KHÁM PHÁ
MỚI
Bác sĩ Chang
Shu-wen sinh trưởng Vùng Bắc Trung Hoa, theo học ngành Y Khoa tại Bắc
Kinh và Nam Kinh. Hiện tại, ông đang hành nghề y sĩ tại Taipei, Đài
Loan.
Tôi là Chang
Shu-wen, 62 tuổi sinh trưởng tại vùng thôn quê đẹp đẽ Fong-cheng Hsien,
thành phố Antung, lục địa Trung Hoa.
Xuất thân từ một
gia đ́nh theo Khổng giáo, chúng tôi thừa hưởng một truyền thống lâu đời
trong ḍng họ, đó là thờ Trời, tôn kính tổ tiên và sùng bái Đức Khổng
Phu Tử. Cha mẹ tôi không phải là những Phật tử, mặc dù ông bà vẫn ăn
chay những ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng theo âm lịch. Qua cách
sống như thế, suốt thời thơ ấu, tôi không có một liên hệ nào với Phật
giáo.
Vào khoảng thời
gian chấm dứt chương tŕnh Trung học, tôi và các bạn cùng lớp tổ chức
một buổi du ngoạn thăm các thắng cảnh vùng đồi núi Chie-shan. Vùng này
có rất nhiều chùa chiền của các tôn giáo Phật giáo và Lăo giáo. Ở một
ngôi chùa Phật giáo nọ, chúng tôi đă lưu lại trong bốn ngày. Trong thời
gian bốn ngày, tôi đă có dịp nh́n xem tận mắt cách trang trí, các lễ
phục, các tượng ảnh và tham dự các buổi cầu nguyện của những Phật tử.
Tôi đă tham dự những buổi cầu nguyện này một cách nghiêm trang chăm chú.
Qua những giây phút này, so sánh với những đơn sơ của đạo giáo, trong
tâm hồn tôi bỗng nhiên bộc phát một nhận thức sâu xa về sự xa hoa hào
nhoáng của thế gian và vật chất thế tục. Một nỗi buồn xuất hiện xâm
chiếm tâm hồn tôi.
Tôi đến gặp, nói
chuyện với một nhà sư và t́m hiểu lư do tại sao các tu sĩ lại từ bỏ mọi
sự thế gian và ngay cả gia đ́nh để sống trong các nhà chùa như vậy. Tôi
được trả lời rằng những người này đă t́m hiểu về Phật Pháp và sau đó bị
lôi cuốn sống đời sống tu hành để thực tập các nhân đức với hy vọng sẽ
đạt được một đời sống tâm linh giải thoát khỏi sự áp chế của nhục dục.
Trong thực tế có
hai bậc tu hành:
* Bậc thứ nhất
có tầm học cao hiểu rộng, giảng đạo cho các thiện nam tín nữ.
* Bậc thứ hai
thấp hơn, dù sống trong nhà chùa nhưng vẫn c̣n liên hệ đến thế tục về
phương diện vật chất, những người này lưu lại trong chùa v́ hoàn cảnh
nghèo khó, thiếu ăn thiếu mặc ngoài đời.
Lại cũng có
những người tội phạm, bị chính quyền truy nă, t́m đến cửa Phật để náu
thân. V́ trong thời gian đó, pháp luật không được áp dụng cho những
người đă xuống tóc qui y trong các nhà chùa. Dù tội lỗi của họ có nặng
nề đến đâu đi nữa, pháp luật coi như họ đă tách ra khỏi thế giới con
người và coi như đă chết.
Hầu hết các nhà
tu hành thuộc bậc thứ hai v́ họ đă chán cảnh đời thế gian, đă thất bại
trên chính trường, đă thua lỗ trong việc làm ăn buôn bán hoặc t́nh duyên
bị găy đổ. Với sự khổ hạnh trong đời tu hành, họ nhận diện được sự dối
trá, phù du của thế gian và quyết định nương nhờ cửa từ bi t́m b́nh an
cho tâm hồn.
