International
nhận định,
ngày 26/5,
tàu Trung
Quốc đă tấn
công tàu
Việt Nam
trong vùng
biển thuộc
chủ quyền
Việt Nam, sự
việc gây
phẫn nộ cho
báo giới địa
phương. Minh
chứng cho
nhận định
này,
Courrier
International
dẫn lại
bài của báo
Thanh
Niên
(Việt Nam)
với ḍng tựa
“Một hành
động quá
đáng của
Trung Quốc”.
Theo
Thanh Niên,
từ nhiều năm
nay, mỗi khi
tàu đánh cá
Việt Nam bị
tàu ngoại
quốc tấn
công, Việt
Nam thường
cho rằng đó
là những
“tên
cướp biển lạ”,
và phải chờ
đợi điều tra
để xác định
chính xác
thủ phạm.
Thế nhưng,
sau sự việc
diễn ra ngày
26/5 chỉ nằm
cách bờ biển
Việt Nam có
120 hải lư,
hoàn toàn
nằm trong
vùng đặc
quyền kinh
tế của Việt
Nam, sự nghi
ngờ không
c̣n có chỗ
đứng nữa.
Nhân dạng và
mục đích của
kẻ tấn công
đă trở nên
rơ ràng hơn
bao giờ hết.
Tàu tuần tra
Trung Quốc
đă ngang
nhiên xâm
nhập vùng
biển thuộc
chủ quyền
Việt Nam và
c̣n cắt cáp
tàu B́nh
Minh II
thuộc tập
đoàn dầu khí
quốc gia
Petrovietnam
đang thăm ḍ
dầu hỏa.
Trung Quốc
yêu sách 80%
diện tích
Biển Đông,
v́ thế mới
hành động
như vậy.
Hành động đó
đă vi phạm
chủ quyền đă
được thiết
lập vững
chắc của một
quốc gia.
Theo nhiều
chuyên gia,
những yêu
sách của
Trung Quốc
dựa trên bản
đồ chín
đoạn, hay
“đường
lưỡi ḅ”
là hoàn toàn
thiếu căn
cứ. Hành
động vừa rồi
của Trung
Quốc đă cho
thấy tham
vọng bá
quyền và
quyết tâm
thách thức
dư luận quốc
tế của nước
này. Hơn
nữa, hành
động đó c̣n
đi ngược lại
tất cả các
thhỏa thuận
trong bản
Tuyên bố về
ứng xử tại
Biển Đông
được kư kết
giữa Trung
Quốc và các
nước Asean
hồi năm
2002.
Báo Thanh
Niên kêu
gọi, ngày
nay người
Việt Nam
phải phản
ứng chính
thức và
khẳng định
quyết tâm.
Nhiều năm
qua, hàng
chục tàu các
Việt Nam đă
bị tàu Trung
Quốc tấn
công trong
khi hoạt
động trong
lănh hải
Việt Nam và
không hề vi
phạm luật lệ
ǵ. Thế mà,
Việt Nam đă
không phản
ứng mạnh.
Trong khi
đó, Trung
Quốc đă tỏ
ra khinh
nhờn và lợi
dụng sự kiềm
chế của Việt
Nam.Trung
Quốc đă tiếp
tục cư xử
một cách vô
trách nhiệm.
Tờ báo kết
luận: Do
không phản
ứng kiên
quyết, hiện
tại chúng ta
có nguy cơ
phải chịu
nhiều tổn
thất về kinh
tế, và nếu
cứ như vậy,
phẩm giá của
dân tộc ta
sẽ bị xúc
phạm.
Nhận định về
phản ứng
mạnh mẽ của
báo giới địa
phương,
Courrier
International
cho
biết, Hà Nội
thường có
thái độ
nhường nhịn
trước việc
xâm phạm
lănh hải của
tàu Trung
Quốc, thế
nhưng lần
này, Việt
Nam đă không
tiếp tục im
lặng nữa.
Đây là một
sự kiện hiếm
hoi, và minh
chứng là bài
xă luận của
báo Thanh
Niên vừa
nêu trên.
Courrier
International
cũng nhắc
lại việc
ngày 5/6
hàng trăm
người Việt
Nam đă biểu
t́nh phản
đối Trung
Quốc trước
ṭa Đại sứ
quán Trung
Quốc tại Hà
Nội.
*****
GS Carle
Thayer: TQ
cắt cáp: một
lần là sự
cố, hai lần
là hành động
có hệ thống
GS
Carle Thayer
trả lời
phỏng vấn
của
Scribd,
Ngọc Thu
dịch.
Đàn Chim Việt
-
03:41:pm
12/06/11
|
Tác giả:
Ngọc Thu
GS Carle
Thayer - Ảnh
On the net
Hỏi:
Phản ứng của
ông về việc
sách nhiễu
liên tục của
Trung Quốc
trong vấn đề
này là ǵ,
đặc biệt chỉ
vài ngày sau
khi Bộ
trưởng Quốc
pḥng Trung
Quốc, Lương
Quang Liệt,
cam kết sẽ
duy tŕ ḥa
b́nh trên
Biển Đông
tại đối
thoại
Shangri-La?
Đáp:
Sự cố lần
thứ hai này
rơ ràng là
xuất hiện sự
lặp đi lặp
lại, nhờ đó
có thể thấy
rơ ràng rằng
Trung Quốc
quyết tâm
khẳng định
chủ quyền
của họ một
cách mạnh mẽ
trên biển
Đông. Đây là
một hành
động cố ư
khiêu khích,
được thiết
kế để tách
Việt Nam ra,
đe doạ và
chia rẽ giữa
Việt Nam và
các thành
viên ASEAN
khác. Nếu
Việt Nam
phản ứng quá
mạnh, sẽ
được xem như
là kẻ gây
sự, không
phải là nạn
nhân.
Hỏi:
Các nhà
quan sát cho
rằng sự hiếu
chiến ngày
càng tăng
của Trung
Quốc trên
biển Đông,
là do ư định
của họ đ̣i
thềm lục địa
và vùng đặc
quyền kinh
tế trong
toàn bộ khu
vực bên
trong cái
gọi là h́nh
chữ U, hoặc
đường chín
đoạn, xuất
hiện trên
hầu hết các
bản đồ của
Trung Quốc.
Ông có nghĩ
rằng chiến
thuật của
Trung Quốc
sẽ có tác
dụng hay là
phản tác
dụng trong
vấn đề này?
V́ sao nó có
tác dụng hay
v́ sao phản
tác dụng?
Đáp:
Trung Quốc
không có cơ
sở luật pháp
quốc tế để
đ̣i thềm lục
địa và hoặc
vùng đặc
quyền kinh
tế (EEZ).
Những khu
vực này chỉ
có thể được
đ̣i từ đất
liền. Trung
Quốc chiếm
những băi đá
ở biển Đông
và không có
cơ sở theo
Công ước LHQ
về Luật biển
để đ̣i vùng
đặc quyền
kinh tế hay
thềm lục
địa.
Thật ra,
Trung Quốc
đ̣i chủ
quyền trên
tất cả các
băi đá ở
biển Hoa Nam
(biển Đông)
và vùng biển
lân cận. Hơn
nữa, Trung
Quốc tuyên
bố rằng luật
pháp quốc
gia của họ
cho họ thẩm
quyền trên
biển Hoa Nam
(biển Đông).
Chiến thuật
của Trung
Quốc sẽ có
phản ứng
ngược bởi v́
các tuyên bố
của họ, nếu
không bị
phản đối, sẽ
cho Trung
Quốc quyền
bá chủ trên
biển Hoa Nam
và kiểm soát
các tuyến
đường vận
chuyển
thương mại
hoặc giao
thông trên
biển.
Nhưng khi
Trung Quốc
hành động
một cách
cương quyết,
như họ đă
làm trước
hội nghị các
lănh đạo
Mỹ-ASEAN lần
thứ hai tại
New York hồi
năm ngoái,
một số nước
thành viên
ASEAN đă lập
luận rằng
không đề cập
đến việc
thực hiện
bản tuyên bố
chung về
biển Hoa Nam
(biển Đông)
v́ điều này
sẽ cô lập
Trung Quốc.
Trung Quốc
đang tính
đến sự chia
rẽ ASEAN để
thúc đẩy yêu
sách của họ.
Các hành
động của
Trung Quốc
sẽ bảo đảm
rằng vấn đề
biển Hoa Nam
sẽ được đưa
ra tại Hội
nghị Bộ
trưởng ASEAN
và Diễn đàn
khu vực
ASEAN vào
tháng 7.
Hỏi:
Sự nhấn
mạnh về
chính sách
ngoại giao
ḥa b́nh sẽ
có hiệu lực
như thế nào
đối với Việt
Nam với
nguyên trạng
này?
Đáp:
Hiện Trung
Quốc đang sử
dụng các tàu
dân sự,
không phải
tàu quân sự,
để khẳng
định chủ
quyền của
họ. Điều này
khó cho Việt
Nam để ứng
phó trong
việc bảo vệ
tàu dân sự
thăm ḍ dầu
khí. Việt
Nam phải
tiếp tục dựa
vào chính
sách ngoại
giao để giữ
đoàn kết
trong ASEAN.
Trung Quốc
đang tính
đến thực tế
là nhiều
thành viên
ASEAN sẽ
phản đối
trực tiếp
với Trung
Quốc.
Việt Nam
phải dùng
tất cả các
con đường
ḥa b́nh,
nếu không
Trung Quốc
sẽ lập luận
rằng Việt
Nam là
nguyên nhân
của vấn đề
(kẻ gây sự).
Mục đích của
ngoại giao
là kiểm tra
xem các lănh
đạo hàng đầu
Trung Quốc
đă chấp
thuận này
làn sóng mới
của hành
động quyết
đoán hung
hăng của
Trung Quốc
hay là các
hành động
của Trung
Quốc là sản
phẩm cụ thể
nào đó của
cơ quan Quản
lư Đại dương
của Trung
Quốc và /
hoặc của
chính quyền
địa phương.
Mục đích
ngoại giao
là cho các
lănh đạo
Trung Quốc
thời gian để
ngẫm nghĩ
đến hậu quả
hành động
của họ.
Nhưng ngoại
giao phải đi
kèm với
quyết tâm
của Việt Nam
trong việc
pḥng thủ và
bảo vệ chủ
quyền của
ḿnh. Đây là
một tṛ chơi
tinh vi. Bây
giờ Việt Nam
phải hộ tống
tàu thăm ḍ
dầu khí để
bảo đảm sự
an toàn.
Hỏi:
V́ sao
ông nghĩ
rằng Trung
Quốc tiếp
tục cắt cáp
tàu thăm ḍ
của Việt Nam
? Có cách
nào ngăn
chặn hành
động này của
Trung Quốc?
Đáp:
Sự cố xảy ra
lần thứ hai,
rơ ràng
Trung Quốc
đă quyết
định khẳng
định chủ
quyền trên
biển Đông
một cách
mạnh mẽ,
bằng cách
nhắm vào
Việt Nam .
Trung Quốc
nhắm tới
việc thử khí
phách của
lănh đạo
Việt Nam và
sự thống
nhất của
ASEAN. Nếu
Việt Nam
thoái lui,
sẽ không thể
có một mặt
trận ngoại
giao thống
nhất trong
ASEAN mạnh
mẽ chống lại
Trung Quốc.
Ngay cả khi
Việt Nam
kháng cự,
một số thành
viên ASEAN
có thể thoái
lui trong
việc bày tỏ
sự đe doạ
của Trung
Quốc và để
cho họ được
thuận lợi
(tức để cho
Trung Quốc
có những ǵ
họ muốn).
Lúc này là
vấn đề song
phương giữa
Trung Quốc
và Việt Nam
. Hai sự cố
cắt cáp liên
quan đến các
tàu giám sát
dân sự của
Trung Quốc,
không phải
tàu chiến
hải quân.
Hành động
của Trung
Quốc sẽ làm
cho các công
ty thăm do
dầu khí nước
ngoài suy
nghĩ hai lần
khi làm ăn
với Việt Nam
. Và hành
động của
Trung Quốc
đưa Việt Nam
vào một t́nh
thế khó xử
về cách nào
để phản ứng
tốt nhất.
Việt Nam
phải huy
động dư luận
quốc tế cả
trong trong
khu vực Đông
Nam Á lẫn
các nước
lớn. Việt
Nam cũng
phải tiếp
tục thúc
giục Trung
Quốc về một
giải pháp
ngoại giao.
Nhưng trước
hết Việt Nam
phải ra
quyết định
khó khăn để
bảo vệ chủ
quyền của
ḿnh bằng
cách cung
cấp sự hộ
tống thích
hợp cho tàu
thăm ḍ dầu
khí của
ḿnh. Chính
những con
tàu này có
thể ở giữa
tàu Trung
Quốc và tàu
thăm ḍ. Nếu
không có sự
hộ tống,
Trung Quốc
sẽ kéo băng
đảng đến một
tàu thăm ḍ
dầu khí và
cắt cáp.
Nguồn:
http://www.scribd.com/doc/57491115/Thayer-China%E2%80%99s-Cable-Cutting-Once-is-an-Incident-Twice-is-a-Pattern
© Ngọc Thu
© Đàn Chim
Việt
*****
Trung Quốc
tiếp tục bị
chỉ trích
Chủ Nhật,
12/06/2011, 11:03
(GMT+7)
TT - Hành
động của TQ
trên biển
Đông tiếp
tục vấp phải
phản ứng
kịch liệt từ
cộng đồng
khu vực và
quốc tế. Sau
Bộ Quốc
pḥng, đến
lượt Bộ
Ngoại giao
Mỹ tuyên bố
cảm thấy
“bất an” về
những căng
thẳng tại
biển Đông do
TQ gây ra.
Thượng nghị
sĩ Jim
WebbẢnh:
Reuters
AFP dẫn lời
người phát
ngôn Bộ
Ngoại giao
Mỹ Mark
Toner:
“Những sự
kiện trên
biển Đông
trong thời
gian qua chỉ
gây căng
thẳng và
không đóng
góp vào ḥa
b́nh, an
ninh khu
vực. Chúng
tôi ủng hộ
tiến tŕnh
ngoại giao
hợp tác và
kêu gọi các
nước đ̣i chủ
quyền tuân
thủ luật
pháp quốc
tế”.
Ông Toner
nhấn mạnh Mỹ
và cộng đồng
quốc tế chia
sẻ lợi ích
trong việc
duy tŕ an
ninh hàng
hải khu vực.
Thượng nghị
sĩ Mỹ Jim
Webb, chủ
tịch Tiểu
ban các vấn
đề Đông Á -
Thái B́nh
Dương thuộc
Ủy ban Đối
ngoại Thượng
viện Mỹ,
cũng ra
thông cáo
báo chí bày
tỏ sự quan
ngại đối với
hành vi gây
hấn của
Trung Quốc.
“Chuỗi hành
vi mang tính
hăm dọa của
Trung Quốc
là mối quan
ngại lớn. Mỹ
có lợi ích
chiến lược
trong việc
tạo điều
kiện cho một
phương thức
tiếp cận đa
phương, ḥa
b́nh để giải
quyết các
tranh chấp
kể trên, đảm
bảo tự do
thông thương
theo luật
pháp quốc
tế”.
Ngày 13-6,
thượng nghị
sĩ Webb sẽ
đệ tŕnh lên
Thượng viện
Mỹ một nghị
quyết lên án
việc Trung
Quốc sử dụng
vũ lực ở
biển Đông và
kêu gọi một
giải pháp
ḥa b́nh, đa
phương cho
các tranh
chấp lănh
hải ở Đông
Nam Á.
Phát biểu về
ứng xử ở
biển Đông
của Bộ
trưởng quốc
pḥng Trung
Quốc Lương
Quang Liệt
tại Đối
thoại
Shangri-La
trái ngược
với diễn
biến trong
những ngày
qua trên
vùng biển
chủ quyền
của Việt Nam
- Ảnh:
Reuters
Mỹ trấn an
Philippines
Theo báo
The Star
của
Philippines
, tàu khu
trục Mỹ USS
Chung-Hoon
hiện đang
trên đường
đến biển
Đông cũng
như biển
Sulu. Hải
quân Mỹ
khẳng định
tàu USS
Chung-Hoon
“sẽ đi qua
các vùng
biển mà nước
Mỹ cho là
vùng biển
quốc tế nhằm
khẳng định
quyền tự do
hàng hải và
cho thấy
cộng đồng
quốc tế
không chấp
nhận những
tuyên bố đ̣i
chủ quyền vi
phạm quyền
tự do hàng
hải”.
Đại sứ quán
Mỹ tại
Philippines
cho biết tàu
USS
Chung-Hoon
là một trong
những tàu
hải quân Mỹ
được mời để
dự cuộc diễn
tập thường
niên CARAT
giữa hải
quân Mỹ và
Philippines
.
Đài Loan cũng đ̣i tranh chấp biển Đông
Hăng tin Đài Bắc Trung B́nh cho biết tối 10-6, Đài Loan tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và toàn bộ các vùng hải vực xung quanh các quần đảo trên đều thuộc chủ quyền của Đài Loan tức “Trung Hoa Dân Quốc”.
Cơ quan ngoại giao Đài Loan cho rằng căn cứ vào chứng cứ lịch sử địa lư vốn có, các đảo và vùng nước ở biển Đông đều thuộc chủ quyền của họ. Động thái này được đưa ra nhằm tuyên bố chủ quyền đối với đảo Ba B́nh ở quần đảo Trường Sa.
Đài Loan c̣n cao giọng lănh thổ này tuân theo nguyên tắc “chủ quyền của chúng tôi, gác bỏ tranh luận, cùng ḥa b́nh và cùng khai thác phát triển”.
