|
(Theo K. Rahner,
Dieu Dans Le Nouveau Testament - S.J., Desclée de Brouwer
1968)
Lm.
Giuse Nguyễn Đức Cường
I. DẪN NHẬP
A. MỘT VÀI LƯU Ư
1. Ư niệm Thiên
Chúa ngoài và trong Kitô-giáo
Nói chung, tôn giáo,
triết học ngoài Kitô-giáo thời Tân Ước cho rằng thế giới có một nguyên
lư tối hậu. Con người có thể nhận biết nguyên lư này từ thế giới với lư
trí của ḿnh.
Kitô-giáo khẳng
định : Thiên Chúa là Đấng duy nhất, cá vị, siêu việt, nguyên lư và cứu
cánh tối hậu của thế giới. Con người có thể nhận biết Thiên Chúa qua lư
trí và qua Mạc Khải, hay nói khác đi, có thể có một nhận biết tự nhiên
về Thiên Chúa và một nhận biết siêu nhiên nhờ mạc khải. Mạc khải không
những xác nhận những ǵ đúng cách tự nhiên nơi các tôn giáo, triết học
ngoài Kitô-giáo, mà c̣n cho con người biết những điều về Thiên Chúa,
hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng của trí tuệ tự nhiên.
Kitô-giáo bác bỏ
mọi h́nh thức thần hóa vũ trụ dưới dạng đa thần hay phiếm thần, v́ bản
chất của vũ trụ là hướng về cứu cánh siêu nhiên.
Kitô-giáo diễn tả
cách rơ ràng việc Thiên Chúa cá vị, siêu việt đă đi vào mối tương quan
với thế giới như thế nào. Dựa vào Mạc Khải, Kitô-giáo biết rằng Thiên
Chúa, Đấng tự biểu lộ cách tự do và nhưng không cho con người, dẫn con
người vào đời sống thân mật với Người, đặt con người vào một t́nh trạng
tốt nhất, buộc con người phải lựa chọn cách nghiêm túc điều mang lại
hạnh phúc hay điều chúc dữ.
Theo Kitô-giáo :
Thiên Chúa xác nhận cách dứt khoát sự hiện hữu của thế giới qua Mầu
nhiệm Nhập thể của Con Một Người và kêu gọi thế giới thông dự vào đời
sống Ba Ngôi.
2. Ư niệm Thiên
Chúa trong lịch sử Mạc Khải
Chúng ta cần lưu ư
đến những điểm khác nhau về ư niệm Thiên Chúa trong chính lịch sử mạc
khải. Để nhận thấy sự khác biệt này, chúng ta phải hiểu tính lịch sử của
Mạc Khải. Mạc Khải là toàn bộ các lời nói và hoạt động mà Thiên Chúa đă
thực hiện để thiết lập mối tương giao với con người. Các lời nói và hoạt
động của Người phát xuất từ một quyết định tự do. Một quyết định tự do
là một biến cố, nên quyết định mang tính lịch sử. Do đó, Mạc Khải là một
lịch sử và là lịch sử theo hai nghĩa :
- Tính lịch
sử thần linh : Mạc Khải phát xuất từ một quyết định tự do của
Thiên Chúa. Con người cũng là kết quả của hành vi tự do của Thiên Chúa,
nhưng tự do tạo dựng và tự do hoạt động của Thiên Chúa nơi thế giới khác
nhau. Thiên Chúa nói và hoạt động cách tự do với con người đă hiện hữu.
V́ thế lời nói và hoạt động của Thiên Chúa có mọi đặc điểm của lịch sử.
- Tính lịch
sử nhân loại : Thiên Chúa nói và hoạt động không chỉ một lần,
nhưng nhiều lần ở nhiều nơi và nhiều thời điểm khác nhau, nên có nhiều
biến cố khác nhau. Tuy nhiên, các biến cố này vẫn là một toàn thể v́
được nối kết với nhau, và có cùng một mục đích. Trong các hoạt động tự
do này, có một hoạt động trung tâm, một khối các biến cố nối kết với
nhau, đó là : Nhập thể, Thập giá và Phục sinh của Đức Kitô. Các biến cố
Cựu Ước đều hướng về, chuẩn bị cho biến cố trung tâm là Tân Ước. Do đó,
có thể nói như Thánh Augustinô : "Tân Ước đă ẩn tàng nơi Cựu Ước". Cựu
Ước là chuẩn bị. Tân Ước là hoàn tất. Cựu Ước là lời hứa. Tân Ước là
thực hiện lời hứa. Tân Ước đă hiện diện nơi Cựu Ước dưới h́nh thức ngôn
sứ : Lời nói trong Cựu Ước được sắp xếp để hướng tới lời nói quyết định,
lời nói cuối cùng mà Thiên Chúa sẽ nói trong và bởi Đức Kitô. Đức Kitô
là lời nói cuối cùng. Như thế, ư niệm về Thiên Chúa giữa Cựu Ước và Tân
Ước có khác nhau. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa Cựu Ước
khác Thiên Chúa của Tân Ước. Sự khác nhau này thuộc phạm vi mức độ, v́
lịch sử Mạc Khải là một toàn thể và lịch sử cứu độ là một mạc khải tiệm
tiến.
B. Ư NIỆM THIÊN
CHÚA TRONG THẾ GIỚI HYLẠP VÀ TRONG CỰU ƯỚC
1. Ư niệm Thiên
Chúa trong thế giới Hylạp
Trong thế giới
Hylạp, ư niệm Thiên Chúa là ǵ ? Độc thần hay đa thần ? Chúng ta cần t́m
hiểu cách sơ lược nền văn hóa, tôn giáo của họ vào giai đoạn sứ điệp
Kitô-giáo mà trọng tâm là niềm tin độc thần, được loan báo.
Với người Hylạp, từ
"Theos" không nhắm tới một ngôi vị duy nhất. Ư niệm Thiên Chúa của họ
bản chất là đa thần. Thế giới các thần này có tổ chức phẩm trật. Từ văn
chương đến triết học đều hiểu như thế. Trong các tác phẩm của Homère,
thần Zeus được gọi là Cha của loài người và của các thần. Phái Khắc kỷ
th́ cho rằng quan niệm độc thần làm hạ giá Thiên Chúa. Plotin nói đa
thần biểu lộ sự cao cả của Thiên Chúa.
