|

Sứ Điệp Hòa Bình
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 540 Thứ Sáu
14/1/2011
Ngày Thế
Giới
Hòa
Bình bắt
đầu
được
Giáo Hội
Công Giáo cử
hành lần
đầu
tiên vào ngày
đầu
năm
Dương
Lịch
1/1/1968 theo chỉ
thị
của
Đức
Thánh Cha Phaolô VI. Mỗi
năm,
Vị
Lãnh
Đạo
Tối
Cao của
Giáo Hội
Công Giáo
đều
gửi
cho chung thế
giới
và riêng Giáo Hội
của
mình một
Sứ
Điệp
để
suy nghĩ
và thực
hành. Trong suốt
giòng lịch
sử
44 năm
này của
Ngày Thế
Giới
Hòa Bình, có hai Sứ
Điệp
Hòa Bình phải
nói là
đáp
ứng
cấp
thời
của
Giáo Hội
Công Giáo với
tình hình thế
giới
vừa
mới
xẩy
ra trong năm
trước
đó.
Đó
là Sứ
Điệp
Hòa Bình cho năm
2002
và năm
2011. Thật
vậy,
Sứ
Điệp
Hòa Bình năm
2002 là
đáp
ứng
của
Giáo Hội
sau biến
cố
khủng
bố
tấn
công Hoa Kỳ
ngày 11/9/2001, một
sứ
điệp
không phải
chỉ
nhắm
đến
thành phần
thực
hiện
cuộc
khủng
bố
tấn
công này thuộc
thế
giới
Ả
Rập
Hồi
giáo, mà còn cả
thành
phần
tấn
công khủng
bố
là Tây phương
do Hoa Kỳ
lãnh
đạo
nữa.
Đó
là lý do Sứ
Điệp
Hòa Bình 2002 mới
có nhan
đề:
“Hòa Bình Không Thể
Thiếu
Công Lý, Công Lý Không Thể
Thiếu
Thứ
Tha”.
Cũng
thế,
Sứ
Điệp
Hòa Bình cho năm
2011 là
đáp
ứng
của
Giáo Hội
sau biến
cố
khủng
bố
Kitô hữu
Công giáo
ở
Iraq xẩy
ra vào ngày 31/10/2010, một
sứ
điệp
vì thế
mang tựa
đề:
“Tự
Do Tôn Giáo – Con
Đường
Hòa Bình”,
một
sứ
điệp,
tuy nhiên, như
Sứ
Điệp
2002, nhắm
đến
cả
hai thành phần,
thành phần
cuồng
tín khủng
bố,
thuộc
thế
giới
Hồi
giáo, và cả
thành phần
văn
minh khủng
bố,
thuộc
thế
giới
Tây phương.
Giờ
đây,
chúng ta cùng nhau theo dõi Sứ
Điệp
Hòa Bình 2011 của
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI.
“Tự Do Tôn Giáo – Đường Lối dẫn đến Hòa Bình”
1- Vào lúc mở màn cho tân niên, tôi gửi những lời chúc tốt đẹp
ước mong từng người và tất cả mọi người được thái hòa và thịnh vượng,
nhất là bình an. Buồn thay, năm mà giờ đây đang kết thúc lại bắt đầu ghi
dấu bách hại, kỳ thị, những hành động kinh khiếp của bạo lực và bất dung
tôn giáo.
Tôi đặc
biệt nghĩ đến xứ sở thân yêu Iraq là nơi tiếp tục trở thành một khấu
trường của bạo lực và tranh chấp bất hòa trong lúc xứ sở này đang tiến
tới một tương lai ổn định và hòa giải. Tôi nghĩ đến những khổ đau mới
đây của cộng đồng Kitô hữu, đặc biệt là cuộc tấn công đáng trách vào
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp thuộc lễ nghi Công Giáo Syro
ở Baghdad, nơi mà vào ngày 31/10 đã có hai vị linh mục cùng với trên 50
tín hữu bị sát hại khi họ tụ họp cử hành Thánh Lễ. Vào những ngày sau đó
lại xẩy ra các cuộc tấn công khác, thậm chí vào cả các tư gia, gây ra
một nỗi lo sợ trong cộng đồng Kitô hữu và khiến nhiều người muốn di tản
để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi bảo đảm với họ về sự gần gũi
của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội, một sự gần gũi đã được cụ thể
bày tỏ trong Cuộc Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông Đặc Biệt vừa rồi.
