|
T̀M HIỂU NGÀY ‘SINH NHẬT’ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ
_______________________________________________________________
(Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Tại Hoa Kỳ, cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đ́nh và nhà hàng
bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như trước cửa nhà để chuẩn bị vào
mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và Năm Mới sắp tới. Một cách đơn giản
chúng ta thường hiểu Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mừng ‘Sinh Nhật’
(Birthday) của Chúa Giêsu (Thí dụ, ngày 25 tháng 12, 2008 là ngày sinh
nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu). Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ
nầy, chúng ta thấy có những điều không hẳn đơn giản như vậy.
Một chút lịch sử ơn cứu độ.
Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc, sau khi tổ
tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngă phạm tội, liền
bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế 3:23). Tuy nhiên v́ "Thiên
Chúa đă dựng nên con người theo h́nh ảnh của Chúa" (ST 1:27), Ngài không
để con người phải án phạt đời đời, nên Ngài đă hứa ban một Đấng Cứu Thế
đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu của Ngài là
‘Đấng Cứu Tinh’ (Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái ‘Messiah’ có
nghĩa là ‘Đấng được xức dầu’. Theo thói tục của người Do Thái th́ ai
được chọn làm ‘Vua’ làm ‘Tiên Tri’ (Prophet) làm thầy ‘Tư Tế’ đều được
phong chức chính thức bằng việc xức dầu (thánh) (dầu ô liu) trên đầu.
Danh từ ‘Messiah’ chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là ‘Christos’. Danh từ
‘Christos’ chuyển sang tiếng Latinh là ‘Christus’ và sang tiếng Pháp,
tiếng Anh là ‘Christ’, Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của
Công Giáo và các sách đạo đức) chuyển dịch là ‘Kitô’ (hay Kytô).
Theo Do Thái Gíáo th́ Đấng ‘Messiah’ (Kitô) chưa tới cứu độ Dân Ngài.
Hàng năm người Do Thái vẫn đến bên bức ‘Tường Khóc’ để cầu nguyện xin
‘Đấng Cứu Độ’ đến.
Theo Kitô Giáo th́ ‘Đấng Kitô’ đă Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra th́
được đặt tên là ‘Giêsu’ (Jesus) theo như lời Sứ thần truyền tin cho Đức
Maria (Luca 1:31 và 2:21). Danh từ ‘Giêsu’ theo nguyên ngữ Do Thái có
nghĩa là ‘Đấng Cứu Độ’ (Savior). V́ Chúa ‘Giêsu’ chính là ‘Đấng Kitô’
Thiên Chúa đă hứa, nên tên Ngài thường được gọi là ‘Giêsu Kitô’. Thánh
Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu ‘Giêsu Kitô’.
Chúng ta cũng nên lưu ư là vào thời xưa một người chỉ có ‘tên gọi’, chưa
có ‘tên họ’ và ‘tên đệm’; nhưng có những ‘tên hiệu’ ghép vào ‘tên gọi’
trong một số trường hợp, nhất là trường hợp của các vua chúa hay các
‘Danh Nhân’.
Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu cũng được gọi là ‘Emmanuel’ hay ‘Immanuel’ (
Luca 1:23). Danh từ ‘Emmanuel’ trong tiếng Do Thái có nghĩa là ‘Thiên
Chúa ở cùng chúng ta’. Danh hiệu ‘Emmanuel’đă được Tiên Tri Isaia
(740-687 B.C.) nói đến ( Isaia 7:14).
Chúa Giêsu sinh ra năm nào?
Năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người được kể là năm thứ nhất theo lịch
chung chúng ta dùng hiện nay; như thế sinh nhật của Ngài đă chia đôi
lịch sử nhân loại.
Theo lịch sử Thánh Kinh th́ từ ‘tạo thiên lập địa’ đến năm Chúa Giáng
Sinh được gọi là ‘Thời Kỳ Cựu Ước’ và từ năm Chúa Giáng Sinh trở về sau
được gọi là ‘Thời Kỳ Tân Ước’. Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay
th́ trước thời Chúa Giáng Sinh gọi là trước ‘Công Nguyên’ (thường kư
hiệu là B.C. ‘Before the birth of Christ’) và từ năm Chúa Giáng Sinh cho
đến ngày ‘tận thế’ th́ gọi là sau ‘Công Nguyên’ (thường kư hiệu là A.D.
‘Anno Domini’ ‘Năm của Thiên Chúa’).
Như vậy, thí dụ ngày 25 tháng 12 năm 2008 là ngày chúng ta mừng Sinh
Nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên v́ các nhà làm lịch lúc đầu
tính lầm nên năm Chúa Giêsu giáng sinh bị lệch đi mất 6 hoặc 7 năm. Nếu
tính đúng th́ năm 2008 sẽ phải là năm 2014 (hoặc 2015). Nói một cách
khác đơn giản hơn th́ vào năm 2008 này tuổi của Chúa Giêsu đă là 2014 (hoặc
2015).