Thế giới các thần
hầu như được đồng hóa với vũ trụ. Khuôn mặt huyền bí của các thần trong
các tác phẩm của Homère, nguyên lư tối thượng (archè) của khoa vật lư
của phái Ioniens, hay ư tưởng (idea) của triết học đều bắt nguồn từ thế
giới. Điều ǵ lớn lao vĩ đại trong thế giới, người Hylạp đều cho đó là
Thiên Chúa. Trật tự, sự hài ḥa của thế giới là Thiên Chúa. Từ "Theos"
luôn là vị ngữ (prédicat). Chủ từ của mệnh đề mà "Theos" là vị ngữ chính
là vũ trụ.
Do đó, ta dễ hiểu
tại sao đa thần và phiếm thần hiện diện khắp nơi trong thế giới Hylạp,
tới tận những biểu lộ tinh tế nhất của nền văn hóa.
Tuy nhiên, sắc thái
độc thần cũng phảng phất nơi chính niềm tin đa thần và phiếm thần này.
Qua phụng tự của tôn giáo đa thần, người ta thấy có ư tưởng về một Thiên
Chúa cá vị và siêu việt. Họ cầu xin Thiên Chúa, gọi Người ở ngôi thứ hai
(Ngài). Triết học Platon, Aristote đặt vấn đề về sự hiện hữu của Nhất
thể tối thượng (LUn). Triết học tiền Socrate là Xenophane và Heraclite
chống lại đa thần được Homère mô tả. Đây có thể là tiếng vọng của Mạc
Khải về niềm tin độc thần.
Ư niệm Thiên Chúa
nơi người Hylạp có tiến triển : từ ư niệm Thiên Chúa vô danh, tới ư niệm
Thiên Chúa như nền tảng của thế giới, rồi tới ư niệm những điều thuộc
thần linh như luật lệ (nomos), công b́nh (dikè), tinh thần, ư tưởng. Tuy
nhiên, họ cũng có cảm giác rằng bên trên vị Thiên Chúa này có sự ngự trị
của định mệnh (destin).
2. Ư niệm về
Thiên Chúa trong Cựu Ước
Tôn giáo Cựu Ước là
tôn giáo độc thần. Điều cần làm ở đây là xác định rơ ư nghĩa của từ "độc
thần" này.
Niềm tin độc thần
của Cựu Ước không phải là một học thuyết siêu h́nh trừu tượng, không dựa
trên sự t́m ṭi của lư trí để nhận ra cái nguyên lư tối cao nhưng phát
xuất từ chính kinh nghiệm của người Cựu Ước, về hoạt động cứu độ của
Giavê giữa ḷng thế giới, và trong lịch sử của dân Người. Giavê, tên của
Thiên Chúa, là một ngôi vị, hoạt động theo ư muốn của Người, can thiệp
vào lịch sử cụ thể của dân riêng và của nhân loại. Người là Thiên Chúa
hay ghen, đ̣i cho ḿnh danh xưng El-Elohim (Thần các thần), các
thần khác (Elohim) chỉ là hư vô. Người là ngôi vị thiêng liêng : tất cả
đều tuỳ thuộc cách tuyệt đối vào hành động tự do của Người. Như thế, ư
niệm Thiên Chúa của Cựu Ước có tiến triển : từ ư niệm Thiên Chúa là Chúa
của dân tộc họ tới ư niệm Thiên Chúa là Chúa của mọi dân tộc, từ Thiên
Chúa là Chúa của thiên nhiên, nguyên lư cuối cùng của mọi thực tại tới ư
niệm Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, siêu việt trên thế giới, là Đấng
vô hạn. Qua đó, ta hiểu được đường lối sư phạm của Thiên Chúa. Một cách
tiệm tiến, Người dẫn con người tới chỗ hiểu Người cách chính xác hơn.
Tuy ư niệm Thiên Chúa ngày càng cao siêu, người Cựu Ước vẫn nhận thấy
Thiên Chúa là một ngôi vị cụ thể.
Tới đây, chúng ta
có thể nhận ra rằng công thức nền tảng của giáo thuyết độc thần Cựu Ước
không phải là "Có một Thiên Chúa duy nhất" hay "Nguyên lư tối cao của
thế giới là duy nhất", nhưng là : "Giavê là Thiên Chúa duy nhất".
II. THIÊN CHÚA (HO
THEOS) TRONG TÂN ƯỚC
A. KHỞI ĐIỂM
1. Với người Tân
Ước, sự hiện hữu của Thiên Chúa là hiển nhiên
Tân Ước không đặt
vấn đề về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Với người Tân Ước, Thiên Chúa
đương nhiên hiện hữu. Điều bận tâm chính yếu của họ là t́m ra cách thức
Thiên Chúa hoạt động để biết Người là ai, Người đă thiết lập mối tương
giao nào với thế giới. Để làm điều này, họ không khởi đi từ thực tại thế
giới như khoa siêu h́nh, nhưng khởi đi từ Thiên Chúa qua các hoạt động
của Người. Do đó, ta thấy không có chỗ nào trong Tân Ước gắn kinh nghiệm
về Thiên Chúa với cái biết siêu h́nh.
Tuy Tân Ước không
phủ nhận việc con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách siêu h́nh (Rm
1,20) và đưa ra một vài cái nh́n siêu h́nh để nói về sự hiện hữu của
Thiên Chúa (1 Cr 1,21 ; Rm 1,32), nhưng mục đích không phải chỉ là chứng
minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, Tân Ước có mục đích khác như phân tích
dưới đây :
- 1 Cr 1,21 : Khi
thế gian đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đă không lợi dụng khoa
khôn ngoan mà nh́n biết Thiên Chúa th́ Thiên Chúa đă quyết ư dùng sự
điên rồ của lời rao giảng để cứu kẻ tin.
- Rm 1,32 : Chúng
là những kẻ biết án của Thiên Chúa : những kẻ làm thế th́ đáng phải
chết, thế mà chẳng những chúng làm, chúng lại c̣n tán thành những kẻ làm
như vậy.