(MỸ LOAN)
|
Trước
đó, đại
sứ Mỹ
tại
Philippines
Harry
Thomas
Jr. cũng
trấn an
chính
quyền
Philippines
rằng Mỹ
sẽ hỗ
trợ
Philippines
chống
lại các
mối đe
dọa đối
với an
ninh
nước
này. Báo
Philippine
Daily
Inquirer
dẫn lời
tướng
Eduardo
Oban Jr,
tổng
tham mưu
trưởng
quân đội
Philippines,
khẳng
định hải
quân
Philippines
ở biển
Đông
được
lệnh
tránh va
chạm,
nhưng sẽ
nổ súng
bắn trả
nếu bị
tấn
công.
Tướng
Oban
cũng cho
biết ông
sẽ thảo
luận vấn
đề biển
Đông với
các quan
chức
quân sự
Mỹ trong
cuộc hội
nghị
quốc
pḥng
giữa Mỹ
và
Philippines
vào
tháng 8
tới.
“Mỹ cũng
đang rất
quan
ngại với
t́nh
h́nh
biển
Đông” -
ông Oban
cho
biết.
Mới đây,
Văn
pḥng
Tổng
thống
Philippines
tuyên bố
Manila
tin rằng
Mỹ sẽ hỗ
trợ
Philippines
trước
những
hành vi
“bắt
nạt” của
Trung
Quốc do
Mỹ và
Philippines
đă kư
Hiệp ước
quốc
pḥng
song
phương
(MDT).
“Dù vậy
chúng
tôi hi
vọng
t́nh
h́nh
biển
Đông sẽ
không
diễn
biến xấu
đến mức
đó, và
chúng
tôi cam
kết giải
quyết
vấn đề
theo
cách
ngoại
giao và
ḥa b́nh
nhất có
thể” -
người
phát
ngôn Văn
pḥng
Tổng
thống
Philippines
Edwin
Lacierda
khẳng
định.
Ông
Lacierda
cũng yêu
cầu phía
Trung
Quốc
không
đưa ra
những
tuyên bố
mang
tính gây
hấn
khiến
t́nh
h́nh
thêm
căng
thẳng.
Tiếng
nói
ASEAN
B́nh
luận về
t́nh
h́nh
biển
Đông,
báo
Yomiuri
Shimbun
cho rằng
Trung
Quốc cần
kiềm
chế,
không
được
thực
hiện
những
hành vi
mang
tính
chất
khiêu
khích
trên
biển
Đông.
“Hành vi
đơn
phương
của
Trung
Quốc là
không
thể chấp
nhận
được.
Trung
Quốc sẽ
không
bao giờ
giành
được sự
tin cậy
của cộng
đồng
quốc tế
nếu cứ
tiếp tục
nói một
đằng làm
một
nẻo”.
Theo báo
Yomiuri
Shimbun,
chính
quyền
Trung
Quốc cần
tham gia
các cuộc
đối
thoại để
thảo
luận
việc
thành
lập Bộ
quy tắc
ứng xử
giữa các
bên trên
biển
Đông
(COC)
mang
tính
chất
ràng
buộc
pháp lư.
“Các
thành
viên
ASEAN
cũng cần
đoàn kết
chặt chẽ
để ngăn
chặn
Trung
Quốc
biến
biển
Đông
thành ao
nhà”.
Trao đổi
với
Tuổi Trẻ,
tiến sĩ
Leszek
Buszynski
thuộc
Trường
Nghiên
cứu
chiến
lược
quốc tế
và chính
trị ĐH
ANU châu
Á - Thái
B́nh
Dương
(Úc) cho
rằng
Trung
Quốc
đang
tăng
cường
các hành
vi quấy
rối trên
biển
Đông đơn
giản v́
phía
Trung
Quốc coi
ḿnh ở
“cửa
trên”,
và không
quốc gia
nào dám
chống
đối lại
Trung
Quốc.
Theo
tiến sĩ
Buszynski,
Việt Nam
cần yêu
cầu
ASEAN ra
tuyên bố
phản ứng
lại.
“Nếu
ASEAN
lên
tiếng
với
Trung
Quốc,
phía Bắc
Kinh sẽ
phải
lắng
nghe và
hành sự
cẩn
trọng
hơn” -
tiến sĩ
Buszynski
nhận
định.
Tiến sĩ
Ian
Storey
thuộc
Viện
nghiên
cứu Đông
Nam Á
(Singapore)
cho rằng
điều cần
thiết là
ASEAN và
Trung
Quốc
phải
thực
hiện các
biện
pháp xây
dựng
ḷng tin
đă ghi
trong
Tuyên bố
chung về
quy tắc
ứng xử
giữa các
bên trên
biển
Đông
(DOC)
năm
2002.
Ông cảnh
báo nếu
Trung
Quốc
tiếp tục
các hành
vi quấy
rối, có
nguy cơ
xung đột
sẽ xảy
ra trên
biển
Đông và
điều đó
không có
lợi cho
bất kỳ
quốc gia
nào.
HIẾU
TRUNG
*****
Biển
Đông
liệu có
trở
thành
chiến
trường?
Tác giả:
Brantly
Womack
(ĐH
Virginia,
Mỹ)
Vietnam
Net -
13/06/2011
05:00
GMT+7
Biển
Đông
không có
vẻ ǵ sẽ
là “vùng
biển dữ”
về mặt
quân sự,
nhưng nó
vẫn là
“trái
táo bất
ḥa” của
khu vực.
- GS
Brantly
Womack,
ĐH
Virginia
(Mỹ)
nhận
định.
Biển
Đông và
bước
nhảy của
Trung
Quốc
Cuộc
tranh
căi chủ
quyền
Biển
Đông
hiện lên
như là
biểu
tượng
của căng
thẳng
khu vực
và toàn
cầu rơ
ràng từ
năm
2008. Dù
không có
một
khủng
hoảng
quân sự
nào, độ
nóng của
tranh
chấp vẫn
gia
tăng,
dẫn tới
cuộc
chiến
ngôn từ
năm
2010.
Trỗi dậy
ḥa b́nh
của
Trung
Quốc
thực sự
mạnh mẽ
kể từ
2008,
nhưng
với cuộc
khủng
hoảng
kinh tế,
Trung
Quốc đă
tạo được
"bước
nhảy ḥa
b́nh"
(peaceful
leap
forward).
Tăng
trưởng
GDP năm
2009
giảm
xuống
c̣n 8.7%
nhưng
vẫn tốt
hơn
nhiều so
với các
nền kinh
tế khác
trong
khủng
hoảng,
và dự
trữ ngân
sách
khổng lồ
giúp
Trung
Quốc có
thể đưa
ra gói
kích
thích
kinh tế
khổng lồ
cũng như
mua các
tài
nguyên
thiên
nhiên ở
nước
ngoài ở
diện
rộng.
Triển
vọng
tăng
trưởng
sắp tới
của
Trung
Quốc
cũng
sáng sủa
hơn
nhiều so
với các
cường
quốc
khác.
Tàu hải
giám
Trung
Quốc gần
đây
thường
xuyên
quấy
nhiễu
các vùng
biển
không
tranh
chấp
Biển
Đông
không
đóng vai
tṛ ǵ
trong sự
thịnh
vượng
của
Trung
Quốc
cũng như
những
khó khăn
mà các
nước
khác
phải đối
mặt. Tuy
nhiên,
bước
nhảy của
Trung
Quốc
mang lại
hai tác
động.
Một là,
nó làm
gia tăng
khoảng
cách
kinh tế
giữa
Trung
Quốc và
các láng
giềng
ĐNA,
khiến
các nước
cảm thấy
dễ bị
tổn
thương
trước
Trung
Quốc.
Đồng
thời, nó
cũng làm
giảm
khoảng
cách
kinh tế
giữa
Trung
Quốc và
Mỹ,
khiến Mỹ
lo lắng
hơn về
triển
vọng một
Trung
Quốc là
đối thủ
thách
thức.
Hai thay
đổi này
trong vị
thế kinh
tế của
Trung
Quốc ảnh
hưởng
mạnh mẽ
tới quan
hệ chính
trị và
quân sự
của
Trung
Quốc.
Dù chính
sách của
Trung
Quốc duy
tŕ như
cũ, và
sự tăng
trưởng
của
Trung
Quốc vẫn
đem lại
lợi ích
cho các
đối tác,
ĐNA vẫn
ngày
càng lo
ngại về
khả năng
bị đặt
vào t́nh
thế nguy
hiểm
trước
Trung
Quốc.
Liệu khu
vực này
có
chuyển
từ mối
quan hệ
láng
giềng,
anh em
sang một
nhóm các
nước
không
đáng kể
trong
sân sau
của
Trung
Quốc?
Liệu
Trung
Quốc sẽ
trở
thành bá
quyền
ngạo mạn
và đ̣i
hỏi?
Liệu Mỹ
có thể
tiếp tục
đóng vai
tṛ là
người
đảm bảo
trật tự
thế
giới?
Năm
2010,
mối lo
ngại của
ĐNA càng
trở nên
sâu sắc
hơn bởi
2 hành
động
mang
tính
quyết
đoán của
Trung
Quốc.
Một là,
xem Biển
Đông là
"lợi ích
cốt lơi"
của
Trung
Quốc.
Điều này
được cho
là đă
nêu
trong
bài phát
biểu của
Đới Bỉnh
Quốc tại
cuộc gặp
ở
Washington,
nhưng
theo
điều tra
của
Michael
Swaine,
có thể
đó là do
sự hiểu
sai của
người
Mỹ. Cho
tới nay,
chưa
từng có
lănh đạo
nào khác
của
Trung
Quốc
nhắc lại
tuyên bố
này. Tuy
nhiên,
Trung
Quốc
cũng
không hề
đưa ra
lời bác
bỏ nào.
Khái
niệm lợi
ích cốt
lơi được
đưa ra
thảo
luận
rộng răi
trên
truyền
thông và
trong
giới
chuyên
gia
Trung
Quốc về
Biển
Đông.
Hai là,
Trung
Quốc đưa
ra
"đường 9
đoạn" để
mô tả
yêu sách
của
Trung
Quốc
trên
Biển
Đông.
Nội dung
yêu sách
của
Trung
Quốc khá
mơ hồ.
Hai hành
động này
làm nổi
rơ sự
thiếu rơ
ràng
trong
mục tiêu
của
Trung
Quốc và
do đó,
làm dấy
lên
những
mối quan
ngại.
Ở điểm
này, ĐNA
đă gặp
gỡ Mỹ
trong
mối quan
ngại
chung về
Trung
Quốc.
Mỹ và
Biển
Đông
Cho đến
2008, ưu
thế vượt
trội của
hải quân
Mỹ ở
Biển
Đông là
điều
không
phải bàn
căi.
Ban đầu,
mối quan
ngại
quân sự
của Mỹ
liên
quan đến
Trung
Quốc gắn
với cam
kết của
nước này
nhằm bảo
vệ Đài
Loan
trong
trường
hợp bị
tấn
công.
Năm 2008
đánh dấu
bước
chuyển
đặc biệt
trong
quan hệ
hai bờ
eo biển
Đài Loan
và không
trực
tiếp đến
lợi ích
của Mỹ ở
Biển
Đông.
Một là,
việc
thay đổi
lănh đạo
Đài Loan
khiến
cho quan
hệ hai
bờ thay
đổi. Đài
Loan
chuyển
từ việc
đ̣i độc
lập sang
mục tiêu
hướng
tới một
quan hệ
ít căng
thẳng
hơn và
ưu tiên
hơn
trong
việc
tăng tốc
phát
triển
quan hệ
hai bờ.
Hai là,
việc
hiện đại
hóa quân
sự của
Trung
Quốc đạt
tới điểm
có thể
thách
thức khả
năng bảo
vệ quân
sự của
Mỹ đối
với Đài
Loan.
Kho vũ
khí của
Trung
Quốc lớn
với các
tàu
ngầm,
tên lửa
hành
tŕnh,
và tên
lửa đạn
đạo tầm
trung
chính
xác lại
được
tăng
cường
với việc
thử
nghiệm
thành
công tên
lửa
chống vệ
tinh vào
năm
2007.
Chương
tŕnh
phát
triển
tên lửa
đạn đạo
chống
tàu của
Trung
Quốc
khiến
các nhóm
tàu sân
bay Mỹ
đứng
trước
nguy cơ
có thể
bị tấn
công.
Tháng
1/2011,
Trung
Quốc thử
nghiệm
máy bay
chiến
đấu tàng
h́nh đầu
tiên
đúng vào
lúc Bộ
trưởng
Quốc
pḥng Mỹ
Robert
Gates
thăm Bắc
Kinh.
Năng lực
quân sự
mới của
Trung
Quốc
hiện nay
gây nghi
ngờ
nghiêm
trọng về
việc
liệu Mỹ
có thể
bảo vệ
Đài Loan
thành
công với
một chi
phí chấp
nhận
được.
Mặc dù
Trung
Quốc
không
thách
thức ưu
thế quân
sự của
Mỹ ở bên
ngoài
Trung
Quốc. Về
cơ bản
Mỹ và
Trung
Quốc
đang đối
mặt với
một t́nh
h́nh bế
tắc
chiến
lược.
Hai xu
hướng
này tác
động đến
thái độ
chiến
lược của
Mỹ ở
Biển
Đông.
Một mặt,
khủng
hoảng
hai bờ
eo biển
giảm đi
tạo điều
kiện để
các
chiến
lược gia
xem xét
những
vấn đề
khác
trong
cuộc đối
đầu Mỹ -
Trung.
Mặt
khác, ưu
thế vượt
trội của
quân đội
Mỹ ở
Biển
Đông bây
giờ là
một dấu
hỏi. Một
khi Mỹ
có thể
bị đặt
ra ngoài
vấn đề
Đài
Loan, Mỹ
cũng có
thể bị
đặt ra
bên
ngoài
phần bờ
biển c̣n
lại của
Trung
Quốc,
bao gồm
cả Hải
Nam .
Bên cạnh
các
nguyên
nhân
chiến
lược
trên,
việc Mỹ
chú ư
hơn đến
Biển
Đông c̣n
bởi
Trung
Quốc đă
thách
thức các
tàu khảo
sát của
Mỹ vào
các năm
2001 và
2009.
Câu hỏi
pháp lư
cơ bản
là liệu
các hoạt
động
khảo sát
được
tiến
hành
trong
vùng đặc
quyền
kinh tế
của quốc
gia khác
có được
xem là
"qua lại
không
gây
hại".
Ở cả hai
trường
hợp,
tranh
căi liên
quan đến
các hoạt
động
t́nh báo
gây nên
căng
thẳng,
trong
bối cảnh
có nhiều
hoài
nghi về
sức mạnh
của
cường
quốc khu
vực.
Vấn đề
tự do
hàng hải
trở
thành
điển
h́nh cho
mối quan
ngại mới
của Mỹ
đối với
sức mạnh
quân sự
Trung
Quốc.
Mặc dù
mối quan
ngại này
của Mỹ
không
đồng
nhất với
mối quan
ngại của
ĐNA,
Trung
Quốc vẫn
là mối
lưu tâm
chung và
mỗi bên
đều mong
muốn hỗ
trợ của
bên c̣n
lại.
Tuy
nhiên,
Mỹ và
Đông Nam
Á đều có
lợi ích
lớn hơn
trong
việc gắn
kết và
hợp tác
với
Trung
Quốc.
Ngay cả
hải quân
cũng nằm
trong
danh
sách dài
các lĩnh
vực có
khả năng
và đang
hợp tác.
Nhưng cả
Mỹ và
Đông Nam
Á đều
quan
ngại về
khả năng
Trung
Quốc trở
thành bá
quyền
khu vực,
từ đó
tiến tới
mức kiểm
soát
toàn
cầu. Mỹ
không
muốn trở
thành
một siêu
cường
thế giới
trừ ở
một khu
vực, và
Đông Nam
Á không
muốn bị
đơn bóng
trong
sân sau
của
Trung
Quốc.
Bất chấp
những
điểm
đồng
giữa Mỹ
và Đông
Nam Á
trong
mối quan
ngại về
Trung
Quốc,
vẫn có
sự khác
biệt
đáng kể
giữa hai
bên.
Đông Nam
Á liên
kết sâu
chặt với
Trung
Quốc và
dù ở
t́nh
huống
nào, họ
không
thể từ
bỏ láng
giềng.
Mỹ quan
ngại
Trung
Quốc sẽ
thách
thức vị
trí siêu
cường
thế
giới, và
đầu mối
của
những
thách
thức mở
rộng từ
Đài Loan
sang các
vấn đề
khác
trong đó
có Biển
Đông.
Với Đông
Nam Á,
viễn
cảnh xấu
nhất cho
cả khu
vực là
lại trở
thành
chiến
trường
của các
nước
lớn.
Với Mỹ,
đó chỉ
là viễn
cảnh xấu
thứ hai,
viễn
cảnh xấu
nhất là
cuối
cùng
phải đối
đầu với
một
Trung
Quốc lớn
mạnh
ngay
trên
ngưỡng
cửa của
ḿnh.
Trong
khi
chính
sách
ngăn
chặn có
vẻ là
chiến
lược để
giữ
Trung
Quốc
trong
tầm tay
kiểm
soát của
Mỹ, th́
Đông Nam
Á trở
thành
tiền
tuyến.
Cả ba
bên:
Trung
Quốc,
Đông Nam
Á và Mỹ
đang nỗ
lực làm
dịu đi
sự đối
đầu sau
chuyến
thăm Hà
Nội
tháng
7/2010
của
Hillary
Clinton.
Trong
hội nghị
ADMM+
tháng
10, chủ
đề Biển
Đông đă
bị né
tránh và
tấm h́nh
kết thúc
hội nghị
là bộ
trưởng
quốc
pḥng
các
nước, kể
cả Trung
Quốc và
Mỹ đều
bắt tay
nhau.