Lư do của việc ‘tính lầm’ nầy là v́ vào thời xưa người ta chưa có lịch
chung như ngày nay, nên thường tính năm theo triều đại của các vua (như
‘Đời Vua Hùng Vương thứ 18’... chẳng hạn) hoặc theo một biến cố lịch sử
nào đó ( như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây ‘Vạn Lư Trường Thành’ chẳng
hạn). Các Thánh Sử khi viết sách ‘Phúc Âm’ (hay ‘Tin Mừng’) cũng dùng
niên hiệu các vua cùng với những biến cố lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh
Matthêu viết: ‘Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua
Hêrôđê trị v́... ( Matthêu 2:1... ). Thánh Luca viết: ‘ Vào thời Hoàng
Đế Augustô ra ‘chiếu chỉ kiểm tra dân số’... Khi Giuse và Maria đang ở
Bêlem, th́ Maria đến ngày sinh con... ( Luca 2:1... )
Khi Chúa Giáng Sinh th́ nước "Do Thái" (vùng Palestina) đang dưới quyền
‘đô hộ’ của Đế Quốc Rôma. Lúc đó Đế Quốc Rôma đang cai trị nhiều vùng
rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rôma bấy giờ là Augustô.
C̣n vua Hêrôđê chỉ là một ‘tiểu vương’ thay mặt hoàng đế Rôma cai trị
miền Giuđêa (phiá nam Palestina) và nhà vua không phải là người Do Thái.
Vùng đất Palestina (nơi người Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền:
Galilê (Bắc), Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa
Giáng Sinh và thủ đô Giêrusalem nằm phiá nam, thuộc Giuđêa. Vua Hêrôđê
này thường được gọi là vua ‘ Hêrôđê Cả’ (Herod the Great) để phân biệt
với Hêrôđê ‘Antipa’ là con. Vua ‘ Hêrôđê Cả’ là người đă tiếp kiến các
nhà đạo sĩ phương đông đến triều yết để hỏi đường đến chiêm bái Vị Vua
Mới Sinh (Matthêu 2:1...). Cũng nhà vua nầy đă ra lệnh ‘giết các hài nhi
mới sinh từ hai tuổi trở xuống...’ (Matthêu 2:16...). V́ thế Thánh Giuse
phải đưa ‘Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập (Matthêu 2, 13...). Theo
các sử gia th́ nhà vua này chết vào năm 4 trước Công Nguyên, tức là sau
khi Chúa Giêsu sinh ra chừng 3 hay 4 năm (v́ Chúa Giêsu sinh ra vào năm
6 hay 7 trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm năm, như đă nói trên).
Khi Thánh Giuse nghe tin nhà vua đă chết, liền đem Đức Maria và Chúa Hài
Nhi trở lại quê hương (Matthêu 2,19...) (Như vậy là Thánh Giuse, Mẹ
Maria và Chúa Hài Nhi Giêsu cũng đă phải trải qua một thời ‘di cư’ sống
nơi ‘đất khách, quê người’ như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).
Hêrôđê Antipa (Con của Hêrôđê Cả) là người đă ra lệnh xử trảm Thánh
Gioan Tiền Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đă ‘’Rất mừng
rỡ khi gặp mặt Chúa Giêsu...’’ (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị bắt và
đang bị xử án.
Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma Augustô, th́ Chúa Giêsu sinh ra
vào ‘đời Hoàng Đế Augustô thứ 20’.
Thực ra người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh ra là năm I để bắt đầu
Công Nguyên là ông Diônisiô (khoảng năm 556) đă tính lầm năm sinh của
Chúa, v́ ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma và tính là Chúa giáng
sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi thành lập thành Rôma) , rồi
ông lấy năm 754 là năm I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và
các học giả Kinh Thánh nghiên cứu lại các thời đại Hoàng Đế Augustô và
vua Hêrôđê Cả mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh ra sớm hơn; v́ thế, Chúa
Giêsu bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và cũng v́ thế mừng sinh nhật cúa Chúa
năm 2008 chính ra đă là năm 2014 (hay 2015).
Tóm lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh.
+Cách thời của Abraham: 21 thế kỷ;
+Cách Maisen với công cuộc xuất hành khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
+Cách thời bà Ruth và các thẩm phán: 11 thế kỷ;
+Cách thời vua David được xức dầu phong vương: một ngàn năm;
+Cách năm đại hội Olympics đầu tiên: 776 năm (Đại Hội thứ 194);
+Khoảng 747 năm sau khi thành lập Thành Rôma.
(Qúy vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về Kinh Thánh
hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh Tân Ước trong các bản dịch Kinh
Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ
Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American Bible; hoặc trong Bible de
Jerusalem).