Nếu đặt hai câu này
vào mạch văn, ta thấy đây chỉ là những trưng dẫn để giúp người thời đó ư
thức về sự vô tri của họ, giúp làm sống lại sự nhận biết Thiên Chúa đă
bị khô cứng do tội nguyên tổ và tội riêng. Ở đây, Tân Ước không tŕnh
bày cái nh́n siêu h́nh như một điểm khởi hành hay một động cơ trở về với
Thiên Chúa hằng sống. Điểm khởi hành luôn là Mạc Khải được tỏ ra qua các
hoạt động của Thiên Chúa, đặc biệt nơi sự điên rồ của Thập giá (1 Cr
1,18t) và trong sự Phục sinh của Đức Kitô (Cv 17,31). Mục đích của Tân
Ước khi nói về vấn đề này không nhằm đưa tới một cái biết lư thuyết
nhưng là một sự nhận biết trong tuân phục. Do đó, sứ điệp Tân Ước có
chức năng của khoa phân tâm thần học (psychanalyse théologique), và đồng
thời cho thấy Mạc Khải và nhận thức tự nhiên về Thiên Chúa không mâu
thuẫn mà c̣n hỗ trợ cho nhau.
2. Mạc khải :
Nền tảng của tính hiển nhiên
Với người Tân Ước,
Thiên Chúa đă mạc khải cho họ qua lời nói và hoạt động của Người trong
lịch sử.
- Qua lịch sử
Cựu Ước : Người Tân Ước nhận thấy sự can thiệp sống động của Thiên
Chúa nơi lịch sử dân giao ước (Cv 7,2-53.). Họ nhận biết Thiên Chúa của
Abraham, Isaac, Giacóp là Thiên Chúa của họ.
- Qua lịch sử
của chính họ nhờ Đức Giêsu Kitô : Người Tân Ước cũng nhận biết Thiên
Chúa qua sự can thiệp sống động của Thiên Chúa vào lịch sử riêng của họ
nhờ Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô (Dt 1,2). Nhờ người Con Một này,
họ tin vào Thiên Chúa (1 Pr 1,21). Nhờ sự hiện diện của người Con Một
này, họ thấy tận mắt sự cao cả của Thiên Chúa (2 Cr 4,6).
3. Kinh nghiệm
về Thiên Chúa khởi đi từ Mạc Khải
Họ nhận ra mối dây
nối kết bền chặt giữa Đức Kitô và Thiên Chúa. Các biểu thức đức tin diễn
tả mối dây này : sự sống đời đời là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất
và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô (Ga 17,3 ;
x. 1 Tx 1,9-10 ; 1 Ga 1,3 ; 2 Pr 1,2).
Với Tân Ước, Thiên
Chúa và Con của Người không là hai thực thể đặt cạnh nhau, nhưng là sự
hiệp thông mật thiết giữa hai Đấng, đến nỗi khi phủ nhận Đấng này th́
Đấng kia không c̣n nữa : "Phàm ai chối Con th́ chẳng có Cha" (1
Cr 1,23 ; x. Ga 5,23 ; 14,6-14).
Tân Ước xác tín
rằng Đức Kitô đến từ Thiên Chúa, được Thiên Chúa sai đi. Tuy Tân Ước
nh́n nhận rằng những ai chưa biết Đức Kitô vẫn có thể nhận biết Thiên
Chúa, nhưng những người đă gặp gỡ Đức Kitô như người Dothái thời Ngài
(Rm 2,17t) mà không tin vào Ngài th́ không đủ điều kiện để sống tương
quan với Thiên Chúa đích thực.
B. NỘI DUNG CỦA Ư
NIỆM THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC
1. Duy nhất tính
của Thiên Chúa
a. Tầm quan trọng
Cũng như Cựu Ước,
Tân Ước tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu Kitô đă xác
định tính duy nhất của Thiên Chúa khi trích lại toàn bộ lược đồ Cựu Ước
: "Hăy nghe đây, hỡi Israel, Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy
nhất (Mt 12,32). Niềm tin độc thần hiện diện khắp nơi trong Tân Ước
(Ga 17,3 ; 1 Cr 8,4 ; Rm 3,30.) Mặc dù các công thức của niềm tin độc
thần Tân Ước thường mượn ở truyền thống Cựu Ước, nhưng không phải theo
nghĩa tùy phụ mà thực sự là nền tảng của đức tin Kitô-giáo. Chính Đức
Kitô đă nói tới niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất là yếu tố quan trọng để
có sự sống đời đời : "Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên
Chúa độc nhất và chân thật và là Đấng Cha đă sai là Đức Kitô" (Ga
17,3). Thánh Phaolô đă viện dẫn niềm tin Thiên Chúa duy nhất để tŕnh
bày hai chủ đề quan trọng :
Dân ngoại và dân
Dothái đều được kêu mời gia nhập Dân mới của Thiên Chúa (Rm 3,28-30 ; 1
Tm 2,4-5).
Có sự duy nhất
trong các biểu lộ khác nhau của Thánh Thần nơi các kitô-hữu được kết hợp
trong cùng một thân thể của Đức Kitô (1 Cr 12,6 ; Ep 4,6).
Do đó, niềm tin vào
Thiên Chúa duy nhất là một yếu tố chính yếu, quan trọng của Tin Mừng
được Đức Kitô rao giảng.
b. Ư nghĩa của niềm
tin độc thần trong Tân Ước
Thiên Chúa duy nhất
là một ngôi vị sống động được biểu lộ nơi Đức Kitô : cũng như Cựu Ước,
Tân Ước tin rằng Thiên Chúa duy nhất là nguyên lư tuyệt đối của thế
giới, là Chúa thiên nhiên, là Đấng siêu việt trên thế giới, là một ngôi
vị cụ thể (1 Cr 8,6 ; Ep 4,6 ; 1 Cr 12,6 ; Cv 17,25-28 ; 1 Cr 8,5). Con
người có sự hiểu biết về Thiên Chúa như thế là do chính Thiên Chúa tự
biểu lộ qua lời nói, hoạt động của Người trong lịch sử. Đặc biệt, với
Tân Ước, Thiên Chúa tự khải trọn vẹn nơi Đức Kitô và vị Thiên Chúa duy
nhất đó cũng chính là Cha Đức Giêsu Kitô. Do đó, biểu thức đức tin độc
thần Tân Ước không là : có một Thiên Chúa duy nhất như những người thuộc
trường phái Ánh Sáng (Aufklarung) nói, nhưng là : chúng tôi tin vị Thiên
Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô là Thiên Chúa duy nhất, hay Cha của Đức
Kitô và của chúng ta là Thiên Chúa duy nhất.