Bức
tranh ấy
mang lại
không
khí lạc
quan
không
thể chối
căi, vẫn
có những
hạn chế
cố hữu
ngăn khả
năng
xung đột
ở Trường
Sa và
Biển
Đông
Quá
tŕnh
duy tŕ
yêu sách
chủ
quyền ở
Biển
Đông là
quá
tŕnh va
chạm
liên tục
khó
tránh
bởi v́
các yêu
sách đều
đ̣i hỏi
chủ
quyền
tuyệt
đối và
cách
thức để
chứng
minh chủ
quyền là
chiếm
đóng.
Một
trong
những sự
cố lớn
và đẫm
máu nhất
là cuộc
đối đầu
giữa
Trung
Quốc và
Việt Nam
tháng
3/1988,
khi 72
thủy thủ
Việt Nam
đă bỏ
mạng.
Tuy
nhiên,
sự cố đă
không bị
leo
thang,
và qua
hơn 2
thập kỉ,
quan hệ
giữa
Trung
Quốc và
Đông Nam
Á đă
bừng nở.
Liệu có
thành
chiến
trường?
Rất khó
để h́nh
dung về
một viễn
cảnh
Trường
Sa ở đó,
khủng
hoảng sẽ
vượt ra
khỏi các
sự cố
riêng
lẻ, do
đó,
không
thay đổi
t́nh
h́nh
chiếm
đóng
chung
hiện
nay. Tai
nạn xảy
ra, các
sự cố
không
thể bác
bỏ,
nhưng
quân sự
hóa xung
đột
không có
vẻ sẽ
xảy ra.
Các sự
cố sẽ
dẫn tới
cơn băo
đổ trách
nhiệm
lẫn
nhau,
nhưng sẽ
không
dẫn tới
xung đột
hay leo
thang.
Khả năng
tạo nên
chuyện
đă rồi
dựa trên
một kế
hoạch
chống
lại các
bên yêu
sách
khác khó
có thể
thực
hiện
trọn
vẹn.
Người
thắng
cuộc
(mặc
định là
Trung
Quốc) sẽ
bị cả
khu vực
xa lánh
và sẽ
cảnh báo
những
nước
láng
giềng
khác
cũng như
các đối
tác toàn
cầu. Hợp
tác quốc
tế trong
phát
triển
tài
nguyên
cũng
không có
vẻ sẽ
diễn ra,
và hậu
cần cho
vận tải,
vận
chuyển
và quốc
pḥng sẽ
rất khó
khăn.
Nếu
chính
sách đối
ngoại
chung
của
Trung
Quốc
thay đổi
mang
tính
bước
ngoặt
theo
hướng
trở
thành
một bá
quyền
khu vực
hiếu
chiến,
có thể
Trường
Sa sẽ là
chiến
trường.
Để hành
xử hiếu
chiến,
Trung
Quốc
cũng cần
thời
gian để
phát
triển,
cuộc
tranh
căi về
Biển
Đông sẽ
chỉ là
phái
sinh hơn
là yếu
tố dẫn
dắt và
không
c̣n cần
trở
thành
một biểu
tượng
thực tế
của
những lo
lắng.
Các
chiến sĩ
hải quân
Việt Nam
với hệ
thống
pḥng
thủ bờ
biển
Nhưng
một sự
cố quân
sự ở
Biển
Đông
giữa
Trung
Quốc và
Mỹ là
hoàn
toàn có
thể. Mặc
dù vậy,
không có
vẻ nó sẽ
bắt
nguồn từ
Trường
Sa hay
tranh
chấp ở
đây sẽ
dẫn tới
leo
thang.
Cuộc đối
đầu trực
tiếp
liên
quan đến
định
nghĩa
thế nào
là "qua
lại
không
gây hại"
trong
điều
kiện tự
do hàng
hải ở
vùng đặc
quyền
kinh tế,
và một
sự cố ở
Trường
Sa sẽ
không
dẫn tới
hạn chế
tự do
hàng hải
nói
chung,
bởi v́
luồng đi
lại ở
khu vực
ṿng
quanh
quần đảo
chứ
không
phải đi
qua quần
đảo.
Những sự
cố như
máy bay
MP3 năm
2001 hay
tàu
Impeccable
năm 2009
(các
vụ đụng
độ giữa
Mỹ và
Trung
Quốc
trên
Biển
Đông)
là có
thể,
nhưng
chúng
không
liên
quan cụ
thể đến
quần đảo
Trường
Sa và
chỉ liên
quan
gián
tiếp đến
Biển
Đông. Sẽ
là ngạc
nhiên
nếu các
quốc gia
Đông Nam
Á vui vẻ
với giải
pháp của
Mỹ xem
các hoạt
động
t́nh báo
(của Mỹ
cũng như
Trung
Quốc) là
hợp pháp
trong
giới hạn
12 hải
lư.
Hệ lụy
của
những sự
cố như
vậy sẽ
là những
hành
động đáp
trả mang
tính ăn
miếng
trả
miếng
hơn là
tạo sự
leo
thang
chung.
Thời đại
của
những
cuộc
chiến
như Anh
- Tây
Ban Nha
1739
(War of
Jenkins's
Ear) đă
qua từ
lâu.
Trường
Sa không
có vẻ ǵ
sẽ là
"vùng
biển dữ"
về mặt
quân sự,
nhưng nó
vẫn là
"trái
táo bất
ḥa".
Với sự
phức tạp
trong
việc đưa
ra một
giải
pháp,
mức độ
đe dọa
lớn là
thấp, và
những
lợi ích
nội bộ
trong
việc duy
tŕ các
yêu sách
hiện
tại,
không
ngạc
nhiên
khi
nhiều đề
xuất hợp
tác ở
Trường
Sa được
đưa ra
từ 1990s
không
thành
hiện
thực. Ư
tưởng về
việc đặt
sang một
bên vấn
đề chủ
quyền và
tiến
tŕnh
phát
triển
chung
gặp trở
ngại
rằng
việc
chia sẻ
kết quả
của phát
triển
chung
chí ít,
một phần
hay toàn
bộ, dựa
trên yêu
sách chủ
quyền.
Các biện
pháp
mạnh
hơn, như
h́nh
thành Cơ
quan
quản lư
Trường
Sa, đ̣i
hỏi
chính
điều c̣n
thiếu
trong
"trái
táo bất
ḥa": sự
tin cậy
lẫn
nhau.
Xu hướng
có vẻ
hứa hẹn
nhất
trong
việc
kiểm
soát
căng
thẳng ở
Biển
Đông
chính là
DOC
2002.
Tuyên bố
đặt sang
một bên
vấn đề
chủ
quyền,
giải
quyết
lợi ích
chung
của tất
cả các
bên nhằm
tránh
các hành
động bất
ngờ và
mang
tính thù
địch
được
tiến
hành bởi
bên thứ
3. Nó
cũng
nhấn
mạnh cam
kết của
tất cả
các bên
tuân thủ
UNCLOS
và đảm
bảo tự
do hàng
hải.
Không
nghi ngờ
ǵ việc
DOC đă
giúp
thập kỉ
vừa qua
yên b́nh
hơn thập
kỉ trước
đó.
Tranh
căi 2010
rơ ràng
đă làm
mới lại
lợi ích
của cả
hai bên,
Trung
Quốc và
ASEAN
trong
việc xây
dựng một
bộ hướng
dẫn thực
thi
Tuyên
bố.
Trong
khi
tranh
căi chủ
quyền
phải
giải
quyết
bởi các
bên trực
tiếp
liên
quan,
hoặc bởi
trọng
tài mà
hai bên
đều chấp
thuận,
một thỏa
thuận về
quy tắc
ứng xử
mang
tính
ràng
buộc COC
có thể
được sắp
xếp trên
cơ sở
rộng
hơn, và
bao gồm
tất cả
các bên
tranh
chấp trừ
Đài
Loan.
Cùng
thắng?
Trong 20
năm qua,
chính
sách
láng
giềng
tốt của
Trung
Quốc dẫn
tới việc
cải
thiện
quan hệ
đáng kể
với các
nước
xung
quanh.
Với Đông
Nam Á,
đây có
thể là
thành
công
ngoạn
mục nhất
của
Trung
Quốc,
với sự
đáp lại
của
ASEAN và
các
thành
viên.
Trung
Quốc là
đối tác
hữu ích
nhất với
khu vực
trong
khủng
hoảng
tài
chính
châu Á,
là quốc
gia bên
ngoài
đầu tiên
kí Hiệp
định
Thân
thiện,
và khu
vực tự
do
thương
mại
ASEAN -
Trung
Quốc
được
triển
khai.
Tuy
nhiên,
mối quan
hệ không
thể giải
quyết
một lần
là xong,
nó cần
sự quản
lư và
điều
chỉnh
liên
tục.
Triển
vọng về
một
Trung
Quốc
trỗi dậy
đạt vị
thế quốc
tế khá
khác
biệt
trong
con mắt
của
Trung
Quốc và
láng
giềng.
Với
Trung
Quốc,
những
thành
công của
nước này
từ 2008
khẳng
định sự
khôn
ngoan
trong
chính
sách và
là sự
trở lại
của hào
quang
quá khứ.
Với láng
giềng,
sự thật
rơ ràng
duy nhất
là họ
ngày
càng hội
nhập với
Trung
Quốc,
nhưng
với sức
nặng
ngày
càng
giảm
trong so
sánh với
Trung
Quốc.
Trường
Sa không
phải là
không
gian cho
xung
đột,
nhưng là
tiền
tuyến
của
những ư
định của
Trung
Quốc và
lợi ích
của Đông
Nam Á.
Khẩu
hiệu
cùng
thắng đă
giúp
Trung
Quốc có
quan hệ
tốt với
khu vực,
nhưng do
tính bất
đối xứng
ngày
càng gia
tăng
khiến
cho khẩu
hiệu này
không
c̣n là
hiện
thực.
Bên yếu
hơn dễ
tổn
thương
hơn
trong
một mối
quan hệ
bất đối
xứng, và
do đó,
cần sự
đảm bảo
rằng
không
chỉ được
lợi từ
những
mối liên
hệ hiện
tại mà
sự phát
triển
chung
của mối
quan hệ
không đe
dọa lợi
ích quan
trọng
của bên
yếu.
Căng
thẳng
2010 là
minh
chứng
của
những
bồn chồn
đó: Đông
Nam Á
cho rằng
họ nhận
ra sự
thay đổi
trong
tầm nh́n
của
Trung
Quốc.
Một quan
hệ tốt
hơn với
Mỹ được
chào đón
không
chỉ để
kiềm chế
Trung
Quốc mà
c̣n giúp
ích cho
sự bất
đối xứng
đang gia
tăng.
Để đảm
bảo rằng
việc
phát
triển
những sự
liên hệ
có lợi
cho cả
hai bên,
Trung
Quốc cần
trấn an
các láng
giềng về
những
hành vi
của
ḿnh.
Điều này
không
bao hàm
việc
Trung
Quốc hi
sinh lợi
ích của
riêng
ḿnh,
hay yêu
sách của
Trung
Quốc tốt
như hay
tốt hơn
yêu sách
của các
bên
khác.
Nhưng nó
bao gồm
việc
tăng
cường
cam kết
về hệ
thống
các hành
vi như
Hiệp ước
Thân
thiện
hay DOC.
Điều này
mang lại
sự trông
đợi và
cam kết
lẫn nhau
giữa
những
bên có
lợi ích
khác
nhau có
thể
tranh
căi hoặc
ḥa hợp.
Lưu
Hoàng
lược
dịch
*****
Ba đợt
“sóng”
địa
chính
trị trên
biển
Đông
Tác giả:
ABRAHAM
M.
DENMARK
Vietnam
Net -
13/06/2011
05:00
GMT+7
Hai năm
qua, một
cuộc
tranh
căi
không ồn
ào đă
diễn ra
ở biển
Đông -
khu vực
biển có
tầm quan
trọng
chiến
lược
lớn, nơi
1/3
thương
mại biển
của thế
giới
được vận
chuyển
qua vùng
biển
này, và
một số
người
c̣n cho
rằng nó
đang
chứa
dưới
ḷng
ḿnh
những mỏ
dầu và
khí tự
nhiên có
thể
khiến
vùng
biển này
trở
thành
một vịnh
Persic
thứ hai.
Biển
Đông
cũng là
một
tuyến
đường
huyết
mạch nối
các mỏ
dầu ở
Trung
Đông tới
các nhà
máy ở
Đông Á,
trong
đó, hơn
80%
lượng
dầu nhập
khẩu của
Trung
Quốc (và
một tỷ
lệ nhập
khẩu dầu
cũng khá
nhiều
đối với
Hàn Quốc
và Nhật
Bản) đi
qua vùng
nước
này. Như
nhà quan
sát châu
Á có ảnh
hưởng
Robert
D.
Kaplan
từng
nói, tầm
quan
trọng
của biển
Đông đối
với khu
vực đă
khiến nó
là "Địa
Trung
Hải của
châu Á".
Chính v́
tầm quan
trọng
như vậy,
một số
quốc gia
-
Brunei,
Malaysia,
Philippines,
và Việt
Nam - đă
đ̣i chủ
quyền
đối với
một số
vùng
nước
trên
biển
Đông.
Nhưng
riêng
Trung
Quốc lại
đ̣i chủ
quyền
đối với
hầu hết
biển
Đông,
nằm
trong
"đường 9
đoạn" mà
họ tŕnh
lên Liên
Hiệp
quốc.
Căng
thẳng
tại biển
Đông đă
bùng
phát từ
vài thập
kỷ qua,
nhưng
những
năm gần
đây căng
thẳng
này đă
leo
thang.
Từ đầu
năm
2009, có
thể xác
định hai
đợt
"sóng"
địa
chính
trị, và
tuần
trước
dường
như đă
bắt đầu
ṿng thứ
ba.
Đợt đầu
tiên bắt
đầu
tháng
3/2009,
khi các
tàu cá
Trung
Quốc
quấy rối
tàu giám
sát
Impeccable
của Mỹ
trong
vùng
lănh hải
quốc tế,
cách đảo
Hải Nam
của
Trung
Quốc 75
hải lư.
Ba tháng
sau đó,
một tàu
ngầm
Trung
Quốc đă
đâm (có
vẻ là
tai nạn)
vào
thiết bị
phát
hiện tàu
ngầm của
tàu sân
bay USS
John S.
McCain
gần vịnh
Subic
ngoài
khơi
Philippines.
Một loạt
động
thái
khiêu
khích
khác sau
đó,
trong đó
có các
bài báo
Bắc Kinh
tuyên bố
biển
Đông là
"một lợi
ích cốt
lơi",
ngụ ư so
sánh với
Đài Loan
và Tân
Cương về
mặt ưu
tiên
chiến
lược cơ
bản. Cả
thế giới
đều nhận
thấy sự
quả
quyết
của
Trung
Quốc và
đă phản
ứng mạnh
mẽ.
Đợt thứ
hai. Vào
tháng
7/2010,
Mỹ và
nhiều
quốc gia
Đông Nam
Á đă
thúc
đẩy. Tại
một hội
nghị của
Diễn đàn
Khu vực
ASEAN ở
Hà Nội,
12 quốc
gia Đông
Nam Á đă
chỉ
trích
thái độ
kiên
quyết
của
Trung
Quốc tại
biển
Đông, và
Ngoại
trưởng
Mỹ
Hillary
Clinton
đă tuyên
bố tự do
hàng hải
ở biển
Đông là
một lợi
ích quốc
gia của
Mỹ.
Trung
Quốc ban
đầu phản
ứng khá
mạnh:
Ngoại
trưởng
Dương
Khiết
Tŕ
tuyên bố
rằng
phát
biểu của
bà
Clinton
ở Hà Nội
là một
"sự tấn
công
Trung
Quốc" và
đă nhắc
nhở đối
tác
Singapore
của ḿnh
rằng
"Trung
Quốc là
một nước
lớn và
các nước
khác là
nước nhỏ
và đây
là một
thực
tế". Một
tuyên bố
sau đó
của quân
đội
Trung
Quốc
nhắc lại
"chủ
quyền
không
thể
tranh
căi" của
Trung
Quốc đối
với 1.3
triệu
hải lư
vuông
trên
biển
Đông.
Phản ứng
dữ dội
này
dường
như đă
khiến
Bắc Kinh
phải trả
giá đắt
về ngoại
giao, và
Trung
Quốc đă
dần dần
thay đổi
cách
hành xử
quyết
đoán
trước đó
của
ḿnh.
Người
đứng đầu
Bộ Tư
lệnh
Thái
B́nh
Dương
của Mỹ,
Đô đốc
Robert
Willard,
phát
biểu
trước Ủy
ban Quân
đội của
Thượng
viện Mỹ
hồi
tháng
Tư, cho
biết
cách
hành xử
của hải
quân
Trung
Quốc
trong
những
tháng
đầu năm
2011 đă
bớt phần
quyết
liệt so
với năm
2010.
Giới
lănh đạo
Trung
Quốc
thường
nói rằng
nước này
không
t́m cách
soán
ngôi
cường
quốc
lănh đạo
thế giới
của Mỹ,
và Ủy
viên
Quốc vụ
Trung
Quốc Đới
Bỉnh
Quốc đă
thề từ
bỏ "Học
thuyết
Monroe"
của
Trung
Quốc.
Nhưng
nhiều
người ở
Washington
và Đông
Nam Á
vẫn coi
sự "giảm
tông"
của
Trung
Quốc chỉ
là một
phản ứng
chiến
thuật
chứ
không
phải là
một
quyết
định
chiến
lược là
từ bỏ
các
tuyên bố
đ̣i chủ
quyền
đầy tham
vọng, từ
bỏ sự
bóp méo
trắng
trợn
luật
pháp
quốc tế
cũng như
việc sử
dụng
cách
quấy
nhiễu và
ép buộc
như các
công cụ
phục vụ
cho
chính
sách của
họ.