Chúa Giêsu sinh ra ngày nào?
Đọc tiểu sử của các ‘vĩ nhân’ trên thế giới thời xưa, chúng ta thường
không thấy nói đến ngày sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC) hay
Platon (khoảng 428-348 BC) v.v... Ngay các cụ người Việt Nam chúng ta
bây giờ, nhiều vị cũng không nhớ ‘ngày sinh, tháng đẻ’ của ḿnh; nhiều
cụ chỉ nhớ là tuổi‘Mùi’ hay tuổi ‘Th́n’. Ngay cả ngày tháng năm sinh của
các cụ trên giấy khai sinh cũng không đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa
Giêsu cũng không được ghi lại đầy đủ trong các sách Phúc Âm (Tất nhiên
Chúa Giêsu cũng không có giấy khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)
Nhưng tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25 tháng 12 hằng năm?
Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hửu chỉ họp nhau để kỷ niệm việc
Chúa Giêsu đă chịu đau khổ, đă chịu chết và đă sống lại. Đặc biệt tụ họp
vào ngày thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cỏi chết,
Gioan 20,1...) và gọi ngày này là ‘Chúa Nhật’. Việc cử hành phụng vụ này
gọi là ‘Nghi Lễ Bẻ Bánh’ (ư nói đến việc cử hành nghi lễ ‘Thánh Thể’) (Tông
Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...). Trong những cuộc ‘họp mặt’ này, các Kitô
hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ t́nh thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau
cầu nguyện và dự ‘Lễ Thánh Thể’ (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các
‘Thánh Đường’, nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay nơi nào có
thể được, như tại ‘hành lang Salomon’ (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc ‘Cử
Hành’ này cũng không được đều đặn, v́ ngay từ lúc đầu các Kitô đă bị
bách hại và xua đuổi. Đọc sách ‘Tông Đồ Công Vụ’ (The Acts of Apostles),
ta thấy rơ điều này: trong khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao
giảng ‘Tin Mừng t́nh thương’ của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống,
th́ họ cũng luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại; v́
‘bóng tối’ luôn thù nghịch ‘Ánh Sáng’. Những người sống theo ‘thế gian’
th́ thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của họ! Tất nhiên
‘Thầy’của ḿnh là Chúa Giêsu Kitô đă bị thù ghét, bị bắt, bị hành hạ và
bị giết nhục nhă trên thánh giá, th́ các môn đệ của ‘ Thầy’qua các thế
hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách khác. Trong ba thế kỷ đầu th́
các cuộc bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa
Giêsu và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc
Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức ‘Bảo Vệ Nhân Quyền’ hay ‘Bảo
Vệ Tự Do Tôn Giáo’, nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các
tín hửu và các vị lănh đạo tôn giáo của họ, bất kể ở các chức vụ nào.
Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, Thánh Phaolô và các Thánh Tông Đồ
đều tử đạo, trừ Thánh Gioan th́ bị lưu đày cho đến chết. Các vị Giáo
Hoàng tiếp theo cũng như các thành phần trong Giáo Hội đều bị xua đuổi,
bị bắt, bị tù đày và bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nêron).
Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lănh đạo và các tín hữu tiếp tục giữ
vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và cử
hành nghi lễ ‘Thánh Thể’ bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi
và nâng đỡ lẩn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế. (Xin
xem thêm về chuyện các ‘Hang Toại Đạo’ ‘Catacombs‘ tại Rôma ngày xưa).
Cho măi đến năm 313, khi một Hoàng Đế Rôma có tên là Constantinô Đại Đế
(Constantine ‘The Great’, 280-337, theo đạo Công Giáo , Mẹ là Thánh
Helene) kư hiệp ước Milan (Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn
giáo, lúc đó Giáo Hội mới được hưởng một thời kỳ an-b́nh (Paix de
L’Eglise) và lúc đó, các Kitô hửu mới được hưởng chút tự do để thờ
phượng Chúa và các Thánh Đường được xây cất, các buổi ‘họp mặt’ cầu
nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành ‘Lễ Thánh Thể mới được thường
xuyên hơn. Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa Giáng
Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc
mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô
hữu, khi đă được hưởng thời gian an b́nh để sống đạo, liền nghĩ đến việc
hướng về quê hương của Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem
và hành hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh
tại Bêlem vào năm 330.