Niềm tin Thiên Chúa
duy nhất là một nhận thức có trách nhiệm : Thiên Chúa duy nhất là Thiên
Chúa của con người, của các tín hữu. Do đó, tin một Thiên Chúa duy nhất
không phải chỉ là tin một sự kiện mà c̣n là một nhận thức có trách
nhiệm. Giới răn yêu mến Thiên Chúa diễn tả chính xác niềm tin độc thần :
phải yêu mến Người v́ không c̣n Chúa nào nữa (Mt 6,24 ; Pl 3,19 ; 1 Cr
10,21.). Tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất là phải phụng sự một ḿnh Người,
vâng phục một ḿnh Người, quay lưng lại với các ngẫu tượng (1 Tx 1,9).
2. "Ngôi vị
tính" của Thiên Chúa
Thiên Chúa duy nhất
mà người Tân Ước tin là một ngôi vị sống động, luôn hoạt động nơi họ và
nơi thế giới, họ kêu cầu, xưng hô với Ngài ở ngôi thứ hai. Chúng ta có
thể xác định tính ngôi vị của Thiên Chúa qua các điểm sau đây :
a. Thiên Chúa là
Đấng luôn hoạt động
Để phân biệt vật
này với vật kia, cần phải nhận ra những nét riêng biệt của mỗi vật. Việc
nhận biết Thiên Chúa theo quan điểm siêu h́nh không phân biệt được Thiên
Chúa và hoạt động của Người với tạo vật Người dựng nên, bằng chứng là
quan điểm này thường dẫn tới đa thần hay phiếm thần. Ngược lại, kinh
nghiệm về Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước cho thấy, con người có thể
nhận biết hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới và lịch sử. Hoạt động
của Người khác biệt với tạo vật Người đă dựng nên, và xuất hiện như một
sáng kiến mới mẻ và nhưng không của Người. Hoạt động của Người có khía
cạnh "hic et nunc" được xác định rơ, khác biệt với mọi thực tại khác,
hoạt động khác trong thế giới và trong lịch sử.
Thật vậy, Tân Ước
nh́n thấy Thiên Chúa qua công tŕnh của Người (Cv 14,17 ; 17,26), nhưng
không có chỗ nào trong Tân Ước đồng hóa Người với tạo vật. Ca tụng hoa
huệ đẹp nhưng lại nói tới sự lụi tàn của nó. Tân Ước quả quyết mọi vật
đều trông chờ được Thiên Chúa cứu độ (Rm 8,22). Lư do sâu xa của việc
Tân Ước không bao giờ thần hóa tạo vật phát xuất từ kinh nghiệm về hoạt
động của Thiên Chúa.
Tân Ước nh́n việc
Thiên Chúa chọn Israel, ban Con Một của ḿnh khác với khoa siêu h́nh.
Siêu h́nh học cho đó là hậu quả tất yếu của ḷng thiện hảo của Thiên
Chúa, c̣n Tân Ước nh́n đó là mầu nhiệm của lựa chọn tự do và nhưng không
của Thiên Chúa.
Nhờ có kinh nghiệm
về hoạt động tự do và cá vị của Thiên Chúa mà việc tuyên xưng Thiên Chúa
là Đấng sáng tạo có ư nghĩa đích thực và sáng tỏ (Mt 11,25 ; Mc 13,19 ;
.). Con người chỉ thực sự có ư tưởng về tạo dựng nhờ có kinh nghiệm về
hoạt động tự do và đầy quyền năng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm về Thiên
Chúa cứu độ có trước kinh nghiệm về Thiên Chúa sáng tạo. Hai kinh nghiệm
này bổ túc cho nhau : v́ là Chúa trời đất (sáng tạo) nên Thiên Chúa có
thể hoạt động cách tự do và đầy quyền năng với tư cách là chủ tể tối cao
(Mt 11,25 ; Cv 4,24t.). Ngược lại, chính nhờ hoạt động của Thiên Chúa mà
con người có kinh nghiệm về quyền năng tạo dựng. Hoạt động của Thiên
Chúa được biểu lộ cách rơ nét nhất nơi việc phục sinh Đức Kitô, nó giúp
ta nhận biết sự lớn lao đặc biệt của quyền năng Thiên Chúa (Ep 1,19-20)
và làm ta tin vào sức mạnh của Thiên Chúa (Cl 2,12). Qua Đức Kitô, ta có
thể nhận ra rằng Thiên Chúa hoàn thành mọi sự theo quyết định riêng của
Người (Ep 1,11).
b. Thiên Chúa hoạt
động cách tự do
Tính ngôi vị của
Thiên Chúa c̣n được khám phá qua hoạt động tự do của Người. Tuy mọi tạo
vật đều được Thiên Chúa tiền định sẽ đạt tới cùng đích của ḿnh (Rm
16,25 ; 1 Cr 2,7 ; Ep 1,4 ; 3,9.), nhưng không được phép hiểu rằng mọi
sự đă được chuẩn bị cách tiên thiên và sẽ xảy ra theo một sơ đồ đă định
giống như nguyên tắc nhân quả, và Thiên Chúa chỉ là một khán giả thụ
động chờ đợi kết quả như các nhà thần luận nghĩ. Với Tân Ước, chương
tŕnh cứu độ là một bí mật của Thiên Chúa, tuyệt đối ẩn giấu trong thời
gian, nó chỉ lộ rơ trong thời cuối cùng. Thời cuối cùng đă bắt đầu khi
Đức Kitô xuất hiện, nên, theo các tác giả Tân Ước, chính ngày hôm nay và
chỉ ngày hôm nay mà ơn cứu độ nhờ Đức Kitô đi vào thế giới cách hiệu quả
(Tt 2,11 ; 3,4). Chính trong ngày hôm nay, ơn cứu độ được mạc khải cho
chúng ta (2 Tm 1,10). Kinh nghiệm về tự do của Thiên Chúa qua các biến
cố nền tảng của lịch sử Cứu Độ, chứng kiến Thiên Chúa hoạt động nơi cả
người lành, người tội lỗi, người yếu thế, người chẳng có công lao ǵ (Mt
11,25 ; Lc 1,51 ; 1 Cr 1,25 .), người Tân Ước hiểu rằng, hoạt động của
Thiên Chúa là một sáng kiến mới mẻ, một hoạt động tự do (Rm 9,19 ; Gc
1,18 ; Ep 1,11). Quả thật, Thiên Chúa luôn vượt lên trên mọi tính toán
của con người, Người luôn là một ông chủ can thiệp cách tự do : thương
xót hay cứng rắn khi Người muốn (Rm 9,15-16.18). V́ thế, không được xem
hành động của Thiên Chúa như một điều ǵ đó tất yếu.
c. Đối thoại với
con người
Tính ngôi vị của
Thiên Chúa c̣n được biểu lộ qua việc Thiên Chúa đối thoại với con người.