Đợt
"sóng"
thứ ba
bắt đầu
hồi tuần
trước
tại
Singapore
, khi
các quan
chức
quốc
pḥng
hàng đầu
của khu
vực Châu
Á - Thái
B́nh
Dương tụ
họp
trong
khuôn
khổ Đối
thoại
Shangri-La,
do Viện
nghiên
cứu
chiến
lược
quốc tế
(IISS)
đăng
cai.
Nhưng
người có
tham
luận tại
hội nghị
bao gồm
Thủ
tướng
Malaysia,
các Phó
Thủ
tướng
của Nga,
và các
Bộ
trưởng
Quốc
pḥng
của
Australia,
Anh,
Trung
Quốc,
Indonesia,
Nhật
Bản,
Malaysia,
Philippines,
Singapore,
Hàn
Quốc, Mỹ
và Việt
Nam. Tất
cả đều
đưa ra
các
tuyên bố
chính
thức, và
nhiều
người
tham dự
trong
buổi hỏi
đáp công
khai (có
cả Bộ
trưởng
Quốc
pḥng
Trung
Quốc
Lương
Quang
Liệt).
Cũng có
một số
cuộc gặp
cấp bộ
trưởng
bên lề
đối
thoại
này,
trong đó
có cuộc
hội đàm
của Bộ
trưởng
Quốc
pḥng Mỹ
Robert
Gates
với
người
đồng cấp
Trung
Quốc.
Biển
Đông đă
là trọng
tâm
chính
của đối
thoại,
và nhiều
quan
chức đă
sử dụng
đối
thoại
này như
một cơ
hội để
thông
báo quan
điểm của
nước
ḿnh đối
với khu
vực. Dựa
trên các
phát
biểu
này,
"đợt
sóng"
thứ ba
về biển
Đông rơ
ràng đă
nổi lên
và sẽ
được xác
định bởi
ba xu
hướng
tương
quan.
Thứ
nhất, Mỹ
đưa ra
các
tuyên bố
chính
trị của
ḿnh
cùng với
sự gia
tăng
hiện
diện
quân sự
ở Đông
Nam Á.
Trong
thông
điệp từ
biệt tại
Đối
thoại
Shangri-La
trước
khi kết
thúc
nhiệm
kỳ, ông
Gates đă
thông
báo rằng
Mỹ sẽ
điều
động các
tàu
chiến
duyên
hải -
những
tàu
tương
đối nhỏ
và mới
được
thiết kế
để tuần
tra vùng
bờ biển
hướng về
Đông Nam
Á - tại
Singapore,
mở rộng
hợp tác
với
Australia
tại Ấn
Độ
Dương,
và tăng
số cuộc
diễn tập
quân sự
và các
chuyến
thăm của
quân đội
Mỹ tới
các cảng
biển
trong
khu vực.
Ông
Gates
cũng
thông
báo ư
định của
chính
quyền
Obama
duy tŕ
sự hiện
diện
quân sự
của Mỹ
tại khu
vực, bất
chấp sức
ép ngân
sách
trong
nước. Để
thêm
phần đặc
biệt cho
tuyên bố
của
ḿnh,
ông
Gates
hứa rằng
Mỹ sẽ
duy tŕ
hỗ trợ
tài
chính để
đảm bảo
"tính
năng
động và
ưu thế
của
không
quân,
các cuộc
tấn công
tầm xa,
răn đe
hạt
nhân,
tiếp cận
trên
biển,
không
gian và
mạng, và
t́nh
báo,
giám sát
và trinh
sát" -
tất cả
các công
nghệ cần
để ngăn
chặn
Trung
Quốc.
Thứ hai,
Trung
Quốc
đang cố
giảm bớt
những lo
ngại của
khu vực,
nhưng
rốt cục
sẽ không
bao giờ
giảm.
Tại
Singapore
, ông
Lương
Quang
Liệt có
một tông
giọng có
phần
mang
tính ḥa
giải hơn
so với
phát
biểu hồi
năm
ngoái
của
Ngoại
trưởng
Trung
Quốc.
Ông đă
phủ nhận
việc
Trung
Quốc t́m
cách
thách
thức vai
tṛ bá
chủ về
quân sự
của Mỹ
hay
quyền tự
do hàng
hải
trong
giới hạn
của nước
này trên
biển
Đông.
Ông kêu
gọi đối
thoại và
thương
lượng để
giải
quyết
các
tranh
chấp và
nhấn
mạnh cam
kết của
Trung
Quốc
hướng
tới sự
phát
triển
ḥa b́nh
của khu
vực.
Nhưng
các
tuyên bố
có vẻ
nhân từ
này hoàn
toàn
tương
phản với
các hành
động gần
đây ở
biển
Đông.
Chỉ vài
ngày
trước
phát
biểu của
ông
Lương,
một tàu
của
Việt Nam
đang
tiến
hành
thăm ḍ
dầu khí
tại biển
Đông đă
bị một
tàu
Trung
Quốc cắt
cáp thăm
ḍ.
Tương
tự,
những
ngày
qua,
Philippines
đă tố
cáo
Trung
Quốc "vi
phạm
nghiêm
trọng" ở
biển
Đông,
trong đó
có việc
tháo dỡ
các vật
liệu xây
dựng
trên các
đảo đang
tranh
chấp.
Trong
khi đó,
Trung
Quốc
tiếp tục
khiến
các nước
láng
giềng
tức giận
khi đầu
tư tăng
cường
các năng
lực quân
sự của
lực
lượng
hải
quân.
Nhiều
người
đồn rằng
tàu sân
bay đầu
tiên của
Trung
Quốc sắp
hoạt
động và
Lầu Năm
Góc đang
theo dơi
từng
bước sự
lớn mạnh
của hải
quân
Trung
Quốc
trong
những
năm qua.
Cuối
cùng,
đầu tư
của khu
vực vào
sức mạnh
hải quân
đang gia
tăng, mở
ra nhiều
tiềm
năng hợp
tác
nhưng
cũng làm
dấy lên
nguy cơ
xung đột
- và
không
chỉ giữa
Trung
Quốc và
Mỹ. Việt
Nam đă
sử dụng
Đối
thoại
Shangri-La
để khẳng
định ư
định mua
6 tàu
ngầm tấn
công lớp
Kilo của
Nga,
cùng máy
bay
Su-30 và
tên lửa
hạm đối
không.
Một số
nước
khác
trong
khu vực,
trong đó
có
Australia,
Indonesia,
Philippines,
và
Singapore
gần đây
cũng
thông
báo các
kế hoạch
tăng
cường
năng lực
của hải
quân,
khiến
một số
người ở
Mỹ nói
đến sự
bắt đầu
của một
cuộc
chạy đua
vũ trang
hải quân
ở Đông
Nam Á.
Dù các
nước
khác nói
rằng
nhiều
loại vũ
khí được
đặt mua
trong
khu vực
không
nhằm vào
Trung
Quốc
nhưng
nhiều
người
cho rằng
các vùng
biển của
Đông Nam
Á sắp
cuộn
sóng.
Điều này
không
hẳn là
một tin
xấu.
Châu Á
đặc biệt
dễ tổn
thương
trước
thiên
tai, và
Hải quân
Mỹ có
thể giúp
đỡ nhiều
hơn khi
xảy ra
thảm họa
như vụ
động đất
và sóng
thần tại
bờ biển
Nhật Bản
hay vụ
sóng
thần ở
Thái
B́nh
Dương
năm
2004.
Nhưng
các vùng
biển
quốc tế
bận rộn
vốn là
nơi nguy
hiểm.
Các tàu
ngầm và
tàu nổi
có thể
dễ dàng
va vào
nhau,
gây nguy
hiểm cho
thủy thủ
đoàn và
trở
thành
một nhân
tố gây
bất ổn
nguy
hiểm đối
với các
đ̣i hỏi
chủ
quyền
chồng
lấn trên
biển
Đông.
Hơn nữa,
các quốc
gia mới
phát
triển
năng lực
hải quân
hiện có
khả năng
sử dụng
vũ lực,
hoặc đe
dọa sử
dụng vũ
lực, để
bảo vệ
đ̣i hỏi
chủ
quyền có
thể trị
giá tới
hàng tỷ
USD của
ḿnh.
Rơ ràng,
cần ngăn
cản điều
này thay
v́ gây
ra một
chu kỳ
sợ hăi,
lo ngại,
phản
kháng và
xung
đột. Mỹ
và Trung
Quốc có
một cơ
hội để
dẫn dắt
khu vực
này đi
theo
hướng
hữu ích.
Một sự
bắt đầu
tốt sẽ
là các
nỗ lực
đa
phương
nhằm cải
thiện
khả năng
hỗ trợ
nhân đạo
và đối
phó với
thiên
tai của
khu vực,
phát
triển
thói
quen hợp
tác lành
mạnh và
xây dựng
niềm tin
lẫn
nhau. Rơ
ràng khu
vực,
trong đó
có cả Mỹ
và Trung
Quốc,
cần
thông
qua một
cái ǵ
đó tương
tự như
thỏa
thuận
"các sự
cố trên
biển"
năm 1972
mà Mỹ và
Liên Xô
đă đạt
được,
giúp
tránh
các va
chạm
trên
biển và
ngăn cản
nguy cơ
xảy ra
khủng
hoảng
xuất
phát từ
các vụ
va chạm
do tai
nạn.
Một cuộc
chạy đua
vũ trang
thảm
khốc ở
Đông Nam
Á không
phải là
không
thể
tránh
khỏi. Mỹ
nên
khuyến
khích sự
nổi lên
của các
lực
lượng
hải quân
mới có
thể giúp
duy tŕ
sự độc
lập của
nước họ,
chỉ cần
không
hạn chế
tự do
hàng hải
hay đe
dọa sự
ổn định
của khu
vực -
vốn là
hai vấn
đề có
tầm quan
trọng
hàng đầu
đối với
Washington.
Khi các
cường
quốc này
nổi lên,
họ sẽ
cần đến
sự hỗ
trợ và
cam kết
liên tục
của Mỹ,
nhưng
cũng sẽ
t́m cách
giữ quan
hệ tốt
với
Trung
Quốc. Đó
là điều
b́nh
thường.
Sau tất
cả, giờ
không
c̣n là
thế kỷ
20, khi
tầm ảnh
hưởng
quyết
định
cuộc
cạnh
tranh
của nước
lớn. Địa
chính
trị
trong
thế kỷ
21 thừa
nhận
rằng hội
nhập tạo
ra ổn
định và
cho phép
các quốc
gia theo
đuổi
cạnh
tranh
kinh tế
thay v́
mở rộng
lănh
thổ.
Ch́a
khóa của
mọi việc
nằm ở
chỗ thừa
nhận sự
phức tạp
ấy.
Chờ xem
đợt sóng
thứ tư
sẽ diễn
ra như
thế nào.
Châu
Giang
(theo
Foreign
Policy)
*****
Căng
thẳng
Biển
Đông
càng làm
Đông Nam
Á cảnh
giác với
Trung
Quốc
RFI -
Thứ hai
13 Tháng
Sáu 2011
Dân biểu
Philippines
Walden
Bello (
trái )
tham gia
biểu
t́nh
phản đối
Trung
Quốc
ngày
8/6/11
tại
Manila
-
Reuters
Đức Tâm
Một cái
phao,
vài trạm
canh
gác, một
vài vật
liệu xây
dựng của
Trung
Quốc,
b́nh
thường
đó là
những
thứ
chẳng có
ư nghĩa
ǵ lắm,
thế
nhưng,
vụ việc
lại xẩy
ra trên
một băi
đá thuộc
vùng đặc
quyền
kinh tế
của
Philippines.
Đó là
dấu hiệu
cho thấy
sự leo
thang
căng
thẳng
trong
cuộc
tranh
chấp chủ
quyền
tại Biển
Đông,
một
trong
những
tuyến
thông
thương
hàng hải
quan
trọng
trên thế
giới,
nơi được
coi là
có nhiều
tài
nguyên,
đặc biệt
là dầu
khí.
Sự kiện
này c̣n
đặt ra
vấn đề
là các
nước
Đông Nam
Á ven
Biển
Đông đối
phó ra
sao với
sự trỗi
dậy của
Trung
Quốc như
một
cường
quốc khu
vực.
Theo
giới
quan
sát,
đương
nhiên,
các nước
Đông Nam
Á không
thể nào
đối địch
được về
mặt quân
sự với
Trung
Quốc,
thế
nhưng,
các nước
này cũng
không
chấp
nhận
thua và
để mất
chủ
quyền
đối với
các vùng
biển kề
cận lănh
thổ quốc
gia.
Quốc tế
hóa, kể
cả việc
khuyến
khích sự
hiện
diện của
Hoa Kỳ
trong
khu vực,
là một
cách để
các quốc
gia này
bảo vệ
lợi ích
của
ḿnh.
Nhận
định về
cách
hành xử
của
Trung
Quốc tại
Biển
Đông,
ông Ian
Storey,
chuyên
gia
thuộc
Viện
nghiên
cứu Đông
Nam Á ở
Singapore,
được
Reuters
trích
dẫn,
nói,
“tôi
ngày
càng
nghiêng
về việc
dùng từ
hung
hăng,
thay cho
từ quyết
đoán, để
miêu tả
cách
hành xử
của
Trung
Quốc tại
biển Hoa
Nam –
Biển
Đông. Và
sự phân
biệt này
rất quan
trọng”.
Trong
những
tuần
qua,
Trung
Quốc và
Việt Nam
tố cáo
nhau xâm
phạm chủ
quyền
hải phận
của
ḿnh.
Tại Việt
Nam, đă
có những
cuộc
biểu
t́nh
phản đối
Trung
Quốc
trong
hai chủ
nhật
liên
tục,
05/06 và
12/06/2011.
Theo
Việt
Nam, vụ
tàu hải
giám
Trung
Quốc cắt
cáp thăm
ḍ dầu
khí của
tàu B́nh
Minh 02,
ngày
26/05 và
vụ tàu
ngư
chính
Trung
Quốc uy
hiếp, đe
dọa tàu
thăm ḍ
dầu khí
Viking 2
ngày
09/06
vừa qua,
đă xẩy
ra trong
vùng đặc
quyền
kinh tế
của Việt
Nam,
chiếu
theo
Công ước
Liên
Hiệp
Quốc về
Luật
Biển –
UNCLOS –
1982.
Tuy
nhiên,
theo
giới
phân
tích,
th́ vụ
Trung
Quốc lập
các trạm
quan
sát, đưa
vật liệu
xây dựng
đến băi
đá Amy
Douglas
là sự cố
nghiêm
trọng
nhất.
Băi đá
này nằm
ở phía
tây nam
băi đá
Recto và
phía
đông đảo
Patag
(Việt
Nam gọi
là đảo
B́nh
Nguyên),
vốn
không có
người ở,
không có
công
tŕnh
xây dựng
ǵ và
thuộc
vùng đặc
quyền
kinh tế
của
Philippines.
Đối với
Manila,
hành
động của
Bắc Kinh
vi phạm
tinh
thần
Tuyên bố
về ứng
xử của
các bên
ở Biển
Đông, kư
kết năm
2002
giữa
Trung
Quốc và
ASEAN -
DOC. Đại
sứ Trung
Quốc tại
Philippines,
một mặt,
khẳng
định chủ
quyền
của Bắc
Kinh đối
với khu
vực này,
mặt khác
giải
thích đó
chỉ là
những
thiết bị
nghiên
cứu khoa
học,
Trung
Quốc
không có
ư định
chiếm
giữ băi
đá này
và luôn
chủ
trương
gác lại
những
tranh
chấp và
cùng
nhau hợp
tác,
khai
thác.
Thế
nhưng,
ông Euan
Graham,
chuyên
gia
trong
Chương
tŕnh
nghiên
cứu quân
sự, ở
Trường
Quan hệ
Quốc tế
Rajaratnam
-
Singapore,
nhấn
mạnh,
bất kể
đó có
phải là
thiết bị
quân sự
hay
không,
xây dựng
trên các
băi đá
trước đó
không có
người ở,
th́ rơ
ràng đó
là sự vi
phạm
Tuyên bố
DOC.
Có một
thực tế
là vụ
tranh
chấp về
chủ
quyền
tại Biển
Đông
không
liên
quan đến
tất cả
10 nước
Đông Nam
Á, thuộc
khối
ASEAN.
Các nuớc
như Thái
Lan,
Miến
Điện,
Lào tỏ
ra thờ
ơ. Hơn
nữa,
Trung
Quốc lại
là đối
tác kinh
tế quan
trọng
của các
quốc gia
này. Một
số
chuyên
gia gợi
ư là các
nước
liên
quan nên
phối hợp
đàm phán
và đạt
một thỏa
thuận
với
nhau,
tránh
lôi kéo
cả khối
ASEAN
vào, v́
Trung
Quốc có
thể coi
đây là
một sự
tập hợp
lực
lượng và
khiêu
khích.
Giáo sư
Carl
Thayer
thuộc
Học viện
Quốc
pḥng Úc
phân
tích:
“Vấn
đề Biển
Đông đă
khiến
nhiều
nước
Đông Nam
Á thúc
ép Hoa
Kỳ duy
tŕ cam
kết tại
Đông Nam
Á”
và
“Đông
Nam Á
muốn Mỹ
ủng hộ,
nhưng
lại
không
muốn Hoa
Kỳ làm
phức tạp
thêm vấn
đề hoặc
có những
hành
động cô
lập
Trung
Quốc và
buộc họ
phải lựa
chọn
đứng về
bên nào”.