Các nhà tu hành
ở bậc thứ hai có thể tiến lên bậc thứ nhất nếu qua thời gian, họ t́m
hiểu, học hỏi, tiến triển trong việc sống đời sống nhân đức theo Phật
pháp. Theo Phật pháp, tất cả mọi người đều b́nh đẳng. Bất cứ ai cũng có
thể thành Phật, nếu người ấy sống nhân đức: Vị Giáo chủ thứ Sáu trong
truyền thống Phật giáo Trung Hoa không biết đọc biết viết nên ông không
hiểu ǵ hết những lời giảng huấn của Vị tiền nhiệm Thứ Năm. Nhưng khi
được linh ứng, ông có thể quảng diễn tất cả mọi điều giống như Vị Giáo
chủ trước đă giải thích và giảng dạy. Chính v́ thế ông được chọn làm vị
thừa kế. Đó là những kiến thức đầu tiên của tôi về Phật Giáo.
Sau khi tốt
nghiệp Trung học, tôi được gửi đi Bắc Kinh để học Đại Học. Những vấn đề
liên hệ đến ư nghĩa, cứu cánh của đời sống con người luôn luôn xâm chiếm
tôi. Mỗi lần như thế, tôi lại nghĩ đến Phật pháp: Sự b́nh đẳng trong sự
sống của tất cả các loại sinh vật theo Phật pháp khiến tôi suy nghĩ
nhiều. Tôi khâm phục và tán thưởng những châm ngôn, những kinh kệ và các
bài luận giảng về vấn đề này.
Bắc kinh là nơi
qui tụ các vị chân tu và các tu sĩ học giả. Tôi có dịp liên lạc với nhà
sư Tai-hsu, một người được toàn quốc biết đến qua việc chú giải bộ sách
"Bốn mươi hai chương". Tôi đă được nghe ông giảng những bài giảng rất có
ư nghĩa. Có những bài giảng với những câu tôi vẫn c̣n nhớ rơ:
... "Sự liên hệ
giữa người đàn ông với vợ ḿnh và gia đ́nh c̣n nặng nề hơn nhà tù đối
với ngừơi tù. Như hạn tù không bao giờ chấm dứt, người đàn ông sẽ không
bao giờ được phép từ bỏ gia đ́nh...".
Tôi cũng có lần
được nghe nhà sư Chang-hsing giảng giải về sách của Đức Phật qua cái
nh́n Triết học. Sau đó mặc dù tôi kết luận rằng mỗi người đều phải có
một tôn giáo, nhưng tôi vẫn chưa t́m được một tôn giáo cho chính ḿnh.
Một ngày nọ, tôi
có dịp đến thăm một Thánh đường đạo Công giáo, tôi hỏi mượn một số sách
về đọc, nhưng người giữ thư viện cho biết rằng sách chỉ dành cho những
người nào muốn t́m hiểu về đạo Công giáo mượn thôi. Từ hôm đó, tôi có ư
định t́m hiểu về đạo Công giáo.
Tôi theo học tại
trường Quân Y. Viện trưởng của trường là một người theo đạo Thệ phản
(Protestant). Vào ngày thứ bảy chúng tôi không có lớp. Ông Viện trưởng
thường mời một Mục sư đến giảng đạo và hướng dẫn các sinh viên học hỏi
về Kinh Thánh. Tôi chẳng hiểu nhiều về những điều giảng dạy đó, chính v́
thế, tôi thờ ơ với Kitô giáo.
Sau thời gian
theo học tại Bắc Kinh, tôi được gửi đi Nam Kinh. Ở Nam Kinh, tôi cũng
thường tham dự những buổi thuyết tŕnh về Phật pháp do một giảng viên
của Đại học Chin-Linh diễn giảng: Giáo sư Mei-Kwan-hsi. Ông dùng những
danh từ khoa học khi nói chuyện khiến những thính giả như tôi hiểu dễ
dàng hơn.
Thời gian sau
đó, tôi lại thường đến một nhà thờ Thệ phản với mục đích t́m kiếm sự an
b́nh cho tâm hồn v́ nhiều lúc tôi cảm thấy băn khoăn trong vấn đề tôn
giáo. Nhưng không nơi nào tôi t́m được sự an b́nh cả.
Cuối cùng tôi
trở lại với Phật giáo với ư nghĩ rằng đây chính là tôn giáo tôi đang t́m
kiếm và sự băn khoăn trong tâm hồn tôi sẽ được giải thoát. Trong giai
đoạn này tôi t́m hiểu về Phật pháp rất nhiều.