Việc nhận biết Thiên Chúa thuần túy siêu h́nh không cho thấy cuộc đối
thoại này v́ thế giới được coi là sự biểu lộ, là vật thể hóa của nguyên
lư tối cao. Cái nh́n siêu h́nh phủ nhận tính tự lập một cách nào đó và
khả năng hoạt động tự do của thế giới trong tương quan với Thiên Chúa.
Nhờ lịch sử Cứu Độ
được Thiên Chúa khai mở, giữa Thiên Chúa và con người có một cuộc đối
thoại, bằng chứng là :
Con người có thể
đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa : hoặc đồng ư hoặc không đồng ư (Rm 2,5
; 15,8 ; 16,19 ; Cv 3,20 ; 7,51.).
Con người có thể
khẩn cầu Thiên Chúa.
Những điều này cho
thấy hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử không phải là một cuộc độc
thoại nhưng là một cuộc đối thoại dài và cảm động. Do đó, các thảm kịch
xảy ra trong lịch sử có sự góp phần của tạo vật. Điều này làm cho lịch
sử trở nên nghiêm túc. Tuy nhiên, Thiên Chúa có tiếng nói cuối cùng v́
Người là Đấng mạnh nhất, và tạo vật không thể chống lại Người. Do đó,
gắn bó với ư muốn Thiên Chúa th́ quan trọng với tạo vật hơn là gắn bó
với bất cứ thực tại nào khác.
3. Các đặc tính
của Thiên Chúa
Những hiểu biết về
đời sống cá vị, tự do của Thiên Chúa siêu việt, về cuộc đối thoại với
thế giới của Thiên Chúa, cho phép ta t́m hiểu cách đúng đắn giáo thuyết
Tân Ước về các đặc tính của Thiên Chúa. Khi nhận biết ngôi vị tính của
Thiên Chúa, ta nhận ra rằng, với con người, vấn đề thiết yếu không phải
: Thiên Chúa là ǵ, nhưng là nhận biết Thiên Chúa là ai, tỏ ḿnh ra cho
thế giới cách nào, Người thiết lập mối tương quan nào với thế giới. Mối
tương quan của một người đối với người khác không được xác định bởi các
đặc tính của người đó, nhưng bởi thái độ mà người đó tự do lựa chọn.
Điều này rất đúng với Thiên Chúa trong tương quan với thế giới Người đă
dựng nên. Để chứng minh điều này, chúng ta sẽ so sánh, phân tích cái
nh́n của Tân Ước và cái nh́n của siêu h́nh :
- Quan điểm siêu
h́nh cho rằng thái độ của Thiên Chúa đối với thế giới mang tính tất yếu
của bản tính Thiên Chúa.
- Quan điểm Tân Ước
: không thể nào xác định cách tất yếu thái độ cụ thể của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tỏ ḷng thương xót hoặc có thể khép ḷng lại, có thể
soi sáng cho con người và cũng có thể gửi thần khí hôn mê đến (Rm
11,8.), nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng là Đấng Thánh (Dt 12,10), những
phán xử của Người vẫn luôn đúng và công b́nh (Kh 19,2). Những ǵ biết
được về Thiên Chúa đều qua các hoạt động, qua những thái độ cụ thể của
Thiên Chúa trong lịch sử. Do đó, giáo huấn Tân Ước gửi đến chúng ta
không phải là lư thuyết về yếu tính thần linh qua con đường suy lư,
nhưng là cho chúng ta biết khuôn mặt cụ thể của ngôi vị Thiên Chúa,
khuôn mặt mà Người tự biểu lộ với thế giới. Tuy nhiên, ta thấy trong Tân
Ước có những khẳng định liên quan tới đặc tính siêu h́nh về bản tính
Thiên Chúa như : bản tính thần linh (2 Pr 1,4), thần tính (Rm 1,20),
Thiên Chúa vĩnh cửu (Rm 16,26), vô h́nh (Rm 1,20), bất hoại (Rm 1,23).
Phải giải thích thế nào đây ?
Tân Ước nh́n nhận
rằng các đặc tính của Thiên Chúa có thể được nhận biết từ thế giới (Rm
1,20), nhưng Tân Ước cũng nói rằng do tội lỗi, các đặc tính này c̣n bị
che khuất (Rm 1,25). Do kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa qua các hoạt động
của Người trong lịch sử, nhờ sự vâng phục đức tin, con người tái khám
phá các đặc tính đó của Thiên Chúa cách đặc biệt mới mẻ. Chẳng hạn :
- Đặc tính vĩnh cửu
của Thiên Chúa : Tân Ước không chỉ thấy Thiên Chúa vĩnh cửu là Đấng
không có khởi đầu và kết thúc, mà c̣n hiểu Người là Đấng vượt trên thế
giới đến nỗi Người có thể can thiệp vào thế giới để làm cho thế giới
được thông phần bản tính của Người.
- Một ví dụ khác
cho thấy sự đối lập giữa hoạt động hiện sinh, mang tính ngôi vị của
Thiên Chúa và các đặc tính siêu h́nh bất động của yếu tính thần linh :
ví dụ về t́nh yêu. Đối với Tân Ước, t́nh yêu của Thiên Chúa chủ yếu là
một ân sủng mà không ai có quyền đ̣i hỏi. Khẳng định Thiên Chúa là
T́nh Yêu không đến từ một nhận biết siêu h́nh nhưng là từ kinh
nghiệm về hoạt động của Thiên Chúa nhờ đức tin. Nhờ đức tin, người Tân
Ước thấy rằng t́nh yêu của Thiên Chúa được biểu lộ rơ rệt nhất qua việc
Người sai Con Một xuống thế (1 Ga 4,9). Đây là hoạt động hoàn toàn tự do
của t́nh yêu Thiên Chúa. Nếu lời nói tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa
mang lại các hiệu quả khác nhau, th́ không chỉ là do sự đáp trả tự do
của con người, mà trước hết là do sự tự do của Thiên Chúa ban hay từ
chối ban t́nh yêu của Người (Rm 9,9-11). Tiếng gọi của Thiên Chúa T́nh
Yêu luôn là tiếng gọi của kế hoạch Người đă lựa chọn (Rm 8,28-33 ; 2 Tm
1,9 ; 2 Pr 1,10).