Trong
khi đó,
chuyên
gia
Storey
nhận
định
rằng
trong
những
tháng
qua,
Trung
Quốc đă
làm cho
t́nh
h́nh
căng
thẳng.
Kiểu
hành xử
này đi
ngược
với lời
trấn an
của Bắc
Kinh về
một sự
“trỗi
dậy ḥa
b́nh” và
làm tiêu
tan mọi
thiện ư,
đẩy các
nước
trong
khu vực
xích lại
gần Hoa
Kỳ hơn.
Tags:
Biển
Đông
-
Châu Á
-
Chủ
quyền
-
Phân
tích
-
Trung
Quốc
*****
Đối phó
với
chiến
thuật '2
không'
của
Trung
Quốc ở
biển
Đông
Đất
Việt -Cập
nhật lúc
:5:02
PM,
13/06/2011
Việc
quấy rối
tàu thăm
ḍ dầu
khí của
Việt Nam
là sự
leo
thang
rất đáng
lo ngại
trong
các
chiến
thuật
“bắt
nạt” đặc
trưng
của
Chính
phủ
Trung
Quốc
trên
biển
Đông.
Phóng
viên Đất
Việt
Online
(ĐVO) đă
liên hệ
phỏng
vấn với
ông
David
Brown,
một nhà
ngoại
giao Mỹ
đă nghỉ
hưu. Ông
Brown
thường
xuyên
nghiên
cứu và
có nhiều
bài viết
về t́nh
h́nh
biển
Đông và
sông
Mekong
được
đăng tải
trên tờ
Asia
Times.
Sau
đây là
nội
dung phỏng
vấn:
ĐVO
- Xin
ông cho
biết
quan
điểm của
ḿnh về
việc tàu
Trung
Quốc cắt
cáp thăm
ḍ của
tàu thăm
ḍ dầu
khí B́nh
Minh 02
và
Viking-II
thuộc
Tập đoàn
dầu khí
quốc gia
Việt Nam
khi hai
tàu này
đang
hoạt
động
trên
vùng
biển
thuộc
đặc
quyền
kinh tế
của Việt
Nam?
Ông
David
Brown - Sự
quấy rối
và phá
hoại đối
với tàu
thăm ḍ
dầu khí
Binh
Minh và
Viking
II của
tàu
Trung
Quốc là
một sự
leo
thang
rất đáng
lo ngại.
Đây là
một phần
trong
các
chiến
thuật
bắt nạt
đặc
trưng
của Bắc
Kinh
trên
biển
Đông.
Những sự
kiện này
để tại
chút
nghi ngờ
rằng,
mục tiêu
của
Trung
Quốc là
để đảm
bảo kiểm
soát
lượng
dầu mỏ
và khí
đốt tại
biển
Đông.
Trung
Quốc đă
không
quan tâm
đến sự
đàm phán
với các
quốc gia
trong
khu vực
hay
những
vấn đề
khác.
Chiến
thuật
của
Trung
Quốc là
2 không:
- Không
đàm phán
đa
phương
và không
có bên
thứ 3 để
đứng ra
ḥa
giải.
- Không
bao giờ
phải chờ
được
phép mới
tiến tới
một giải
pháp về
lănh thổ
và lănh
hải.
Hoạt
động của
lực
lượng
Hải giám
Trung
Quốc
đang gây
quan
ngại sâu
sắc
trong
công
đồng
quốc tế
ĐVO
-
Theo
ông,
Chính
phủ Việt
Nam cũng
như các
nước
ASEAN
nên làm
ǵ để
giảm bớt
sự căng
thẳng
hiện tại
cũng như
tránh
các t́nh
huống
tương tự
về sau?
Ông
David
Brown - Việt
Nam đă
đặt hy
vọng của
ḿnh
trong sự
tham vấn
đa
phương
phối hợp
với
ASEAN,
thể hiện
sự sẵn
sàng
giải
quyết
các vấn
đề tranh
chấp
lănh hải
theo
công ước
về Luật
biển của
Liên Hợp
Quốc năm
1982.
Bất chấp
những nỗ
lực rất
tốt của
chủ tịch
ASEAN
hiện tại
là
Indonesia
, đang
có những
nghi ngờ
10 quốc
gia
ASEAN có
sẵn ḷng
để đứng
lên đối
trọng
với
Trung
Quốc hay
không?
Theo
quan
điểm của
tôi, nên
dành
thời
gian xem
xét và
đàm phán
một cách
chân
thành
nhất
giữa 5
nước có
tranh
chấp chủ
quyền
trực
tiếp với
Trung
Quốc là
Việt
Nam,
Phillippines,
Brunei,
Malaysia
và
Indonesia.
Nếu nhóm
5 này có
thể sắp
xếp và
ra một
tuyên bố
chung về
một quy
tắc ứng
xử, đó
có thể
coi là
một xuất
phát
điểm hợp
lư cho
một cuộc
đàm phán
chung
với
Trung
Quốc.
Hội đàm
với
Trung
Quốc nên
nhấn
mạnh đến
quyền
lợi
chính
đáng và
lợi ích
hợp pháp
của Trung
Quốc và
sự tham
gia vào
sự phát
triển
của khu
vực biển
Đông.
ĐVO
-
Xin ông
cho biết
quan
điểm của
ḿnh về
vai tṛ
của Mỹ
tại
ASEAN?
Ông
David
Brown - Mỹ
không có
vai tṛ
trong
ASEAN,
Mỹ không
phải là
một
thành
viên của
tổ chức
này, và
điều đó
là không
nên. Nếu
ASEAN
hoặc một
nhóm
thành
viên của
ASEAN
cần Mỹ
hỗ trợ
về kỹ
thuật
hay các
quy phạm
pháp
luật, Mỹ
có thể
cung
cấp.
Có thể
Trung
Quốc
mong
muốn hợp
tác quân
sự tốt
hơn với
Mỹ trên
toàn
cầu,
điều đó
có thể
tránh
được
nhiều
hành
động
khiêu
khích
trên
biển
Đông.
Tuy
nhiên
tôi
không
lạc quan
về khả
năng
này.
ĐVO
- Xin
chân
thành
cảm ơn
ông đă
dành
thời
gian trả
lời các
câu hỏi
phỏng
vấn của
chúng
tôi.
*****
Carlyle
A.
Thayer
Bauxite
Việt Nam
–
17-6-2011
Do sự cố
cắt cáp
lần thứ
hai giữa
một tàu
đánh cá
của
Trung
Quốc và
một tàu
thăm ḍ
Việt Nam
, chúng
tôi muốn
ông đánh
giá
những
điều sau
đây:
1- Đánh
giá của
ông về
hành
động của
Trung
Quốc là
ǵ? Hành
động đó
nghiêm
trọng
như thế
nào?
Chúng ta
có thể
nghĩ
rằng sự
quyết
đoán hơn
thế này
nữa sẽ
đến từ
Trung
Quốc?
ĐÁP:
Hành
động của
Trung
Quốc đại
diện cho
một làn
sóng mới
về sự
khẳng
định chủ
quyền
một cách
hiếu
chiến
trên
biển
Đông.
Trung
Quốc
đang
thiết
lập một
cơ sở
pháp lư
để chứng
minh
rằng họ
"quản lư
Biển
Đông" và
có quyền
quản lư
hành
chính ở
đó. Hành
động của
Trung
Quốc rất
nguy
hiểm bởi
v́ họ
không
dựa trên
sự hiểu
biết
chung về
luật
pháp
quốc tế.
Thậm chí
c̣n
nghiêm
trọng
hơn bởi
v́ Trung
Quốc từ
chối làm
rơ, một
cách
chính
xác
những ǵ
mà họ
tuyên bố
chủ
quyền.
Tuyên bố
của
Trung
Quốc th́
mơ hồ và
do đó
gây hiểu
lầm.
Hành
động của
Trung
Quốc
chắc
chắn sẽ
gia
tăng. Họ
đang đẩy
mạnh
việc xây
dựng tàu
giám sát
nhiều
hơn. Và
họ đă
đưa giàn
khoan
thăm ḍ
dầu rất
lớn, nói
rằng họ
sẽ thăm
ḍ trên
biển
Đông.
Từng
bước
một,
Trung
Quốc
thiết
lập
quyền bá
chủ trên
vùng
biển
trong
bản đồ
lưỡi ḅ
9 vạch.
Tuyên bố
của
Trung
Quốc
trực
tiếp lấn
vào các
vùng đặc
quyền
kinh tế
của Việt
Nam và
Philippines
. Hành
động của
Trung
Quốc có
khả năng
phá vỡ
hoặc làm
ngưng
các hoạt
động
thăm ḍ
của Việt
Nam và
Philippines
, là một
phần
trong
chương
tŕnh
phát
triển
kinh tế
của các
nước
này.
2- Có
khả năng
xảy ra
một cuộc
đụng độ
giữa lực
lượng
hải quân
Trung
Quốc với
Việt Nam
? Thái
độ của
cộng
đồng
quốc tế
đối với
những
diễn
tiến
này? Ông
nghĩ
rằng
Việt Nam
sẽ có
hành
động ǵ?
ĐÁP:
Cho đến
nay
Trung
Quốc đă
sử dụng
các con
tàu giám
sát dân
sự. Một
cuộc
đụng độ
giữa lực
lượng
hải quân
có thể
xảy ra
nếu t́nh
h́nh
căng
thẳng
hiện nay
không
được
giải
quyết và
tiếp tục
leo
thang.
Việt Nam
đă gửi
tàu B́nh
Minh 02
trở lại
biển để
tiếp tục
thăm ḍ.
Lần này
con tàu
được đi
kèm với
tám tàu
hộ
tống.
Nếu
Trung
Quốc cố
làm gián
đoạn các
hoạt
động,
bắt buộc
Việt Nam
sẽ phản
ứng lại.
Việt Nam
đă công
bố sẽ
tiến
hành tập
trận bắn
đạn thật
ở biển
Đông.
Trung
Quốc
cũng
tuyên bố
sẽ tiến
hành tập
trận hải
quân ở
biển Hoa
Nam .
Luôn có
nguy cơ
hiểu lầm
và sự cố
có thể
xảy ra
nếu các
lực
lượng
này chạm
trán.
Tại thời
điểm này
Việt Nam
đă trải
qua hai
sự cố
tàu thăm
ḍ đă bị
cắt cáp.
Philippines
đă ghi
nhận tới
bảy sự
cố về sự
xâm lấn
của
Trung
Quốc vào
vùng
biển của
họ, gồm
cả việc
bắn vào
ngư dân.
Việc xây
dựng của
Trung
Quốc
trên một
băi đá
và đe
dọa một
trong
những
con tàu
thăm ḍ
của họ (
Philippines
). Tất
cả những
sự cố
này là
song
phương
giữa
Trung
Quốc và
nước
liên
quan.
Các sự
cố này
không đe
dọa sự
an toàn
hoặc tự
do hàng
hải.
Cộng
đồng
quốc tế
sẽ xem
xét các
nước có
liên
quan để
giải
quyết
tranh
chấp này
trước
tiên ở
giai
đoạn
đầu. Vai
tṛ lănh
đạo của
Hoa Kỳ
rất quan
trọng.
Hoa Kỳ
giữ vai
tṛ dẫn
đầu th́
các đồng
minh của
họ sẽ
làm
theo.
Điều
quan
trọng là
ASEAN có
thể đạt
được sự
đồng
thuận về
chính
sách đối
với
Trung
Quốc hay
không.
Nếu
ASEAN có
thể
chứng tỏ
một mặt
trận
thống
nhất th́
sẽ nhận
được sự
hỗ trợ
của Hoa
Kỳ và
các nước
lớn khác
như Nhật
Bản, Ấn
Độ, Úc
và Nam
Hàn.
Việt Nam
cần duy
tŕ sự
thống
nhất ở
trong
nước và
cho thấy
việc
thực thi
chủ
quyền ở
vùng đặc
quyền
kinh tế
của
ḿnh.
Việt Nam
phải
kiên
quyết
nhưng
không
khiêu
khích.
Về lâu
về dài,
Việt Nam
cần xây
dựng và
triển
khai tàu
và máy
bay phù
hợp để
theo dơi
và duy
tŕ sự
giám sát
vùng đặc
quyền
kinh tế
của
ḿnh.
Việt Nam
nên h́nh
thành
mối quan
hệ chính
trị chặt
chẽ với
Philippines
,
Malaysia
và
Indonesia
và phát
triển
một
chính
sách
chung.
Việt Nam
nên hỗ
trợ sự
lănh đạo
của
Indonesia
làm Chủ
tịch
ASEAN
trong
việc xây
dựng sự
đồng
thuận
của tất
cả 10
thành
viên
trong
khối.
Việt Nam
cần vận
động
hành
lang tất
cả các
nước có
liên
quan,
quan tâm
đến biển
Hoa Nam
(biển
Đông) và
bảo đảm
sự ủng
hộ của
họ đối
với
ASEAN.
Các nước
chính sẽ
trông
cậy vào
ASEAN
trước và
sau đó
mới tới
Hoa Kỳ.
Việt Nam
cần gây
áp lực
với
Trung
Quốc về
các cuộc
họp cấp
cao để
giữ
nguyên
trạng và
giảm
căng
thẳng.
Toàn bộ
chiến
lược của
Việt Nam
tùy
thuộc
vào việc
được xem
như là
nạn
nhân.
Nếu Việt
Nam trở
nên
quyết
đoán
hoặc
khiêu
khích
trong
quan hệ
với
Trung
Quốc,
Việt Nam
sẽ bị
xem như
là “một
phần của
việc gây
rối”.
Điều này
sẽ làm
cho
ASEAN
mất đoàn
kết.
3 - Liệu
Trung
Quốc có
một
chiến
lược lớn
đằng sau
sự quyết
đoán này
không?
Trung
Quốc có
t́m cách
thiết
lập sự
kiểm
soát chủ
quyền
trên tất
cả lănh
hải bên
trong
bản đồ
đường
lưỡi ḅ
không?
ĐÁP:
Kế hoạch
chiến
lược dài
hạn của
Trung
Quốc là
tăng
cường
sức mạnh
hải quân
để ngăn
chặn hải
quân Mỹ
hoạt
động
trong
cái gọi
là
"chuỗi
đảo đầu
tiên"
ngoài
khơi bờ
biển
phía
Đông của
họ từ
Nhật Bản
đến
Indonesia.
Kế hoạch
chiến
lược của
Trung
Quốc là
phát
triển
sức mạnh
hải quân
để bảo
vệ lợi
ích
thương
mại và
các
tuyến
đường
giao
thông
trên
biển của
họ từ
Trung
Đông tới
Trung
Quốc đi
qua Biển
Đông.
Trung
Quốc sẽ
ngày
càng phụ
thuộc
vào
nguồn
nhập
khẩu
năng
lượng
dầu khí.
Chiến
lược của
Trung
Quốc
nhằm
thiết
lập sự
kiểm
soát
nguồn
tài
nguyên
dầu khí
ở biển
Hoa Nam
càng
nhiều
càng
tốt.
Điều này
có nghĩa
là thiết
lập
quyền bá
chủ trên
các đảo
và biển
trong
bản đồ
đường
lưỡi ḅ
của họ.
Sự quyết
đoán gần
đây của
Trung
Quốc
nhằm
ngăn
chặn
Việt Nam
và
Philippines
khai
thác các
nguồn
tài
nguyên
này và
lôi kéo
các công
ty dầu
mỏ nước
ngoài
vào để
khai
thác dầu
khí.
Theo
quan
điểm của
Trung
Quốc,
nếu họ
không
hành
động
ngay bây
giờ,
việc đ̣i
"chủ
quyền
không
thể
tranh
căi" của
Trung
Quốc sẽ
bị suy
yếu.
Ngọc Thu
dịch từ:
scribd.com
Người
dịch gửi
trực
tiếp cho
BVN.
*****
Căng
thẳng
trên
Biển
Đông: có
thể có
một giải
pháp?
Carlyle
A.
Thayer
Bauxite
Việt Nam
–
18-6-2011
HỎI:
Đánh giá
của ông
về những
căng
thẳng
gia tăng
gần đây
nhất
trên
Biển
Đông là
ǵ?
ĐÁP:
Cả Trung
Quốc và
Việt Nam
đang đi
tới tiến
tŕnh
xung đột
nếu họ
không
ngưng
việc gia
tăng
những
rủi ro
trong
việc đáp
trả lẫn
nhau.
Việt Nam
đă phản
đối các
hành
động của
tàu dân
sự giám
sát biển
Trung
Quốc
trong vụ
cắt cáp,
bằng
cách gửi
các tàu
hộ tống
đi cùng
với các
tàu thăm
ḍ dầu
khí của
ḿnh.
Nếu
Trung
Quốc gửi
thêm tàu
tới để
thực thi
quyền
tài phán
của họ,
có mỗi
khả năng
xảy ra
sự cố
như một
vụ va
chạm
hoặc
thậm chí
đọ súng
tùy
thuộc
vào hành
động
khiêu
khích.
Phản ứng
của
Trung
Quốc với
thái độ
thù địch
ngay từ
đầu.
Thậm chí
Trung
Quốc c̣n
không
thèm
điều tra
bất kỳ
sự cố
nào.
Hành vi
của
Trung
Quốc có
khả năng
nhấn
ch́m các
cuộc đàm
phán
đang
thực
hiện
giữa
Trung
Quốc và
ASEAN
trong
việc áp
dụng các
hướng
dẫn thực
hiện
Tuyên bố
ứng xử
của các
bên trên
Biển
Đông
(DOC)
năm 2002
và do đó
cản trở
kế hoạch
cho một
bộ luật
ràng
buộc
pháp lư
hơn: Quy
tắc Ứng
xử.