Thượng Nghị này đã phấn khích các cộng đồng Công giáo ở Iraq cũng như ở
khắp Trung Đồng hãy sống hiệp thông và tiếp tục cống hiến chứng từ đức
tin can trường nơi các miền đất ấy.
Tôi chân
thành cám ơn những Chính Phủ đang hoạt động để giảm bớt những khổ đau
của những miền đất ấy, của những người anh chị em của chúng ta trong gia
đình nhân loại, và tôi xin tất cả mọi người Công giáo cầu nguyện và nâng
đỡ những người anh chị em của mình trong đức tin, những người đang là
nạn nhân của bạo lực và bất dung. Bởi thế tôi đặc biệt thật là thích hợp
để chia sẻ một số suy tư về tự do tôn giáo như là đường lối tiến tới hòa
bình. Thật là đớn đau khi nghĩ đến ở một số miền trên thế giới
người ta không thể tuyên xưng đạo giáo của mình một cách tự do trừ phi
liều mạng và liều mất tự do cá nhân. Ở những miền khác chúng ta thấy
những hình thức thành kiến và hận thù tinh khéo và phức tạp hơn đối với
thành phần tín hữu cũng như với các biểu hiệu tôn giáo. Hiện nay, Kitô
hữu là nhóm tôn giáo đang chịu đựng nhất bởi cuộc bách hại vì niềm tin
của mình. Nhiều Kitô hữu hằng ngày cảm thấy bị lăng nhục và thường sống
trong nỗi sợ hãi vì việc họ theo đuổi đức sự thật, vì niềm tin tưởng của
họ nơi Chúa Giêsu Kitô cũng như niềm thỉnh nguyện chân thành của họ đối
với việc tôn trọng tự do tôn giáo. Tình trạng này là những gì bất khả
chấp, vì nó tiêu biểu cho một thứ sỉ nhục Thiên Chúa và phẩm vị của con
người; ngoài ra, nó còn là mối đe dọa đối với tình trạng an ninh và an
bình, và là một cướng ngại cho việc đạt tới việc phát triển đích thực và
toàn vẹn con người (1).
Tự do
tôn giáo thể hiện những gì là đặc thù về con người, vì nó giúp cho chúng
ta có thể hướng đời sống cá nhân và xã hội của chúng ta về Thiên Chúa,
Đấng trong Ngài mới hoàn toàn sáng tỏ căn tính, ý nghĩa và mục đích của
con người. Việc chối bỏ hay độc đoán hạn chế quyền tự do này là việc
nuôi dưỡng một nhãn quan giảm thiểu về con người; việc làm lu mờ đi vai
trò công khai của tôn giáo là việc tạo nên một xã hội bất chính, vì nó
không lưu tâm gì tới bản tính chân thực của con người; nó là việc làm
lịm tắt đi sự tăng triển của nền hòa bình đích thực và bền vững của toàn
thể gia đình nhân loại.
Đó là lý do tôi thiết tha xin tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm hãy
tái tấu việc dấn thân của mình trong việc xây dựng một thế giới là nơi
tất cả mọi người tự do tuyên xưng đạo giáo hay niềm tin của mình, cùng
bày tỏ tình yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn của
mình (cf. Mt 22:37). Đó là cảm thức tác động và chi phối Sứ
Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 44 này, một sứ điệp chú trọng tới đề
tài: Tự Do Tôn Giáo, Đường Lối dẫn đến Hòa Bình.
Một linh
quyền được sự sống và sự sống thiêng liêng
2- Quyền tự do tôn giáo là những gì xuất phát từ chính
phẩm giá của con người (2), mà bản tính siêu việt của họ không
được bỏ qua hay coi thường. Thiên Chúa đã dựng nên con người nam nữ theo
hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài (cf. Gen 1:27). Vì thế, mỗi người
có được một linh quyền sống một cách trọn vẹn, theo cả quan điểm
thiêng liêng nữa. Không nhìn nhận bản thể thiêng liêng của mình, thiếu
cởi mở với siêu việt thể, con người thu rút mình lại, không thấy được
những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất về ý nghĩa của cuộc sống,
không có được những giá trị và nguyên tắc luân lý bền vững, và thậm chí
không cảm nghiệm được tự do đích thực và xây dựng một xã hội công chính
(3).