- Về sự toàn năng
cũng thế, Tân Ước nh́n nhận rằng con người có thể nhận biết đặc tính
toàn năng của Thiên Chúa từ thế giới, nhưng đặc tính này chỉ hiểu rơ
được nhờ kinh nghiệm về hoạt động của Thiên Chúa. Thật vậy, siêu h́nh
học cho rằng điều ǵ càng cao quư th́ càng gần Hữu Thể thần linh. Nhưng
trong thực tế của lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa lại chọn điều mà thế gian
cho là yếu đuối nhất, điên rồ nhất để biểu lộ ḿnh (1 Cr 1,18-29 ; Cv
12,9.), phận Thiên Chúa tự hư vô hóa trong thân phận tôi đ̣i (Pl 2,5-8).
Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh cửu và tạo dựng đă trở thành xác phàm (sarx),
đi vào thời gian, vào sự hư hoại, phó nộp cho quyền lực tội lỗi và cái
chết (1 Ga 1,14), để, như Thánh Phaolô viết : "Đừng có xác phàm nào
dám vinh vang trước mặt Thiên Chúa" (1 Cr 1,29). Qua đó, Tân Ước cho
thấy điều ở cao hơn cả vẫn ở xa Thiên Chúa. Điều ở thấp hơn cả cũng
không đương nhiên có khả năng lôi kéo Thiên Chúa. Điều cao nhất và điều
thấp nhất chẳng là ǵ ngoài việc im lặng trước mặt Thiên Chúa. Vậy Thiên
Chúa là ai ? Cái biết siêu h́nh không thể cho ta biết đúng về Người. Chỉ
qua các hoạt động của Thiên Chúa, chúng ta mới biết điều Người "muốn là"
đối với chúng ta. Do đó, bản chất của giáo huấn Tân Ước không phải là
một hữu thể luận về các đặc tính Thiên Chúa, nhưng là các kinh nghiệm về
mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người được chính Thiên Chúa thiết
lập trong lịch sử.
C. THIÊN CHÚA LÀ
T̀NH YÊU
Kinh nghiệm cốt yếu
mà người Tân Ước có được trong lịch sử Cứu Độ đó là Thiên Chúa của cha
ông họ đă muốn, và kêu gọi họ hiệp thông với Người trong Con của Người.
Kinh nghiệm này được diễn tả trong câu : "Thiên Chúa là T́nh Yêu".
Đây là lời hết sức cô đọng, cần phải được minh giải.
Nếu lịch sử cứu độ
có thể hiểu như một cuộc đối thoại t́nh yêu giữa Thiên Chúa với Dân
Người th́ có thể nói, Cựu Ước là lời chuẩn bị, và Tân Ước là
lời tối hậu của Thiên Chúa.
Tân Ước biết rằng
Thiên Chúa tự do và hằng sống luôn hoạt động theo những cách thức và vào
những thời điểm khác nhau theo ư của Người. Thế mà điều đầu tiên chúng
ta biết được về hoạt động cá vị của Thiên Chúa trong Tân Ước là Người đă
nói lời cuối cùng, lời nói kết thúc cuộc đối thoại dài và đầy kịch tính
với con người. Đây là lời nói cuối cùng v́ chính Thiên Chúa đă tuyên bố
rằng hoạt động này của Người không thể bị đảo ngược. Thời gian đă ngưng
lại khi Thiên Chúa nói tiếng nói cuối cùng. Thời gian đây không phải là
thời gian được đo lường bằng chuyển động của đồng hồ, nhưng bằng các
hoạt động luôn luôn mới mẻ và tự do của Thiên Chúa trong thế giới. V́
thời gian là như thế, nên thời gian (Kairos) đă được hoàn tất thực sự
(Mt 1,15), thời gian cuối cùng đă đến với chúng ta (1 Cr 10,11 ; 1 Pr
4,7).
Để làm rơ nét t́nh
trạng độc nhất và bất khả đảo ngược này, chúng ta vừa phải phân biệt
những thái độ trước kia (Cựu Ước) với thái độ mới (Tân Ước) của Thiên
Chúa trong thời cuối cùng, vừa phải nêu rơ ư nghĩa thâm sâu của những
thái độ mới của Thiên Chúa.
1. T́nh yêu của
Thiên Chúa trong Cựu Ước
Lời tối hậu
của Thiên Chúa hoàn tất lời chuẩn bị trong Cựu Ước (Dt 1,1 ; 1 Tm
1,6 ; 6,15 ; Tt 1,3), do đó, cần phải phân biệt giữa lời tối hậu
với lời chuẩn bị. Để hiểu được những khác biệt này, ta nên lưu ư
đến các cặp ư niệm đối lập nhưng bổ túc cho nhau như : tội lỗi - công
b́nh (Rm 3,5), Lề Luật - đức tin (Rm 4,13), tôi tớ - con
cái (Rm 8,15), nô lệ - tự do (Ga 15,1), xác phàm - thần
khí (Rm 8,9), việc làm - ơn sủng (Tt 3,5-7).. Khi tŕnh bày
những ư niệm song đối này, Tân Ước cho thấy Thiên Chúa tự mạc khải là
Thiên Chúa của T́nh Yêu và là T́nh Yêu. Vậy, trong Cựu Ước Thiên Chúa
không tỏ ra là Đấng yêu thương sao ?
Trước Đức Kitô (Cựu
Ước), Thiên Chúa đă tỏ ra là Đấng yêu thương rồi, đặc biệt là qua công
tŕnh sáng tạo.
Sách Khôn ngoan :
Thiên Chúa yêu thương mọi loài (11,24).
Thánh vịnh : Sáng
tạo là hoạt động của t́nh yêu (186,1-9). Ư niệm Thiên Chúa là T́nh
Yêu này rất gần với thần học tự nhiên : mọi tạo vật đều có một nguồn
gốc, một nguyên lư tối hậu tốt lành, nhưng không bao gồm một tương quan
ngôi vị giữa Thiên Chúa và con người, và không đủ để đưa tới một tương
giao ngôi vị thực sự.