Những sự
kiện gần
đây trên
Biển
Đông
cũng
liên
quan đến
Philippines,
nghĩa là
tranh
chấp
lănh thổ
sẽ nổi
bật vào
tháng 7,
khi các
cuộc họp
ASEAN
được tổ
chức tại
hội nghị
thượng
đỉnh
hàng năm
và các
cuộc họp
liên
quan. Áp
lực quốc
tế sẽ
gia tăng
đối với
tất cả
các bên,
đặc biệt
là Trung
Quốc, để
chấm dứt
hành
động
khiêu
khích và
thỏa
thuận
một ḥa
ước ḥa
b́nh tạm
thời.
Nếu
Trung
Quốc
phản ứng
tiêu
cực,
điều này
có thể
tác động
đến Hội
nghị
Thượng
đỉnh
Đông Á
dự kiến
tổ chức
ở
Jakarta
vào
tháng 10
khi Hoa
Kỳ dự
định
sẽ
tham dự
lần đầu
tiên.
HỎI:
Làm sao
ông thấy
kết quả
này bây
giờ khi
Việt Nam
tiến
hành tập
trận bắn
đạn
thật?
ĐÁP:
Tập trận
bắn đạn
thật của
Việt Nam
là sự
phản
kháng
lên tới
đỉnh
điểm.
Việc tập
trận
liên
quan đến
việc
pháo
binh ven
biển vào
ban ngày
và bắn
súng hải
quân vào
ban đêm.
Không có
bắn thử
tên lửa
chống
tàu. Khu
vực có
liên
quan
trải dài
từ bờ
biển đến
đảo Ḥn
Ông xa
40 km.
Việc tập
trận đă
không
tiến
hành gần
nơi hai
sự cố
cắt cáp
đă diễn
ra. Và
việc tập
trận đă
được
thực
hiện rất
gần với
đất liền
để không
có khả
năng xảy
ra bất
kỳ sự
liên
quan nào
đến tàu
Trung
Quốc.
Trung
Quốc đă
phản ứng
có thể
dự đoán
- điên
cuồng và
bi thảm.
Thực ra,
Trung
Quốc đă
thông
báo rằng
họ sẽ
tiến
hành tập
trận hải
quân ở
Tây Thái
B́nh
Dương
trước
khi Việt
Nam
tuyên bố
tập trận
bắn đạn
thật.
Tàu
Trung
Quốc sẽ
chỉ bị
đe dọa
nếu
chúng
xâm nhập
vào lănh
hải và
vùng
tiếp
giáp
lănh hải
của Việt
Nam ,
không
phải bên
ngoài
vùng đặc
quyền
kinh tế
của VN.
HỎI:
Các
phương
tiện
truyền
thông
nước
ngoài
nói rằng
Việt Nam
đă kêu
gọi ḥa
giải
quốc tế
và muốn
Mỹ giúp
đỡ. Năm
ngoái,
Mỹ cho
biết
quyết
định
trong
tranh
chấp
biển Hoa
Nam là
"lợi ích
quốc
gia" của
ḿnh -
Chính
xác đó
là những
ǵ lợi
ích?
ĐÁP:
Lập
trường
của Việt
Nam đă
được
công bố
trong
câu trả
lời về
câu hỏi
của một
phóng
viên tại
buổi họp
báo của
Bộ Ngoại
giao.
Không
phải là
một sáng
kiến
mới.
Lợi ích
của Mỹ
là duy
tŕ sự
an toàn
và tự do
hàng hải
trên các
tuyến
đường
biển
quốc tế
đi qua
biển Hoa
Nam . Mỹ
có lợi
ích quốc
gia để
thấy
rằng
những
con tàu
do Mỹ sở
hữu và
những
con tàu
do các
đồng
minh và
bạn bè
của Mỹ
và tàu
chở hàng
hóa đến
Hoa Kỳ
và từ
Hoa Kỳ
không bị
quấy
nhiễu.
Mỹ cũng
đă tuyên
bố họ
quan tâm
trong
việc
ngăn
chặn bất
kỳ nước
nào sử
dụng
quyền bá
chủ trên
biển Hoa
Nam .
Tuy
nhiên,
Hoa Kỳ
sẽ không
đứng về
bên nào
trong
tranh
chấp
lănh
thổ.
HỎI:
Thực tế,
giải
pháp ǵ
có thể
đạt được
trong
vấn đề
này?
Dường
như
chuyện
đă xảy
ra vào
quá lâu,
để đạt
được một
"giải
pháp" sẽ
vô cùng
khó
khăn.
ĐÁP:
Giải
quyết
tranh
chấp
lănh thổ
trên
biển Hoa
Nam có
lẽ không
bao giờ
thực
hiện
được.
Trung
Quốc
tuyên bố
chủ
quyền
không
thể
tranh
căi trên
hầu hết
biển Hoa
Nam
không
căn cứ
vào luật
pháp
quốc tế
và do đó
không
tuân
theo
thỏa
thuận.
Tuyên bố
của
Trung
Quốc cắt
sâu vào
các vùng
đặc
quyền
kinh tế
mà
Philippines
và Việt
Nam đă
tuyên
bố.
Trong
khi đó,
căng
thẳng
hiện tại
có thể
được
giải
quyết
bằng
cách tất
cả các
bên liên
quan
đồng ư
kềm chế
đe dọa
hoặc sử
dụng vũ
lực và
để duy
tŕ hiện
trạng,
và hoàn
tất việc
đàm phán
các
hướng
dẫn để
thực
hiện bản
Tuyên bố
Ứng xử
(DOC).
Điều này
sẽ mang
lại một
số ổn
định và
có thể
đoán
được mối
quan hệ
giữa
Trung
Quốc và
các nước
ven
biển.
Đây là
điều tốt
nhất có
thể hy
vọng bởi
v́ DOC
mà Trung
Quốc đă
đồng ư
với các
nước
thành
viên
ASEAN.
Những đề
nghị
khác
nhau cho
hoạt
động hợp
tác về
DOC có
thể thực
hiện cả
phương
pháp
thực
hiện và
xây dựng
ḷng
tin.
Về lâu
dài,
tranh
chấp chủ
quyền có
thể xếp
lại và
các nước
liên
quan có
thể đồng
ư phát
triển
hợp tác
[khai
thác]
tài
nguyên
thiên
nhiên
trong
khu vực.
Họ cũng
có thể
áp dụng
một quy
tắc ứng
xử
nghiêm
ngặt hơn
nhưng để
điều này
có được
ràng
buộc
pháp lư,
sẽ cần
phải có
ư nghĩa
của một
hiệp
ước.
Ngọc Thu
dịch từ:
scribd.com
Người
dịch gửi
trực
tiếp cho
BVN.
Được
đăng bởi
bauxitevn
vào lúc
06:10
*****
Ư kiến
của
Carlyle
A.
Thayer
về t́nh
h́nh
Biển
Đông
Biển
Đông: sự
quan tâm
của Hoa
Kỳ là
ǵ?
Carlyle
A.
Thayer
Bauxite
Việt Nam
–
18-6-2011
HỎI:
Một số
nhà quan
sát đă
tiên
đoán
rằng sự
tham gia
của Mỹ
trong
tranh
chấp
xoay
quanh
lợi ích
của
chính họ
sẽ bị
ảnh
hưởng
trong
vấn đề
này.
Đánh giá
này của
ông là
ǵ?
ĐÁP:
Dĩ nhiên
Hoa Kỳ
sẽ hành
động dựa
trên lợi
ích quốc
gia của
họ. Họ
đă tuyên
bố rằng
an toàn
và tự do
hàng hải
ở biển
Hoa Nam
(Biển
Đông) là
lợi ích
quốc
gia.
Trung
Quốc
chịu
nhịn
không
can
thiệp
vào lợi
ích này.
Nếu
Trung
Quốc đă
can
thiệp,
họ sẽ
phải đối
mặt với
sức mạnh
hải quân
và không
quân Mỹ.
Hoa Kỳ
có lợi
ích lớn
hơn
trong
việc
phát
triển
mối quan
hệ tốt
với
Trung
Quốc,
gồm cả
mối quan
hệ quân
sự giữa
hai
nước. Mỹ
không
muốn bị
mắc bẫy
– bị lôi
kéo vào
– đứng
về bên
nào
trong
tranh
chấp
lănh hải
trên
biển Hoa
Nam .
Quan hệ
của Mỹ
với Việt
Nam khác
với quan
hệ giữa
Mỹ với
Philippines
.
Philippines
là đồng
minh đă
kư hiệp
ước,
Hiệp ước
Tương
trợ An
ninh năm
1951.
Hiệp ước
này đă
được kư
trước
khi
Philippines
tuyên bố
nhóm đảo
Kalayaan
ở biển
Hoa Nam
. Mỹ lập
luận
rằng
hiệp ước
này
không
liên
quan đến
phần
lănh thổ
có được
sau khi
hiệp ước
đă kư.
Tuy
nhiên,
Mỹ cho
biết, họ
sẽ đáp
ứng các
nghĩa vụ
tronghiệp
ước để
tham
khảo ư
kiến
với
Manila
nếu các
lực
lượng vũ
trang
của
Philippines,
gồm các
tàu hải
quân, bị
tấn
công.
Hoa Kỳ
không có
mối quan
hệ như
thế đối
với Việt
Nam và
các mối
quan hệ
quốc
pḥng
[với
Việt Nam
] th́
rất nhỏ.
Hoa Kỳ
có một
lợi ích
tổng
quát hơn
trong
việc duy
tŕ ḥa
b́nh và
ổn định
ở biển
Hoa Nam
và xem
ASEAN
đóng vai
tṛ
trọng
tâm. Mỹ
sẽ hỗ
trợ
chính
trị và
ngoại
giao nếu
Trung
Quốc có
ư định
đe dọa
hay bắt
nạt các
nước
trong
khu vực.
Chủ yếu
là
Philippines
và Việt
Nam
trước
tiên
phải
trông
cậy vào
chính
ḿnh để
bảo vệ
chủ
quyền ở
vùng đặc
quyền
kinh tế
của
ḿnh.
---------
Biển
Đông: Có
phải
Trung
Quốc
trong
tiến
tŕnh
xung
đột?
Carlyle
A.
Thayer
Bauxite
Việt Nam
–
18-6-2011
HỎI:
Tôi thấy
một số
nhà phân
tích nói
rằng,
những
căng
thẳng
đang gia
tăng ở
biển Hoa
Nam
(Biển
Đông),
và tôi
thấy một
số người
Việt Nam
chính
thức
phàn nàn
về hành
động của
Trung
Quốc.
Tôi cũng
nhận
thấy các
cuộc
biểu
t́nh
phản đối
ở Việt
Nam về
vấn đề
này. Vấn
đề này
nghiêm
trọng
như thế
nào? Ông
có thể
cho sự
đánh
giá?
ĐÁP:
Tôi bị
cám dỗ
bởi câu
trả lời
là tất
cả mọi
thứ đều
b́nh
thường.
Trung
Quốc có
chủ
quyền
không
thể
tranh
căi đối
với quần
đảo Nam
Sa
(Trường
Sa) và
vùng
biển
liền kề
từ nhà
Hán đến
nay. Mặc
dù các
tin tức
có sai
sót và
thông
tin sai,
thậm chí
các tin
đồn do
Philippines
và Việt
Nam lan
truyền,
Trung
Quốc
quản lư
biển Hoa
Nam một
cách
hiệu
quả,
thực thi
chủ
quyền
tài phán
của
ḿnh.
Tất cả
các cáo
buộc
chống
lại
Trung
Quốc là
không
đúng sự
thật.
Trung
Quốc sẽ
không
bao giờ
sử dụng
vũ lực
và mong
muốn một
giải
pháp ḥa
b́nh cho
các
tranh
chấp
lănh thổ
được
giải
quyết
song
phương
giữa các
nước có
liên
quan
trực
tiếp.
Trong
khi đó,
Trung
Quốc sẽ
tiến
hành tập
trận hải
quân
thường
lệ ở Tây
Thái
B́nh
Dương
vào cuối
tháng
này. Một
giàn
khoan
thăm ḍ
dầu mỏ
mới, rất
lớn sẽ
thăm ḍ
dầu khí
ở đâu đó
trên
biển Hoa
Nam .
[Đoạn
này GS
Carl
Thayer
nhại
luận
điệu của
Trung
Quốc].
Thực tế,
một loạt
các hành
động đơn
phương
của
Trung
Quốc đă
đưa ra
những
căng
thẳng
nghiêm
trọng và
có khả
năng đặt
Trung
Quốc vào
tiến
tŕnh
xung đột
với Việt
Nam và
Philippines.
Các hành
động của
Trung
Quốc
không
chỉ thử
thách sự
đoàn kết
của
ASEAN,
mà c̣n
thử
thách cả
liên
minh
Mỹ-Philippines.
Philippines
tố cáo
Trung
Quốc là
chủ mưu
của 5-7
sự cố
trong
năm nay.
Ngày 25
tháng 2,
một tàu
khu trục
tên lửa
loại
Jianghu-V,
Đông
Quan
560, ra
lệnh cho
ngư dân
Philippines
rời khỏi
vùng
biển
tranh
chấp và
đuổi họ
cùng với
việc bắn
ra ba
phát
súng
trước
mũi một
chiếc
thuyền.
Ngày 2
tháng 3,
hai tàu
giám sát
biển của
Trung
Quốc ra
lệnh cho
một
chiếc
tàu thăm
ḍ dầu
khí của
Philippines
rời khỏi
khu vực
băi Cỏ
Rong
(Reed
Bank).
Hai tàu
đó đe
dọa đâm
con tàu
này.
Trong
một sự
cố khác,
tàu
Trung
Quốc gửi
vật liệu
xây dựng
đến một
băi san
hô không
người ở
và đánh
dấu lên
cái
phao.
Philippines
phản đối
tất cả
các sự
cố,
ngoại
trừ sự
cố ngày
25 tháng
2.
Đối với
Việt Nam
, một
lần nữa
Trung
Quốc đơn
phương
áp đặt
lệnh cấm
đánh bắt
cá hàng
năm.
Không có
ǵ mới ở
đây,
Việt Nam
đưa tin,
ngư dân
Trung
Quốc đă
xâm lấn
vào khu
vực đánh
cá của
ḿnh với
số lượng
nhiều
hơn so
với
trước
đây.
Nghiêm
trọng
hơn,
ngày 26
tháng 5
và ngày
9 tháng
6, tàu
Trung
Quốc đă
cắt cáp
tàu thăm
ḍ địa
chấn
Việt Nam
hoạt
động bên
trong
vùng đặc
quyền
kinh tế
của Việt
Nam.
Việt Nam
đă đưa
con tàu
có liên
quan đến
sự kiện
ngày 26
tháng 5
trở ra
biển với
tám tàu
hộ tống.
Việt Nam
đă phản
đối mỗi
hành
động và
mọi hành
động của
Trung
Quốc.
Trong
khi tất
cả những
điều này
đang xảy
ra, th́
Trung
Quốc đă
đưa giàn
khoan
thăm ḍ
dầu khí
rất lớn
và cho
biết sẽ
khai
thác dầu
trong
khu vực
biển Hoa
Nam .
Ngày 9
tháng 6,
Trung
Quốc
cảnh báo
Philippines
và Việt
Nam
ngưng
thăm ḍ
dầu khí
và tuyên
bố rằng,
họ sẽ
tiến
hành tập
trận hải
quân
thường
xuyên ở
Tây Thái
B́nh
Dương.
Trung
Quốc có
hành
động
khiêu
khích
cuộc
biểu
t́nh của
công
chúng ở
Việt Nam
lần thứ
hai, với
hai cuộc
biểu
t́nh
riêng
tại Hà
Nội và
TP Hồ
Chí
Minh.
Việt Nam
đă bị
hàng
trăm
cuộc tấn
công
trên các
trang
web của
ḿnh, kể
cả các
trang
web
chính
phủ. Thủ
tướng
Việt Nam
đă có
một bài
phát
biểu
công
khai với
sự bảo
vệ chủ
quyền
mạnh mẽ.
Và đáng
kể nhất,
Việt Nam
sẽ được
tiến
hành
chín giờ
tập trận
hải quân
có bắn
đạn thật
ngoài
khơi bờ
biển
trung
tâm của
ḿnh
ngày hôm
nay.
Trung
Quốc và
các nước
đang đ̣i
chủ
quyền
[trên
biển
Đông] ở
Đông Nam
Á đang
trong
một quá
tŕnh va
chạm
tiềm
tàng.
Trung
Quốc
khẳng
định chủ
quyền
không
thể
tranh
căi của
họ trên
Quần đảo
Nam Sa
(Trường
Sa) và
vùng
biển lân
cận, khi
kết hợp
chặt chẽ
với bản
đồ đường
lưỡi ḅ
chính
đoạn của
họ, cắt
sâu vào
các vùng
đặc
quyền
kinh tế
mà Việt
Nam và
Philippines
đă tuyên
bố.
Trung
Quốc
không
bao giờ
nói rơ
ràng
chính
xác
những ǵ
họ tuyên
bố, rơ
ràng có
sự mập
mờ về
khu vực
tranh
chấp.
Cho đến
giờ th́
Hải quân
Trung
Quốc
chưa
tham
gia. Tất
cả các
sự cố đă
được báo
cáo, có
liên
quan đến
những
con tàu
của đội
Giám sát
biển
Trung
Quốc và
có thể
những
con tàu
của Cục
Thủy
sản.
Philippines
và Việt
Nam
không
phải lúc
nào cũng
làm rơ
ràng
những ǵ
tàu
Trung
Quốc đă
dính
líu.
Nhưng sự
cố ngày
26 tháng
5 đă
cung cấp
tài liệu
đầy đủ.
Cho đến
khi
những sự
việc này
[xảy ra]
Trung
Quốc và
ASEAN đă
lặng lẽ
làm việc
về một
tài liệu
có trước
đây hiện
đang hấp
hối,
trong
Nhóm Làm
việc
chung về
Tuyên bố
Ứng xử
giữa các
bên trên
biển
Đông.