Thánh
Kinh, hợp với kinh nghiệm của chúng ta, cho thấy giá trị sâu xa của phẩm
giá con người: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã
an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà
Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay
Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Ps 8:4-7).
Khi
chiêm ngưỡng thực tại cao sang của bản tính con người, chúng ta có thể
cảm nghiệm thấy được nỗi ngỡ ngàng bàng hoàng như vị Thánh Vịnh gia đã
nghiệm cảm. Bản tính của chúng ta hiện lên như là những gì hướng về Mầu
Nhiệm, như một khả năng đặt ra những câu hỏi sâu xa về chính mình cùng
nguồn gốc của vũ trụ, và là một âm vọng về Tình Yêu cao cả của Thiên
Chúa, Đấng là nguyên ủy và là cùng đích của tất cả mọi sự, của hết mọi
người và mọi dân tộc (4). Phẩm giá siêu việt của con người là một giá
trị thiết yếu của đức khôn ngoan Do Thái Giáo và Kitô Giáo, tuy nhiên,
nhờ việc sử dụng lý trí, nó cũng có thể được tất cả mọi người công nhận.
Phẩm giá này, được hiểu như một khả năng vượt lên trên tính chất vật thể
của con người và tìm kiếm chân lý, cần phải được hiểu như là một sự
thiện phổ quát, bất khả thiếu trong việc xây dựng một xã hội hướng
tới tầm vóc viên trọn của con người. Việc tôn trọng các yếu tố thiết yếu
của phẩm giá con người, như quyền sống và quyền tự do tôn giáo, là điều
kiện cần cho tính chất chính đáng về luân lý của hết mọi qui chuẩn về xã
hội và pháp lý.
Quyền tự
do tôn giáo và việc tương kính
3- Quyền tự do tôn giáo xuất phát từ quyền tự do luân lý.
Việc hướng về chân lý và sự thiện trọn hảo, hướng về Thiên Chúa, là
những gì xuất phát từ bản tính của nhân loại; Hành động hướng chiều này
mang lại trọn vẹn phẩm vị cho từng cá nhân và sự bảo đảm cho việc trọn
vẹn tương kính giữa người với nhau. Bởi thế, quyền tự do tôn giáo cần
phải được hiểu không phải chỉ là vấn đề được miễn khỏi tình trạng áp
bức, nhưng thậm chí sâu xa hơn nữa như là một khả năng điều hướng việc
chọn lựa của con người theo đúng sự thật.
Tự do và
việc tôn trọng là những gì bất khả phân ly; thật vậy, “trong việc hành
sử các thứ quyền hạn của mình, cá nhân cũng như các phái nhóm xã hội bị
chi phối bởi luật luân lý liên quan tới các quyền lợi của người khác,
các nhiệm vụ của họ đối với người khác và công ích của tất cả mọi người”
(5).
Thứ tự
do tỏ ra hận thù và dửng dưng với Thiên Chúa là những gì tự phủ nhận
mình và không bảo đảm việc hoàn toàn tôn trọng người khác. Thứ ý muốn
tin rằng mình hoàn toàn không thể nào tìm kiếm được sự thật và sự thiện
thì không có những lý do hay động lực khách quan nào để hành động, ngoài
những lý do hay động lực bị áp đảo bởi những khuynh hướng phù du và tùy
thuộc của nó; nó không có một “căn tính” để bảo toàn và dựng xây với
những quyết định thực sự tự do và ý thức. Bởi thế, nó không thể nào đòi
hỏi “những ý muốn” của người khác phải tôn trọng nó, những ý muốn tự
chúng cũng tách rời khỏi bản chất sâu xa nhất của chúng nên có thể áp
đặt “các thứ lý lẽ” khác, hay bởi thế, chúng chẳng có “lý lẽ’ gì hết.
Cái ảo tưởng về cái then chốt cho cuộc chung sống an bình được chủ nghĩa
tương đối về luân lý cống hiến thực sự là nguồn gốc của những thứ chia
rẽ và là việc chối bỏ phẩm vị con người. Bởi thế chúng ta có thể thấy
được việc cần phải nhìn nhận một chiều kích lưỡng diện trong mối hiệp
nhất của con người: chiều kích tôn giáo và chiều kích xã hội. Về vấn đề
này, “không thể nào tin được rằng thành phần tín hữu cần phải trấn át
mình – trấn át đức tin của mình – để trở thành những người công dân chủ
động. Không bao giờ cần phải chối bỏ Thiên Chúa để hoan hưởng các quyền
hạn của mình”
(6).