Cựu Ước cũng nói
tới ḷng thương xót của Thiên Chúa được tỏ ra trong hoạt động cá vị của
Thiên Chúa vào lịch sử con người : chọn dân riêng, kư giao ước. Thiên
Chúa luôn yêu thương dân, dù họ thường bất trung. Nhưng các khẳng định
này chưa cho phép nói rằng t́nh yêu Thiên Chúa đi đến mức trao ban chính
ḿnh Người cho nhân loại. Ḷng tốt của Thiên Chúa đối với con người vẫn
c̣n mang khía cạnh chủ - tớ và không có ǵ bảo đảm là ông chủ
giàu ḷng thương xót này không ở xa con người.
Cựu Ước cũng cho
thấy Thiên Chúa quan tâm tới con người và muốn con người đến với Người
bằng một quyết định cá nhân. Nhưng điều này c̣n mang đặc tính của một
lời hứa. V́ c̣n mờ tối, lời hứa đó chẳng có ǵ bảo đảm sẽ hoàn toàn khác
với tương quan chủ - tớ. Do đó, t́nh yêu con người đáp lại t́nh
yêu Thiên Chúa chưa là t́nh yêu hoàn toàn. Thiên Chúa muốn con người yêu
Người hết ḿnh, nhưng con người chưa biết rơ tiếng xin vâng nào Thiên
Chúa đang chờ đợi. Phải chăng Thiên Chúa chờ đợi một t́nh yêu của kẻ bầy
tôi ? Nếu thế, ông chủ vẫn ngh́n trùng xa cách con người v́ ông chủ được
bao bọc bằng một ánh sáng huy hoàng không thể đạt tới.
Thực ra, trong Cựu
Ước, khi con người đáp trả t́nh yêu Thiên Chúa bằng niềm tín thác, con
người đă bắt đầu sống phận làm con. Nhưng con người chỉ nhận ra điều này
khi Con Thiên Chúa đi vào lịch sử.
2. T́nh yêu của
Thiên Chúa trong Tân Ước
Bản chất của mối
tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
Thiên Chúa là T́nh
Yêu, đó
là đặc tính cơ bản của mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với con
người trong lịch sử vào thời gian cuối cùng. Vậy tương quan t́nh yêu này
là như thế nào ?
Trước hết, khi nói
Thiên Chúa là T́nh Yêu, chúng ta nhắm tới hoạt động tự do của
Thiên Chúa được hoàn tất trong Đức Kitô, và hơn nữa Thiên Chúa muốn
thông ban trọn vẹn sự sống thâm sâu nhất của Người cho nhân loại qua Đức
Kitô. Đây là hai điểm cơ bản của một t́nh yêu ngôi vị mà Cựu Ước là khởi
đầu c̣n Tân Ước là hoàn tất. Quả vậy, kế hoạch tự do của Thiên Chúa nhằm
đưa con người vào cộng đồng ngôi vị với Người đă trở thành hiện thực
trong Đức Kitô. Đức Kitô là thời gian đă măn (Mc 1,15), trong
Ngài t́nh yêu Thiên Chúa được biểu lộ : "Thiên Chúa đă yêu thương thế
gian đến nỗi đă ban Con Một." (Ga 3,16 ; Rm 8,28-31). Như thế, lời
hứa c̣n mơ hồ trong Cựu Ước từ nay đă trở nên rơ ràng, chắc chắn, đă
được thực hiện (Rm 15,8). Chẳng có ǵ trong tương lai (Rm 8,38)
có thể tŕ hoăn biến cố cuối cùng này.
Trong Đức Kitô,
Thiên Chúa đă tự ban ḿnh cho chúng ta : "Sự thông hiệp của ta là sự
thông hiệp với Chúa Cha và Con của Người" (1 Cr 1,3), và "Thánh
Thần" (2 Cr 13,13). Từ "thông hiệp" (koinônia) của Hylạp chỉ
cộng đồng phu thê. Cộng đồng t́nh yêu này được thiết lập bởi Thánh Thần
của Thiên Chúa (Rm 5,5 ; Gl 4,6 ; 1 Ga 3,24). Trong Thánh Thần mà chúng
ta được kêu gọi tới dự phần vào sự sống thân t́nh của Thiên Chúa. Ngài
là Thánh Thần của Con (Gl 4,4-6), làm cho ta trở nên con Thiên Chúa (1
Ga 3,12). Do đó, việc làm con Thiên Chúa của chúng ta tuỳ thuộc trực
tiếp vào Đức Kitô. Như vậy, khi Tân Ước tuyên bố "Thiên Chúa là t́nh
yêu" là nhằm giải thích nội dung của một kinh nghiệm mà con người có
về Thiên Chúa trong Đức Kitô : Thiên Chúa tự hiến ḿnh cho con người.
Người thông ban tất cả những ǵ "Người Là" cho con người, thông
phần bản tính của Người cho ta v́ lẽ Người đă chọn yêu ta cách tự do.
Bản chất của Kitô-giáo là nhận biết chương tŕnh này của Thiên Chúa.
D. THIÊN CHÚA (HO
THEOS) : NGÔI THỨ NHẤT TRONG BA NGÔI THIÊN CHÚA
Như vừa nói, làm
con Thiên Chúa là mục đích mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Đây là
công tŕnh của cả Ba Ngôi. Vậy Tân Ước dùng từ "Ho Theos" là có ư chỉ
Chúa Cha hay cả Ba Ngôi ? Vấn đề này liên hệ tới Thần học Tín lư và Thần
học Kinh Thánh.
Thần học kinh viện
hiểu từ này chỉ ngôi vị Thiên Chúa sở hữu thần tính, nên từ này có thể
chỉ từng ngôi và có thể chỉ chung Ba Ngôi. Như thế, Thần học kinh viện
cho rằng từ "Ho Theos" trên b́nh diện ngôi vị là một khái niệm tổng
quát. Kinh Thánh Tân Ước có hiểu như thế không ?
Theo Tân Ước, từ
"Ho Theos" chỉ Chúa Cha, Ngôi Thứ Nhất, đồng thời qua đó xác định vị trí
của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong cộng đồng Ba Ngôi.