Bên cạnh những
sách vở Y khoa phải học và đọc, tôi coi như ḿnh có bổn phận phải đọc
thêm sách Phật rồi dần dà tôi có thói quen đọc những sách này ngay cả
những khi giải trí. Tôi không liên lạc với gia đ́nh nhiều, v́ tôi thiết
nghĩ theo sách nhà Phật, đối với người đàn ông: gia đ́nh, vợ con là
những phiền toái bên ngoài, giống như tiền bạc, danh vọng. Tất cả là
những quyến rũ khiến cho người ta không tập trung được để đạt tới giải
thoát. Những điều này phải được từ bỏ.
Chiến tranh
Hoa-Nhật bùng nổ, chính cuộc chiến này và ḷng yêu nước trong tôi đă
khơi dậy một vấn đề khiến tôi phải suy nghĩ về niềm tin của ḿnh vào
Phật giáo. V́ khi kẻ thù xâm lăng quốc gia ḿnh, nếu muốn bảo vệ quốc
gia, một người ái quốc phải hy sinh mọi sự để chống lại quân thù. Giáo
thuyết "cấm sát sinh" chính là tự trói tay nộp ḿnh cho kẻ xâm lăng. Và
giáo thuyết cho rằng mọi sự của trần gian đều là giả trá phù vân, vậy
tinh thần ái quốc và ḷng yêu nước cũng là giả trá phù vân sao? Có lẽ
chính giáo thuyết này đă đưa các quốc gia vùng Á Châu (hầu hết theo Phật
giáo) trở thành thuộc địa của Tây Phương hay sống dưới một chiêu bài độc
lập giả hiệu. Trung Hoa phải cẩn thận trong bài học này.
Những tư tưởng
như thế khiến tôi nhận thấy sự khiếm khuyết của Phật giáo. Có thể gom
tóm những khiếm khuyết này như sau:
1. Về phương
diện Khoa học:
Tôi học và hoạt
động trong lănh vực Y Khoa. Với khoa học, mọi sự đều phải được chứng
minh. Những câu chuyện, sự kiện kể trong sách Phật thiếu chứng tích lịch
sử, chỉ là những chuyện thần thoại như thuyết luân hồi chẳng hạn. Những
giáo thuyết này rất quan trọng nhưng không thể minh chứng theo khoa học,
lịch sử hay luận lư.
2. Giáo thuyết
xa vời:
Được trở thành
Phật là cứu cánh của hầu như tất cả các Phật tử, nhưng để đạt được cứu
cánh này, người ta phải trải qua ba h́nh thức hay trạng thái: trạng thái
khổ hạnh, trạng thái hữu thực và trạng thái hư không. Người ta phải
thoát ra ngoài sự nhơ nhớp và tội lỗi của thế tục. Nhưng làm sao một
người có thể thoát ra ngoài thế tục được nếu họ bắt buộc phải sống trong
thế tục đó?
3. Giáo lư trừu
tượng và quá huyền bí:
Sách về Phật
pháp th́ vô số kể. Xét về phương diện văn học, những sách này rất có giá
trị dù khi đă được dịch ra ngoại ngữ, nhưng tất cả đều quá khó hiểu,
khiến người đọc không thể tiến xa hơn được. Giáo lư có thể rất cao vời,
nhưng cần phải được diễn đạt trong tầm hiểu biết của mọi người. Trong
Phật giáo, nghi lễ theo phái Chuan chẳng hạn, được mọi người ưa thích.
Qua nghi lễ này, người tham dự hy vọng sẽ được siêu thoát, được linh
sáng khi suy niệm. Nhưng phương pháp suy niệm lại không hợp lư khiến
ngừơi ta cảm thấy trống rỗng khi kết thúc và sự siêu thoát có vẻ quá cao
vời bất khả đạt.
4. Sự mâu thuẫn
và đối nghịch:
Trong Phật pháp
nhấn mạnh về "cấm sát sinh".