V́ ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rơ ràng trong các văn kiện lịch
sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đă chọn một ngày thích
hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông chí (winter solstice), ngày
ngắn nhất đă qua và ánh sáng lại trở lại... và v́ thế các dân tộc Trung
Đông thời cổ hay mừng ‘ngày ánh sáng’ vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn
thánh hóa ngày này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh ‘Trời
Đất Giao Hoà’. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách
lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa xuống trần để giao hoà với nhân
loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm ‘Preaching the
Lectionary’ của R. H. Fuller). Đây chỉ là một việc làm theo ‘thuận tiện’,
tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam th́ không có thói quen mừng ngày sinh
nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng vào dịp Tết); nhưng đến Hoa Kỳ, giới
trẻ thích sống theo văn hóa địa phương, đă có thói quen mừng‘sinh nhật’,
và cũng muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ
trong gia đ́nh. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức của
ḿnh, đă chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe cha mẹ nói là
ḿnh sinh vào dịp tháng tám mưa băo, liền chọn một ngày trong tháng 8.
Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa mùa gặt (ở ngoài bắc th́ vào
tháng 5) nên chọn một ngày vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số
vị trong gia đ́nh cũng không thể đúng ngày; nhiều gia đ́nh có chồng con
mất tích trong cuộc chiến, khi biết chắc là đă chết, liền chọn một ngày
để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...) Ông cụ trong
gia đ́nh chúng tôi, ngày xưa hoạt động cho Quốc Dân Đảng, khi Việt Minh
nổi lên, họ mời đi họp để ‘cộng tác làm việc cứu quốc’ và từ ngày đó là
biệt tích luôn. Sau đó gia đ́nh biết chắc đă chết, nhưng không biết chết
làm sao và vào ngày nào, nên đă chọn ngày ‘rời gia đ́nh’ để con cháu
‘khói hương’ kính nhớ.
V́ ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực theo
lịch sử, nên thường có những ư kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17
tại Anh Quốc, những người ‘Thanh Giáo’ (Puritans) đă nổ lực để yêu cầu
xóa bỏ việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nổ lực đều thất
bại, và việc mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục
ở Anh Quốc cũng như khắp nơi trên thế giới. Hơn nửa, việc mừng lễ Giáng
Sinh của Chúa không phải chỉ đơn thuần mừng ngày ‘Sinh Nhật’ của Chúa,
mà c̣n có ư nghiă thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín
hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. V́
thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn bị lễ Giáng Sinh, gọi là ‘Mùa Vọng’
(ngày xưa gọi là ‘Mùa Áp’) (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu
niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là ‘Mùa Thường Niên I’, rồi
đến ‘Mùa Chay’ (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi
đến ‘Mùa Thường Niên II’ kéo dài đến ‘Mùa Vọng’ cho một niên lịch phụng
vụ mới.
Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9 tháng, Giáo
Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là ‘Lễ Truyền Tin’ (Annunciation)
để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria biết Thiên
Chúa đă chọn Ngài làm người được diểm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu Thế...
Và Đức Maria đă ‘Xin Vâng’ (Luca 1, 26...). Đây chính là giờ phút rất
quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút ‘Trời Đất Giao Hoà’, ‘Ngôi
Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gioan 1,14). Chính v́
thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen nguyện ‘Kinh Truyền Tin’ vào ba
lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều. Khi nghe tiếng ‘Chuông
Nguyện’ mọi tín hữu đều ngưng các công việc để nguyện ‘Kinh Truyền Tin’
mà nhớ đến giây phút quan trọng này: ‘Và Ngôi Lời đă nhập thể trong ḷng
Đức Trinh Nữ Maria.’ Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đă sáng
tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút ‘huyền nhiệm’nầy;
đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài ‘Theo Tiếng Thiên Thần xưa
Kính Chào’ của Hoàng Diệp, ‘L’Annonce faite à Marie’’ của Paul Claudel (văn
hào Pháp).
Ngày nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ ‘No-en’ ‘Noel’) càng ngày càng
lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc ở các vùng hẻo lánh, và ngay cả
các nước c̣n đang dưới chế độ ‘Cộng Sản’ như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam,
Bắc Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng
tiếc là ngày nay người ta đă ‘thương mại hóa’ dịp lễ này mà làm giảm đi
phần nào ư nghĩa thiêng cao cả. Tuy nhiên điều ‘lạm dụng’ đó cũng không
thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ đích thực trong ḷng những người thành
tâm thiện chí (Abusus non Tullit Usum) và họ được hưởng ‘ơn phúc lộc’ an
b́nh trong tâm hồn và trong gia đ́nh họ, như lời các Thiên Thần hát mừng
trong đêm Chúa Giáng Sinh:
‘Vinh Danh Thiên Chúa trên Trời,
B́nh an dưới thế cho người thiện tâm!’
Kính chúc quí vị được hưởng nhiều ơn phúc lộc của Chúa trong dịp lễ
Giáng sinh này, và những ơn phúc đó sẽ tràn lan sang Năm Mới, đem đến
b́nh an thật của Chúa đến tâm hồn và gia đ́nh mỗi người, cũng như cho
toàn thể thế giới và trên quê hương Việt Nam chúng ta.
|
|