Trong Tân Ước, có 6
trường hợp "Theos" chỉ Chúa Con :
- Rm 9,5t : Đức
Kitô được gọi là Thiên Chúa vượt trên mọi sự.
- Ga 1,1 : Lời
(Logos) được gọi là "Theos" (Thiên Chúa).
- Ga 1,18 : nói về
người Con Một là Thiên Chúa.
- Ga 20, 28 : Tôma
tuyên xưng Đức Giêsu là ".Thiên Chúa của tôi".
- 1 Ga 5,20 : Đức
Kitô là Thiên Chúa thật.
- Tt 2,13 : Đức
Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ.
Trong sáu trường
hợp trên, Theos đều là vị ngữ hoặc có giá trị của một vị ngữ chứ không
phải là chủ ngữ, và cả 6 trường hợp đều chỉ rơ về Đức Kitô. Trong 6
trường hợp, có 5 trường hợp từ "Theos" không có mạo tự "Ho". Riêng câu
Ga 20,28 : "Ông Tôma thưa Người : "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con". (Ho Theos mou) : câu này được dùng ở cas vocatif, theo văn
phạm tiếng Hipri, cas vocatif đ̣i một mạo tự, nên từ "Theos" ở đây có
mạo tự "Ho".
Như thế ta thấy,
Tân Ước dùng từ "Ho Theos" hay "Theos" có xác định chứ không chỉ chung
chung. Ngoại trừ 6 trường hợp trên, từ "Ho Theos" luôn luôn chỉ cách
trực tiếp hoặc gián tiếp về Chúa Cha.
Thật vậy, qua cách
dùng từ ngữ của Tân Ước, ta có thể xác quyết như thế, chẳng hạn :
Khi từ "Ho Theos"
có liên hệ tới Đức Kitô :
"Con Thiên Chúa"
(Ga
5,25) : "Thiên Chúa" chỉ Chúa Cha.
". Ngôi Lời của
Thiên Chúa
(Kh 19,13) : "Thiên
Chúa" chỉ Chúa Cha.
Khi từ "Ho Theos"
được dùng chỉ hoạt động của Chúa Cha trên Đức Kitô : ta có thể nói như
Thánh Tôma rằng các hoạt động được Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô
trong bản tính nhân loại, có thể gán cho cả Ba Ngôi (Thomas, Ia, q.43,
a.8), nhưng ta không thể nói ngược lại là có thể gán hoạt động của Ba
Ngôi cho Đức Kitô.
Khi hai từ "Theos"
và "Đức Kitô" đặt cạnh nhau th́ từ "Theos" chỉ Chúa Cha, Ngôi Thứ Nhất,
và Đức Kitô được xác định là Chúa (Kurios), nghĩa là một ngôi vị thần
linh, ví dụ : (2 Pr 1,2) : "Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và b́nh
an, trong sự nhận biết Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Từ "Ho Theos" trong
công thức Ba Ngôi chỉ Chúa Cha (1 Pr 1,2.).
Từ "Ho Theos" chỉ
Chúa Cha trong các câu nói về Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là
con Thiên Chúa (Ga 20,27 ; Gl 4,4 ; Rm 8,15.). Do đó, không có lư do ǵ
để cho rằng từ "Ho Theos" chỉ một Thiên Chúa chung chung, kể cả những
đoạn Tân Ước không chỉ Chúa Cha cách minh nhiên, ta cũng thấy chỉ Người
cách mặc nhiên, ví dụ : Cv 3,12-16 ; Dt 1,1 : nói tới vị Thiên Chúa hoạt
động trong Cựu Ước.
Chính Đức Kitô
tránh áp dụng cho ḿnh từ "Con Thiên Chúa". Tin Mừng nhất lăm không bao
giờ đặt từ này nơi miệng Đức Kitô. Đức Kitô chỉ coi ḿnh là Con (Fils)
và đôi lần là Con Người (Fils de lHomme), và nói Thiên Chúa là Cha của
ḿnh (Mt 11,27 ; Lc 22.). Trong Tin Mừng Gioan, chỉ có 3 lần, Đức Giêsu
xưng ḿnh là Con Thiên Chúa (5,25 ; 10,36 ; 11,4). Từ "Cha" được dùng
102 lần và 23 lần là "Cha tôi". Chắc chắn không phải là vô cớ mà Đức
Giêsu, trong các bản văn Tân Ước, tránh áp dụng từ "Ho Theos" cho ḿnh.
Rơ ràng Tân Ước dùng từ "Ho Theos" làm tên riêng của Chúa Cha.
Trong công thức Ba
Ngôi : Đức Kitô nói tới : Cha, Con và Thánh Thần. Các tông đồ thêm từ "Theos"
vào chữ Cha để chỉ Ngôi Thứ Nhất. Ngôi Thứ Nhất luôn được chỉ bằng các
từ "Ho Theos" hay "Theos Patèr", không bao giờ chữ "Patèr" được dùng một
ḿnh (x. 1 Cr 12,4t ; 1 Cr 1,21t ; 2 Tx 2,13 ; 1 Pr 1,2.).
Tùới đây, chúng ta
có thể khẳng định rằng : trong Tân Ước trừ 6 trường hợp chỉ Đức Kitô, từ
"Ho Theos" luôn luôn chỉ về Chúa Cha, Ngôi Thứ Nhất.
KẾT LUẬN
Trở về với cách
hiểu của Tân Ước là điều cần thiết không những liên hệ đến niềm tin mà
c̣n liên hệ đến đời sống thiêng liêng của người kitô-hữu.
Chẳng hạn, nếu bằng
ḷng cầu nguyện với Thiên Chúa cách chung chung, không phân biệt, chúng
ta sẽ đánh mất vị trí trung gian tối cần thiết của Đức Giêsu và sẽ tạo
ra mối nguy là không tin đủ vào Đấng Trung gian trong đời sống tôn giáo.
Khi xác tín chúng ta là con của Chúa Cha, Cha của Đức Giêsu Kitô, Ngôi
Thứ Nhất, chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng cám dỗ hiểu việc làm con Thiên
Chúa của chúng ta chỉ thuần túy là đạo đức hay tự nhiên. Như thế, cấu
trúc Ba Ngôi sẽ nổi bật trong đời sống tôn giáo, chúng ta sẽ có ư niệm
rơ hơn về vai tṛ trung gian của Đức Kitô và ư thức nhiều hơn về khuôn
mặt của Thiên Chúa là Cha.
|
|