Một ngày nọ, tôi
đến thăm nhà sư nổi tiếng Tai-hsu và hỏi ông: "Chúng tôi là Bác sĩ Y
Khoa, chuyên t́m ṭi, sát hại tiêu diệt các loại vi khuẩn độc tố. Phật
pháp có cho phép chúng tôi làm việc này không?". Sau một lúc im lặng,
nhà sư Tai-hsu trả lời: "Tiêu diệt các loại vi khuẩn độc tố có hại cho
con người không thuộc về giới luật "cấm sát sinh". Tôi im lặng, nhưng
phải giải thích thế nào về nguyên lư b́nh đẳng của sinh vật? Làm sao có
thể phân biệt được lúc nào là sát sinh và lúc nào là không sát sinh?
Một thí dụ khác:
Lamaism là một phái của Phật giáo tại Trung Hoa. Mỗi năm, phái Lamas tổ
chức một buổi lễ Trừ-Tà trong lâu đài Yung-Ho, Bắc Kinh, để xua đuổi tà
thần và chúc lành cho dân chúng. Một trong những vật dụng xử dụng để
đánh đuổi tà thần này là một cây roi dài kết bằng da người. Họ dạy cấm
sát sinh trong khi lại xử dụng một cây roi làm bằng da người là làm sao?
5. Sự thờ ơ lănh
đạm:
Từ bi là một
nhân đức quan trọng của Phật pháp. Nhưng sự từ bi này theo tôi có vẻ rất
vô t́nh: Được thực hiện về h́nh thức nhiều hơn; làm việc bố thí đồng
thời khinh thường kẻ nhận bố thí.
Những điều này
và c̣n nhiều điều khác nữa tôi không nhớ hết, đều là những ư kiến cá
nhân, có thể không đúng với ư kiến của những người khác. Nhưng chính
những điều này đă là những động lực khiến tôi bất đồng và rời bỏ Phật
giáo. Từ đó, không bao giờ tôi đến viếng một ngôi chùa nào và thăm hỏi
một nhà sư nào nữa.
Tuy vậy, những
tư tưởng về sự phù du chóng qua của của cải thế tục và cứu cánh của đời
sống con người vẫn là hai vấn đề làm cho tôi băn khoăn, đặc biệt vào
khoảng thời gian chúng tôi đến Đài Loan.
Công việc tại
nhà thương nơi tôi được gửi tới không nhiều lắm. Tôi có th́ giờ nhiều
hơn để suy tư về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi cảm thấy đời sống
ḿnh sao bấp bênh và trống rỗng quá, có lẽ tôi phải có một tôn giáo làm
nơi nương tựa cho tâm hồn.
Một hôm nọ, đi
dạo trên đường Chung-chen ở Taipei, ngang qua ngôi chùa Shan-tao nhưng
không dừng lại v́ tôi không c̣n cảm thấy chùa chiền là nơi đáp ứng được
những khắc khoải của tâm hồn. Đến cuối đường, nơi một nhà thờ Công giáo
tọa lạc, tôi đă định vào, nhưng cuối cùng tôi nghĩ có lẽ nên gởi thư đến
trước để hỏi thăm vấn đề t́m hiểu về Giáo lư Đạo Công giáo.
Tôi đă liên lạc
được với Cha Fang, Linh mục Chánh sở của nhà thờ, ngài giới thiệu tôi
với Cha Kung để Cha hướng dẫn tôi về Giáo lư.
Tôi rất vui khi
được làm quen với Cha Kung, ngài hướng dẫn tôi t́m hiểu về Giáo lư Đạo
Công giáo. Sau một thời gian, tôi quyết định xin Rửa tội, v́ tôi khám
phá ra đây chính là giáo hội tôi đă bỏ bao thời giờ để kiếm t́m.
So sánh với tôn
giáo tôi đă biết trước đó, tôi nhận thấy như sau:
1. Tất cả những
điều Đạo Công giáo giảng dạy đều có nền tảng Triết học, lịch sử hay Thần
học.
2. Đạo Công giáo
có những tín điều xác thực, không mâu thuẫn, xây dựng trên nền tảng vững
chắc. Có những mầu nhiệm với trí óc con ngừơi không hiểu được, nhưng
Giáo hội tŕnh bày rơ ràng và thành thật rằng những mầu nhiệm này vượt
qua trí tưởng của con người. Giáo hội cũng cho biết lư do tại sao họ
chấp nhận những mầu nhiệm ấy và họ không bao giờ bắt buộc ai phải tin v́
mỗi người đều có tự do riêng.