Nhóm làm
việc đă
hoăn lại
phần các
hướng
dẫn.
ASEAN
gặp nhau
trước,
đưa ra
một lập
trường
chung,
và sau
đó đàm
phán với
Trung
Quốc.
Trung
Quốc
muốn các
cuộc
thảo
luận
song
phương
với các
nước
liên
quan
trực
tiếp. Có
hy vọng
về quy
tắc ứng
xử mang
tính
ràng
buộc
pháp lư
cho biển
Hoa Nam
sẽ kết
thúc. Kỷ
niệm 10
năm
tuyên bố
đó ra
đời sẽ
rơi vào
tháng 11
năm tới.
Làn sóng
mới về
sự quyết
đoán của
Trung
Quốc sẽ
đặt biển
Hoa Nam
trở lại
chương
tŕnh
nghị sự
cho một
loạt các
cuộc họp
và hội
nghị
thượng
đỉnh
liên
quan đến
ASEAN sẽ
được tổ
chức vào
tháng 7,
Hội nghị
Thượng
đỉnh
Đông Á
vào
tháng
10.
Trung
Quốc sẽ
không ưa
thích sự
can
thiệp
của Hoa
Kỳ và
các bên
khác
không
liên
quan
trực
tiếp đến
việc đ̣i
chủ
quyền
trên
biển Hoa
Nam . Có
khả năng
Hội nghị
Thượng
đỉnh
Đông Á
có thể
là một
tai họa
nếu
Trung
Quốc
phản đối
bất kỳ
thảo
luận nào
về biển
Hoa Nam
. Trung
Quốc đă
vượt
trội ở
Hội nghị
Thượng
đỉnh
Đông Á
và quan
điểm của
Bắc Kinh
về điều
này có
thể cho
ra kết
quả
không
tệ.
Nh́n
chung,
những
căng
thẳng
gần đây
trên
biển Hoa
Nam sẽ
là phép
thử về
sự đoàn
kết và
gắn bó
trong
khối
ASEAN,
sự quyết
tâm và
tham gia
của Mỹ ở
Đông Nam
Á, và
Hiệp ước
Tương
trợ An
ninh Mỹ
-
Philippines.
Quan hệ
Việt -
Trung sẽ
trải qua
t́nh
trạng
căng
thẳng và
nếu
không
bên nào
lẫn
tránh
[vấn
đề], một
cuộc
đụng độ
hải quân
có khả
năng là
kết cục.
Ngọc Thu
dịch từ:
scribd.com
Người
dịch gửi
trực
tiếp cho
BVN.
Được
đăng bởi
bauxitevn
vào lúc
06:09
*****
Ba phép
thử cho
xung đột
Biển
Đông
Tác giả:
NguyỄn
Chính
Tâm
Vietnam
Net –
19-6-2011
Nói như
nhiều
nhà quan
sát,
đằng sau
vụ tàu
B́nh
Minh và
mới đây
là tàu
Viking
bị cắt
cáp là
mũi tên
của Bắc
Kinh
nhắm vào
nhiều
đích.
Một, xác
quyết
chủ
quyền
với
đường
lưỡi ḅ.
Hai, xem
thái độ
của các
nước
cùng
tranh
chấp
xung
quanh.
Và ba,
răn đe
các nước
khác có
tranh
chấp như
Nhật qua
đảo
Senkaku
(Trung
Quốc gọi
là Điếu
Ngư).
Nhưng
không
chỉ từ
phía
Trung
Quốc,
đối với
các nước
cùng
chia sẻ
lợi ích
tại Biển
Đông, sự
kiện này
cũng đặt
lên bàn
cờ những
phép thử
khác.
Với Mỹ
là định
lại bức
tranh
chiến
lược c̣n
nhiều
góc
khuất.
Với
ASEAN là
đi t́m
một đồng
thuận
chung.
C̣n với
Việt Nam
là cuộc
sát hạch
về chiến
lược,
lựa chọn
hiện tại
để h́nh
dung
tương
lai.
Siêu
cường
giữa
những
ngả rẽ
Là một
cường
quốc
Thái
B́nh
Dương,
và tiếp
tục muốn
đảm bảo
vị trí
này,
trước
những
động
thái leo
thang
gần đây
của
Trung
Quốc tại
Biển
Đông
trực
tiếp ảnh
hưởng
đến
quyền tự
do lưu
thông
hàng
hải,
nước Mỹ
đứng
trước
những
lựa
chọn:
(1) ủng
hộ thiết
lập cơ
chế an
ninh
vùng để
ngăn
chặn
hành
động
dùng vũ
lực; (2)
tiếp tục
đảm bảo
sự hiện
diện
quân sự
và tham
gia gây
ảnh
hưởng
đến các
sự kiện
xảy ra
trong
vùng
(inshore
balancer)
và
(3) giữ
vai tṛ
người
cân bằng
lực
lượng
bên
ngoài
(offshore
balancer)
bằng
cách hỗ
trợ
những
nước
khác yếu
hơn
trong
khu vực
làm đối
trọng
với sự
gia tăng
quyền
lực của
đối thủ
tiềm
năng.
Thực tế
cho thấy
chính
sách
Washington
qua
nhiều
đời tổng
thống là
một
chiến
lược hỗn
hợp.
Điểm
khác
biệt nằm
ở liều
lượng
chính
sách và
mức độ
ưu tiên
trong
những
cung
thời
điểm.
Kể từ
khi
George
W. Bush
nắm
quyền,
Mỹ ưu
tiên cho
các giải
pháp đơn
phương
nhiều
hơn
trong
việc
giải
quyết
các vấn
đề chung
toàn
cầu.
Song
song với
đó là
tăng
cường
khả năng
quân sự
với mục
tiêu
chống
khủng
bố. Tuy
nhấn
mạnh ưu
tiên
chuyển
đổi
phong
cách
lănh đạo
đa
phương
hơn là
đơn
phương,
hợp tác,
thương
lượng
hơn là
gây sức
ép,
chính
phủ của
tổng
thống
Obama
cho đến
nay vẫn
cảm thấy
khó khăn
khi chấp
nhận
tham gia
vào một
cơ chế
giải
quyết đa
phương
trong
bài toán
Biển
Đông.
Một mặt,
quá
tŕnh
này sẽ
ràng
buộc
khung
hành
động
chính
sách,
một mặt
sẽ không
có ư
nghĩa
nếu
không
thuyết
phục
được
Trung
Quốc từ
bỏ quan
điểm
song
phương
hiện nay
cùng
tham
gia.
Tàu
Viking
II do
PetroVietnam
thuê bị
tàu
Trung
Quốc tấn
công
Nếu một
cơ chế
đa
phương
mang
tính
pháp lư
chưa
được
h́nh
thành,
việc
giảm bớt
hiện
diện
quân sự
như chủ
thuyết
"cân
bằng lực
lượng
bên
ngoài"
đề xướng
sẽ dẫn
đến t́nh
trạng
nguy
hiểm.
Khoảng
trống
quyền
lực
không
những
nằm ở
chỗ hiện
nay ở
Đông Á
vẫn chưa
có cường
quốc khu
vực nào
đủ sức
về mặt
quân sự
đối
trọng
với Bắc
Kinh -
dẫu cho
đó là
tiếng
nói từ
Tokyo,
Seoul
hay tất
cả các
nước
ASEAN,
mà c̣n
nằm ở
việc
phân
tầng lợi
ích từ
mối quan
hệ với
Trung
Quốc
khiến
cho một
liên
minh
thống
nhất
cùng
thời
điểm khó
khả thi.
Điểm
mạnh của
việc cân
bằng bên
ngoài
đảm bảo
thu hẹp
ngân
sách về
quốc
pḥng,
thúc đẩy
phát
triển
thế hệ
vũ khí
hiện
đại, tạo
sức mạnh
từ xa,
nhưng
cũng
đồng
nghĩa
với việc
giảm bớt
mức độ
tham gia
cũng như
ảnh
hưởng
trực
tiếp của
nước Mỹ
vào các
hồ sơ
nóng,
điều mà
về lợi
ích của
Mỹ thỏa
măn
trong
ngắn
hạn, cân
nhắc
trong
dài hạn.
Trong tư
thế bá
cường,
sức mạnh
sẽ trở
thành
bạo lực
nếu
không
tồn tại
sự chính
đáng.
Bài toán
làm giới
lănh đạo
Mỹ đau
đầu
nhiều
năm nay
là sự
hiện
diện
"như vị
khách
không
mời".
Nay sự
trỗi dậy
hung
hăng của
Trung
Quốc đă
giúp đáp
số rơ
ràng
hơn. Lựa
chọn giữ
vai tṛ
"người
cân bằng
tại chỗ"
dường
như đang
cùng
chiều
với lợi
ích với
nhiều
nước
trong
vùng.
Kết quả
Đối
thoại
Shangri-
La năm
ngoái và
năm nay
đều cho
thấy mức
độ chấp
nhận sự
hiện
diện của
chính
phủ
Washington
như một
người
cầm
nhịp.
ASEAN và
chính
sách ba
"không"
Một sự
đồng
thuận
của
ASEAN
trong
thời
điểm này
cần phải
vượt qua
những
lực cản
nào? Có
ít nhất
ba
"không"
làm tâm
điểm.
Thứ
nhất,
đồng
thuận
ASEAN
không
phải là
liên
minh
chống
Trung
Quốc. Do
mức độ
phân
tảng về
gắn kết
địa lư,
văn hóa,
chủng
tộc và
đặc biệt
là
thương
mại
kinh tế,
một con
đường
chung
mang tên
ASEAN
liên
quan đến
Trung
Quốc
không dễ
thực
hiện.
Chưa kể
những
quốc gia
không
liên
quan lợi
ích trực
tiếp đến
khu vực
Biển
Đông
(hiện
nay
Myanmar
đă công
khai
theo lập
trường
của Bắc
Kinh),
giữa
những
quốc gia
cùng hội
cùng
thuyền,
việc bẻ
bánh lái
theo
hướng
nào vẫn
là câu
chuyện
hạ hồi
phân
giải.
Không
lâu để
có thể
quên câu
chuyện
chính
phủ
Philippines
chọn cho
ḿnh lối
đi riêng
năm
2004, kư
một thỏa
thuận
với
Trung
Quốc về
khảo sát
địa chấn
chung ở
khu vực
quần đảo
Trường
Sa đang
tranh
chấp.
Góc nh́n
đó, liên
minh
ASEAN về
hồ sơ
Biển
Đông cần
h́nh
thành
trên cơ
sở đảm
bảo lợi
ích tối
thiểu
cho tất
cả các
thành
viên
thông
qua tiêu
chí loại
trừ việc
sử dụng
vũ lực
để giải
quyết
vấn đề
tranh
chấp
trên
toàn bộ
Biển
Đông.
Thứ hai,
đồng
thuận
ASEAN
không
nên quy
định
những
vấn đề
tranh
chấp
trực
tiếp
giữa các
nước
thành
viên.
Tiếp cận
riêng rẽ
về góc
nh́n,
dẫn đến
riêng lẻ
về
phương
thức
hành
động,
nhất là
khi trên
con
thuyền
cùng ra
khơi vẫn
không
phải chỉ
là những
thuyền
viên
đồng
nhất
hoàn
toàn về
lợi ích.
Đừng
quên
rằng,
giữa các
nước
ASEAN
với nhau
vẫn tồn
tại mâu
thuẫn
trong hồ
sơ tranh
chấp chủ
quyền.
Trong
khi
những
thí dụ
gần đây
cho
thấy,
một hợp
tác giữa
các nước
ASEAN
thành
lập một
tiếng
nói
chung là
hoàn
toàn có
thể qua
thỏa
thuận
trong hồ
sơ đăng
kư thềm
lục địa
vào
tháng
5/2009
giữa
Việt Nam
và
Malaysia,
th́
quyết
định của
Philippines
phản đối
cả hồ sơ
của Việt
Nam lẫn
hồ sơ
chung
Việt Nam
-
Malaysia
lên Ủy
ban Ranh
giới
thềm lục
địa Liên
Hiệp
Quốc
(CLCS)
lại chỉ
ra màu
xám c̣n
lại của
bức
tranh.
Một vấn
đề trở
nên cốt
lơi của
ASEAN và
cơ chế
hoạt
động của
tổ chức
này là
sự lệch
pha giữa
chủ
quyền
quốc gia
và tính
"ASEAN
hóa"
trong
quá
tŕnh
h́nh
thành
các
quyết
định dẫn
đến một
lệch pha
khác
trong
việc
thống
nhất lập
trường
chung
trên các
hồ sơ
quan
trọng.
Tàu hải
giám
Trung
Quốc xâm
phạm
vùng đặc
quyền
kinh tế
Việt Nam
, phá
hoại cáp
của tàu
địa chấn
B́nh
Minh 02
của Việt
Nam
Thứ ba,
nếu
"không"
có bước
đi cụ
thể hóa,
"con
đường
ASEAN"
măi chỉ
là lời
nói nằm
trên
giấy.
Sau
những
động
thái gần
đây đánh
động dư
luận về
việc leo
thang từ
phía
Trung
Quốc,
một cái
nh́n
trung
hạn cần
tính
tới. Ba
đích
ngắm
nhắm tới
hội nghị
cấp cao
Đông Á
(East
Asian
Community
- EAC)
sắp tới
do
Indonesia
chủ tŕ
vào
tháng 9.
Một, là
ủng hộ
đề nghị
đưa các
vấn đề
an ninh
địa
chính
trị vào
khung
làm
việc.
Dẫu gọi
tên là
cộng
đồng
kinh tế
hay cộng
đồng
chung,
th́ một
môi
trường
không
xung đột
đóng vai
tṛ tiên
yếu.
Hai, cần
đẩy
nhanh
tiến độ
mở rộng
thêm tổ
chức, cụ
thể là
bỏ phiếu
đồng
thuận
Hoa Kỳ
và Nga
từ tư
cách
quan sát
viên trở
thành
thành
viên
chính
thức. Sự
gắn kết
thành
viên mới
không
chỉ mang
ư nghĩa
của
chính
trị thực
ở quan
điểm cân
bằng lực
lượng,
mà c̣n
tạo cơ
hội để
xác tính
lại
chuẩn
tắc, mục
đích và
viễn
kiến của
tổ chức
đang
hướng
tới. Một
cộng
đồng
hướng
tới ḥa
b́nh và
thịnh
vượng
chung
cho toàn
châu lục
tham
vọng
tŕnh
làng với
thế giới
vào 2015
phải thể
hiện ư
muốn và
có khả
năng
thiết
lập được
cơ chế
dung ḥa
và giải
quyết
mâu
thuẫn
giữa các
nước
thành
viên. Và
đó cũng
là mục
tiêu thứ
ba khi
chuyển
hóa
chuẩn
tắc
thành
khung
pháp lư
mang
tính
ràng
buộc với
việc
khởi
động
ṿng đàm
phán để
tiến tới
Bộ quy
tắc ứng
xử của
các bên
ở Biển
Đông
(COC)
trong
thời
gian
ngắn
nhất.
Lựa chọn
nào cho
Việt
Nam?
Giữa ba
phép thử
trên,
Việt Nam
trong
một tư
thế đặc
biệt,
vừa ảnh
hưởng
lợi ích
trực
tiếp,
vừa có
thể đóng
vai tṛ
thúc đẩy
hay hạn
chế ở
mức độ
tương
đối
những
chuyển
động
trên bàn
cờ. Trực
tiếp qua
thái độ
phản đối
dứt
khoát
với mọi
phép thử
của
Trung
Quốc,
gián
tiếp qua
việc xây
dựng các
biện
pháp cân
bằng và
đối
trọng an
ninh
thông
qua Hoa
Kỳ và
cộng
đồng
chung
ASEAN.
Sự hiện
diện của
Mỹ về
mặt quân
sự đối
với các
nước
trong
khu vực
giữ cho
sợi dây
cân
bằng,
nhưng
kinh
nghiệm
"chơi"
với Mỹ
cũng cho
thấy,
một hợp
tác dựa
vào tiêu
chí lợi
ích sẽ
mang
tính
ngắn hạn
và có
khả năng
bị thay
đổi rất
nhanh v́
chuyển
biến lợi
ích từ
chính
trị đối
nội bên
trong.
Kíp lái
tàu HQ
641
thuộc
Hải đội
413
(vùng D
Hải
quân)
trong
chuyến
ra các
hải đảo
- Ảnh
TTXVN
Một hợp
tác mà
nền tảng
bền vững
vừa dựa
trên lợi
ích
nhưng
cũng vừa
phải
vượt
trên các
yếu tố
lợi ích.
Cho đến
nay, một
"định
chế
cứng" ở
dạng
liên
minh
quân sự,
theo đó,
các nước
ràng
buộc với
nhau
bằng một
cam kết
bảo vệ
an ninh
lẫn nhau
(và có
thể
chống
lại một
đe dọa
đến từ
phe thứ
ba) vẫn
chưa
phải là
lựa chọn
của Việt
Nam .
Một
"định
chế
mềm",
tuy vậy,
vẫn có
thể khả
thi qua
h́nh
thức đối
thoại
chiến
lược về
an ninh
- quốc
pḥng
hay các
mô thức
hợp tác
hải quân
giữa Hoa
Kỳ và
Việt Nam
thời
gian gần
đây. Câu
hỏi đặt
ra sẽ
nằm ở
việc
thúc đẩy
mô h́nh
liên
minh này
tới đâu
thông
qua xúc
tiến các
định chế
hóa.
Song
phương
trong
mối quan
hệ đối
tác
chiến
lược, đa
phương
trong
việc
thiết
lập
khung cơ
chế an
ninh tập
thể, sao
cho lợi
ích của
hai bên
thuận
chiều.