3. Có những sách
Giáo lư, thủ bản về đạo thích hợp với tŕnh độ của mọi giới. Giải thích
về chân lư để mọi người đặt niềm tin, về các giới răn để mọi người tuân
giữ, về các Bí tích để mọi người lănh nhận và cầu nguyện. Tất cả mọi sự
rất rơ ràng, minh bạch, không giống như Phật giáo, người ta chẳng biết
bắt đầu từ đâu v́ quá nhiều sách vở và những nghi lễ phức tạp.
4. Các Linh mục
Công giáo được Giáo hội trao cho năng quyền giảng dạy từ Chúa Kitô: "Các
con hăy đi rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.". Ai trao quyền cho các
nhà sư giảng dạy? Theo những qui tắc nào? Tiêu chuẩn nào là chính thức?
Tôi chỉ thấy có những nhà sư này giới thiệu, ca tụng nhà sư kia hoặc tự
giới thiệu ḿnh mà không có một bản quyền nào từ trên. Trong Công giáo,
tôi đă t́m thấy và đặt được niềm tin ḿnh trên nền tảng của Đức tin đạo
giáo.
5. Đạo Công giáo
rao giảng về t́nh yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người. Một t́nh
yêu không những không hạ thấp phẩm giá con người, trái lại c̣n nâng con
người lên trong nhân phẩm, thêm sức mạnh linh thiêng và giúp con người
tự tin trong việc trao phó mọi việc nơi Thiên Chúa. Ở bất cứ hoàn cảnh
khó khăn nào luôn luôn họ được Thiên Chúa bảo vệ và ǵn giữ.
6. Đạo Công giáo
mời gọi mọi người sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Những dân tộc sống ở
Tây Phương qua nhiều thế kỷ đă được giáo dục theo những nhân đức này. Họ
trở thành những dân tộc hiếu động, can đảm và lạc quan không phải chỉ
trong lănh vực tôn giáo mà cả ngay trong đời sống hằng ngày. Họ rất
nhiệt thành với sự hăng hái mạnh mẽ trong các lănh vực khoa học, đào sâu
kiến thức con người, xây dựng xă hội, giúp đỡ những kẻ nghèo khó bần
cùng và cải tiến đời sống con người. Tất cả có lẽ chỉ v́ họ đă được giáo
dục trong ba nhân đức thần thông này.
7. Đối diện với
những đau khổ của con người và tội lỗi của thế gian. Đạo Công giáo thực
sự lăn xả vào vấn đề, cố gắng t́m hiểu và biến đổi tất cả nên tốt hơn.
Giống như một ngôi nhà đang bốc cháy, Phật giáo t́m đường chạy ra ngoài
trong khi Công giáo t́m cách vào nhà để dập tắt ngọn lửa. Hoặc cũng
giống như một căn nhà sắp đổ xuống, Phật giáo muốn phá đi hoàn toàn,
nhưng Công giáo t́m cách chống đỡ và xây dựng lại để mọi người có thể ở
trong đó.
8. Đức Giáo
Hoàng qua nhiều thời đại luôn luôn khuyến khích mọi tín hữu yêu mến quốc
gia dân tộc ḿnh, xây dựng đất nước và dự phần vào công việc xă hội, để
t́m hiểu, cải tiến và thánh hoá. Phật giáo lo làm sao để thoát ra ngoài
sự phức tạp này: đi thật xa để không c̣n vướng víu vào nữa.
Tóm lại, cám ơn
Chúa, tôi đă trở thành người Công giáo. V́ tôi đă có dịp t́m hiểu về cả
hai tôn giáo và so sánh. Công giáo đă cho tôi thấy một con đường để cải
tổ xă hội, quốc gia và chính
linh hồn ḿnh. Tôi đă được Rửa tội hơn mười hai năm rồi. Tôi thú nhận là
trong suốt khoảng thời gian này tôi đă chưa đạt được những tiến triển về
đường nhân đức, nhưng tôi hạnh phúc v́ ḿnh là người Công giáo. Cả gia
đ́nh tôi cũng đă Rửa tội và bất cứ khi nào có thể, tôi đều loan truyền
đạo Công giáo đến bạn bè và những đồng nghiệp của tôi.
Bac sĩ Chang Shu Wen
|