Định chế
hóa một
lập
trường
chung về
hồ sơ
Biển
Đông
giữa các
nước
ASEAN
cũng là
bước đi
ngoại
giao
quan
trọng mà
Việt Nam
cần ủng
hộ.
Hiện
nay,
đoàn kết
nội khối
đang cần
một lực
đẩy mà
động
thái
càng
ngày
càng leo
thang
gần đây
từ Trung
Quốc có
thể là
chất xúc
tác. Ra
khơi
trên
cùng một
chiếc
thuyền,
xây dựng
ḷng tin
giữa
những
thuyền
viên với
nhau
phải
nghĩ về
đại cuộc
trong
một
khung
cảnh
rộng lớn
hơn.
Nhiều đề
nghị đă
nhấn
mạnh một
COC
trước
hết giữa
các nước
ASEAN
với nhau
làm nền
tảng mở
đường.
Một mặt
thể hiện
quyết
tâm
chính
trị về
một cộng
đồng
ASEAN
thống
nhất,
một mặt
là bước
đầu tiên
đánh giá
mô h́nh
giải
quyết
xung đột
vùng với
ASEAN
như một
lực đẩy
trung
tâm
trong
cấu trúc
an ninh
khu vực.
Vừa là
người bị
đặt
trước
phép
thử,
cũng là
người
phải
giải
quyết
nó, Việt
Nam đang
đứng
trước
ngă ba
đường.
Một
chiến
lược
tổng thể
cho Biển
Đông hơn
bao giờ
hết cần
lập tức
đặt lên
bàn nghị
sự...
Theo
Doanh
nhân Sài
G̣n Cuối
tuần
*****
Mưu đồ
bành
trướng
của
Trung
Quốc
Thanh
Trúc,
phóng
viên đài
RFA -
2011-06-20
T́nh
h́nh
biển
Đông nói
chung và
hải phận
Việt Nam
trong
vùng
biển này
nói
riêng,
vẫn nóng
sốt v́
những
hành
động uy
hiếp răn
đe của
Trung
Quốc.
Báo chí
Trung
Quốc đưa
những
h́nh ảnh
chặn bắt
tàu đánh
cá Việt
Nam -
Screen
capture
Trước
phản ứng
của quốc
tế và
của Việt
Nam ,
liệu
Bắc Kinh
có ngưng
thái độ
nước lớn
cố hữu
hay tiếp
tục
giương
nanh
vuốt?
Ngoài
chuyện
chủ
quyền và
dầu khí
trên
biển
Đông th́
c̣n điều
ǵ tiềm
ẩn đằng
sau mối
đe dọa
của
Trung
Quốc?
Thanh
Trúc có
bài t́m
hiểu như
sau:
Chiến
lược và
âm mưu
thâm độc
của Bắc
Kinh
Trung
Quốc
lộng
hành với
Việt Nam
là
chuyện
đă lâu.
Gần đây
họ ra
mặt một
cách
công
khai,
dùng
chính
những
tàu của
hải
quân,
được gọi
là tàu
hải
giám,
đến can
thiệp
vào
trong
lănh vực
của Việt
Nam .
Báo chí
ở trong
và ngoài
nước nói
có thể
do vấn
đề dầu
khí mà
Trung
Quốc
đang
cần, vấn
đề kỹ
nghệ hóa
đất nước
mà họ
bắt buộc
phải nắm
tất cả
những
kho dầu
khí ở
biển
Đông. Đó
là lư do
về kinh
tế mà
nhiều
người
nói đến.
Nhưng
tôi nghĩ
đó không
phải là
lư do
chính.
Đó là
lời tiến
sĩ Trần
Văn
Đoàn,
giáo sư
Viện Đại
Học Quốc
Lập Đài
Loan,
cũng
từng là
giảng sư
Đại Học
Bắc
Kinh. Là
người am
hiểu khá
nhiều về
Trung
Quốc
trong
tương
quan với
Đài Loan
và các
nước nhỏ
thuộc
khu vực
Đông Nam
Á, trong
đó có
Việt
Nam,
điều
giáo sư
Trần Văn
Đoàn
phân
tích và
góp ư ở
đây là
đào sâu
khía
cạnh tâm
lư nước
lớn mà
Trung
Quốc
thường
chủ
trương:
Họ
tiếp tục
cái
chính
sách cũ,
gọi là
cái lối
nh́n hay
cái tâm
lư của
Trung
Quốc với
các nước
Đông Nam
Á, cái
chiến
thuật
bành
trướng
của họ.
“Cách
thứ nhất
là thúc
đẩy
những
người
Trung
Quốc di
dân ra
các nước
lân cận
để lâu
dần biến
đó
thành
vệ tinh
của
Trung
Quốc.
Cách thứ
hai, họ
t́m cách
lấn từng
tấc đất
từng tấc
biển
một”.
GS.Trần
Văn Đoàn
Để thực
hiện
chính
sách
bành
trướng,
giáo sư
Trần Văn
Đoàn dẫn
giải,
Trung
Quốc áp
dụng ba
cách:
Cách thứ
nhất là
thúc đẩy
những
người
Trung
Quốc di
dân ra
các nước
lân cận
để lâu
dần biến
đó
thành
vệ tinh
của
Trung
Quốc.
Cách thứ
hai, họ
t́m cách
lấn từng
tấc đất
từng tấc
biển
một.
Trong
quá khứ,
họ đă
bành
trướng
nước
Trung
Hoa từ
vùng
Hoàng Hà
cho đến
giờ rộng
quá
ngoài
Mông Cổ
đến Tây
Tạng
biên
cương và
tận dưới
Việt Nam
và có
thể sẽ
đi xa
hơn nữa.
Bước thứ
ba là họ
muốn
bành
trướng
theo
kiểu
kinh tế
của
người
Mỹ. Tức
là nếu
họ nắm
được
kinh tế
của
những
nước
chung
quanh
th́ họ
có thể
thống
trị đất
nước đó.
Lấy thí
dụ điển
h́nh như
Hongkong,
tất cả
thực
phẩm
nước
uống
điện lực
đều từ
Trung
Quốc qua
hết,
thành
bây giờ
Trung
Quốc
nói
Hongkong
phải
nghe.
Họ cũng
dùng
chiến
thuật
như vậy
với Đài
Loan.
Kinh tế
Đài Loan
gần 34%
lệ thuộc
vào
Trung
Quốc và
tương
lai sẽ
c̣n
nhiều
hơn.
Tương tự
ở Việt
Nam, bây
giờ có
thể nói
kinh tế
Việt Nam
đă lệ
thuộc
vào
Trung
Quốc rất
nhiều.
Và trong
thời
gian
tới, nếu
không
để ư,
kinh tế
của
chúng ta
sẽ bị
Trung
Quốc
lũng
đoạn, và
lúc đó
Việt Nam
khó thể
có độc
lập
được.
“họ muốn
bành
trướng
theo
kiểu
kinh tế
của
người
Mỹ. Tức
là nếu
họ nắm
được
kinh tế
của
những
nước
chung
quanh
th́ họ
có thể
thống
trị đất
nước đó.
Lấy thí
dụ điển
h́nh như
Hongkong,
tất cả
thực
phẩm
nước
uống
điện lực
đều từ
Trung
Quốc qua
hết,
thành
bây giờ
Trung
Quốc
nói
Hongkong
phải
nghe”
GS.Trần
Văn Đoàn
Về mặt
chính
trị của
Trung
Quốc,
điểm
quan
trọng từ
đó phát
xuất
thái độ
nước lớn
uy hiếp
nước nhỏ
mà giáo
sư Trần
Văn Đoàn
vạch ra,
là nếu
trong
nước có
những
vấn đề
đặc biệt
th́ Bắc
Kinh sẽ
gây hấn
với các
quốc gia
lân cận,
dùng ảnh
hưởng ở
bên
ngoài để
đàn áp
hoặc để
giảm nhẹ
mức
nghiêm
trọng ở
bên
trong:
Lấy thí
dụ rất
có thể
là ông
Tập Cận
B́nh
được đặt
ra làm
tổng bí
thư cho
năm tới.
Để có
được
quyền
hành th́
phải nắm
được
quân
đội.
Chính v́
đó quân
đội đă
áp lực
Tập Cận
B́nh để
tăng
cường
thế lực
của họ.
Đấy là
phương
pháp
tăng
cường
hải quân
của họ
và để
tăng
cường
hải quân
họ bắt
buộc
phải gây
hấn với
nước nhỏ
để thí
nghiệm.
Nếu
thắng họ
sẽ được
nhiều
tiền
hơn, nếu
thua họ
cũng sẽ
được
nhiều
tiền hơn
để canh
tân. Đó
là điều
Đặng
Tiểu
B́nh đă
làm năm
1979 đối
với Việt
Nam .
Khi đó
nếu đánh
Việt Nam
mà thắng
th́ ông
lấy đó
để dẹp
tan phe
cuối
cùng của
nhóm Tứ
Nhân
Bang.
Bản đồ
các quốc
gia
tranh
chấp
vùng
Biển
Đông -
Source
us-china-institude
Trường
hợp thua
th́ ông
vẫn đổ
lỗi được
cho bọn
cách
mạng văn
hóa đă
làm
Trung
Quốc tê
liệt. Cả
hai ông
ta đều
thắng
cả. Tôi
nghĩ lần
này ở
biển
Đông y
hệt như
vậy, Tập
Cận B́nh
lên rất
có thể
dùng
phương
pháp
này. Nếu
thắng
được
Việt Nam
và các
nước
Đông Nam
Á, ngay
cảnh cáo
được cả
Nhật
nữa, th́
uy thế
của
Trung
Quốc rất
lớn,
nhóm Tập
Cận B́nh
sẽ thành
ông vua
mới thay
thế Hồ
Cẩm Đào.
Nếu
không
thắng
ông sẽ
nói ở
trong
nước
không có
đoàn
kết, ông
t́m cách
đập tan
nhóm
phản đối
để có uy
quyền
trong
tay.
Có hay
không có
cuộc
chiến
Biển
Đông
Dưới mắt
ông Trần
văn
Đoàn,
trong
vấn đề
biển
Đông,
mới nhất
là hôm
thứ Năm
Trung
Quốc huy
động một
tàu tuần
lớn đến
khu vực
tranh
chấp,
trong
lúc vẫn
cam kết
là chỉ
muốn duy
tŕ hoà
b́nh và
ổn định
trong
khu vực,
th́
chuyện
cần được
nh́n và
được
hiểu
theo văn
hóa của
Trung
Quốc:
Cái văn
hoá của
Trung
Quốc là
vấn đề
đất và
nước,
làm thế
nào để
có càng
nhiều
đất càng
nhiều
nước,
biểu
tượng sự
giàu có
và thành
công của
Trung
Quốc.
Thành
thử xưa
nay họ
luôn
theo
chiến
lược đi
hai
bước,
nếu bị
quốc tế
cảnh cáo
họ sẽ
lùi một
bước.
“Cái văn
hoá của
Trung
Quốc là
vấn đề
đất và
nước,
làm thế
nào để
có càng
nhiều
đất càng
nhiều
nước,
biểu
tượng sự
giàu có
và thành
công của
Trung
Quốc.
Thành
thử xưa
nay họ
luôn
theo
chiến
lược đi
hai
bước,
nếu bị
quốc tế
cảnh cáo
họ sẽ
lùi một
bước”.
GS.Trần
Văn Đoàn
Đó cũng
là chiến
thuật mà
bộ
trưởng
quốc
pḥng
Trung
Quốc,
ông
Lương
Quang
Liệt, sử
dụng tại
hội nghị
Đối
Thoại An
Ninh ở
Singapore
tuần
trước:
Ông Liệt
trong
bài diễn
thuyết
tại
Singapore
đă nói
tới hai
mươi bảy
lần chữ
“ḥa
b́nh”.
Đây chỉ
là một
bước lùi
của
Trung
Quốc mà
thôi. Đó
là vấn
đề văn
hóa cái
bản chất
của
người
Trung
Quốc.
Vấn đề
thừ hai,
trong
thế giới
mới hôm
nay
chúng ta
phải
ngồi vào
bàn hội
nghị để
giải
quyết.
Đó là
cái nh́n
của
người
phương
Tây, cái
nh́n khi
mà cân
bằng lực
lượng
với
nhau.
Nhưng
khi với
một lực
lượng
quá lớn
th́ họ
sẽ không
ngồi vào
bàn hội
nghị, và
nếu có
ngồi vào
bàn th́
họ sẽ
t́m cách
áp đặt.
Họ sẽ
cùng đàm
phán và
cùng một
lúc gọi
là lấn
đất của
người
khác.
Khi mọi
người
phản đối
họ có
thể lùi
một
bước.
Lùi lại
một bước
th́ họ
đă chiếm
được một
bước
rồi.
Thành
thử
trong
thế giới
hôm nay
họ sẽ
ngồi vào
bàn hội
nghị
nhưng họ
sẽ t́m
cách để
thắng.
Đó là
tính
cách của
Trung
Quốc.
Hôm thứ
Hai vừa
qua, trả
lời câu
hỏi của
đài Á
Châu Tự
Do về sự
kiện
Việt Nam
tập trận
bắn đạn
thật tại
nơi cách
vùng
tranh
chấp
Hoàng Sa
khoảng
250 km,
ông Greg
Autry,
đồng tác
giả
quyển
sách
Death By
China
(Thần
Chết
Trung
Quốc),
cho rằng
trong
vấn đề
biển
Đông
Trung
Quốc
chẳng
làm ǵ
cả ngoài
việc
dương
oai và
thể hiện
sức mạnh
của
ḿnh, v́
thế phản
ứng của
Việt Nam
là hoàn
toàn hợp
lư:
Đây là
cơ hội
để Việt
Nam trực
tiếp gởi
thông
điệp đến
Trung
Quốc,
luôn có
tư tưởng
rằng họ
có thể
làm bất
cứ điều
ǵ mà
không
cần biết
cộng
đồng
quốc tế
phản ứng
thế nào.
Được hỏi
về điều
này,
nhất là
câu hỏi
thực sự
Trung
Quốc có
tiềm
năng
nước lớn
để uy
hiếp lấn
chiếm và
đe dọa
các nước
nhỏ
chung
quanh,
nhất là
Việt Nam
, hay
không,
giáo sư
Trần Văn
Đoàn
nhận
định:
Cho
rằng
Trung
Quốc có
tiềm
năng th́
chỉ là
bề mặt
thôi.
Tôi
không
nghĩ là
Trung
Quốc có
tiềm
năng.
Thứ nhất
Trung
Quốc
phải lo
giải
quyết
vấn đề
một tỷ
ba trăm
triệu
dân,
trong đó
c̣n đói
kém có
thể từ
ba trăm
đến bốn
trăm
triệu
người.
Cứ tưởng
tượng ba
bốn trăm
triệu đó
nỗi loạn
lên th́
xem cái
ông
Trung
Quốc có
đủ tiềm
năng
giải
quyết
vấn đề
đó không.
“người
Trung
Quốc bên
ngoài
rất đoàn
kết bên
ngoài
nhưng
thực tế
bên
trong họ
chia rẽ
khi noí
đến
quyền
lực đến
tài sản
vấn đề
cướp đất
của nhau.
Đó là
cái
thường
xảy ra ở
Trung
Quốc và
cả Việt
Nam,
không
giống
bên Âu
Châu hay
Mỹ Quốc”.
GS.Trần
Văn Đoàn
Bây giờ
vấn đề
quan
trọng
nhất của
Trung
Quốc là
t́m cái
lực cái
đánh
bóng bên
ngoài để
làm cho
những
người
nghèo
đói thoả
măn cái
tinh
thần yêu
nước để
quên cái
nghèo
đói của
họ đi.
Nhưng mà
cái đó
chỉ nhất
thời.
Khi cái
tạm thời
qua đi
họ phải
trở lại
giải
quyết
cái
nghèo và
lúc đó
là vấn
đề nhức
đầu của
Trung
Quốc.
Điểm thứ
hai
người
Trung
Quốc bên
ngoài
rất đoàn
kết bên
ngoài
nhưng
thực tế
bên
trong họ
chia rẽ
khi noí
đến
quyền
lực đến
tài sản
vấn đề
cướp đất
của
nhau. Đó
là cái
thường
xảy ra ở
Trung
Quốc và
cả Việt
Nam,
không
giống
bên Âu
Châu hay
Mỹ Quốc.
Tôi
không sợ
cái tiềm
năng của
Trung
Quốc như
bên
ngoài
thường
thổi
phồng.
Theo
giáo sư
Trần Văn
Đoàn, dù
được coi
là một
cường
quốc
kinh tế
trên thế
giới,
dầu cố
t́m cách
bành
trướng
thế lực
quân sự
và dương
oai diểu
vơ với
lân
bang,
Trung
Quốc
thực sự
không
đáng sợ
bởi vấn
đề khó
khăn
phải đeo
mang là
một tỷ
ba trăm
triệu
dân:
Để giải
quyết
một tỷ
ba trăm
triệu
dân th́
kinh tế
của họ
ngày nay
vẫn c̣n
nghèo và
chưa đủ
để giải
quyết
vấn đề
đó.
Thế
nhưng có
một cuộc
chiến
tranh
khác,
một cuộc
chiến
thầm
lặng mà
Việt Nam
và các
nước
Đông Nam
Á cần
lưu ư,
ông Trần
Văn
Đoàn
kết
luận, đó
là chiến
thuật
lấn đất
để chen
dân vào
bên cạnh
chiến
thuật
lũng
đoạn
kinh tế
bằng
hàng hoá
Trung
Quốc.
File:
ITN-062011-TQLL-Quoc
Te va
Bien
Dong.doc
|