Một gia
sản chung
5- Có thể nói rằng trong số các quyền lợi và quyền tự do
nống cốt xuất phát từ phẩm giá của con người thì quyền tự do tôn giáo
nắm một vị thế đặc biệt. Một khi quyền tự do tôn giáo được công
nhận thì phẩm giá của con người mới được sâu xa tôn trọng, và những đặc
tính cùng các cơ cấu của các dân tộc mới được vững mạnh. Trái lại, bất
cứ khi nào quyền tự do tôn giáo bị khước từ, và dân chúng bị gây cản trở
việc tuyên xưng đạo giáo hay đức tin của mình cùng sống một cách thích
hợp với đạo giáo hay niềm tin của mình, thì phẩm giá của con người bị
xúc phạm, công lý và hòa bình theo đó cũng bị đe dọa, một công lý và hòa
bình được thiết dựng trên một trật tự xã hội đúng đắn trong ánh sáng của
Sự Thật Tối Hậu và Sự Thiện Tối Cao.
Theo ý
nghĩa ấy thì quyền tự do tôn giáo cũng là một cuộc chiếm đạt của
một nền văn hóa chính trị và pháp lý lành mạnh. Nó là một sự
thiện chính yếu: mỗi người cần phải được tự do hành sử quyền tuyên xưng
và bày tỏ, theo cá nhân hay chung cộng đồng, đạo giáo hay niềm tin của
mình, một cách công khai hay riêng tư, qua việc giảng dạy, việc hành
đạo, việc phát hành, việc thờ phượng cũng như việc tuân giữ các nghi
thức. Không được gây trở ngại cho việc họ dần dần muốn thuộc về một tôn
giáo hay không muốn tuyên xưng một đạo giáo nào. Trong bối cảnh ấy, luật
lệ quốc tế là một mẫu thức và là một điểm tựa thiết yếu cho các quốc
gia, ở chỗ luật lệ này không để xẩy ra tình trạng xúc phạm đến quyền tự
do tôn giáo, bao lâu biết tuân giữ những đòi hỏi chính đáng của trật tự
chung (7). Trật tự quốc tế như thế nhìn nhận rằng các quyền hạn của một
bản chất về tôn giáo có cùng một vị thế như quyền sống và quyền tự do cá
nhân, như chứng cớ của sự kiện cho thấy chúng thuộc về cái cốt lõi
thiết yếu của các thứ nhân quyền, thuộc về các quyền phổ quát và tự
nhiên mà luật lệ của con người không bao giờ có thể chối bỏ.
Quyền tự
do tôn giáo không phải là thứ gia sản chuyên biệt của thành phần tín hữu
mà là của toàn thể gia đình cư dân trên trái đất này.
Nó là một yếu tố thiết yếu của một quốc gia theo pháp chế; nó không thể
bị khước từ mà đồng thời lại không xâm phạm tới tất cả mọi quyền lợi và
quyền tự do nồng cốt khác, vì nó là tổng luận và là yếu tố chủ yếu của
chúng. Nó là “một kiểm chứng cho việc tôn trọng tất cả mọi thứ quyền lợi
của con người” (8). Vì nó thuận lợi cho việc hành sử các tài năng nhân
bản chuyên biệt nhất của chúng ta mà nó tạo nên những nền tảng cần thiết
để đạt tới tình trạng phát triển toàn vẹn liên quan tới toàn thể
con người ở hết mọi chiều kích đặc biệt (9).
Chiều
kích công khai của tôn giáo
6- Quyền tự do tôn giáo, như hết mọi quyền tự do khác,
tiến hành từ lãnh vực cá nhân và đạt tới nơi mối liên hệ với người khác.
Tự do mà thiếu liên hệ thì không phải là tự do trọn vẹn.
Quyền tự do tôn giáo không bị giới hạn nguyên ở chiều kích cá nhân,
nhưng đạt tới trong cộng đồng của con người ta cũng như trong xã hội, y
như bản chất liên hệ của con người với bản tính công khai của tôn giáo
vậy.
Mối liên
hệ
là một yếu tố quyết liệt nơi quyền tự do tôn giáo, một yếu tố thúc đẩy
cộng đồng tín hữu thực hành tình đoàn kết vì công ích. Theo chiều kích
cộng đồng này, mỗi một người vẫn chuyên biệt và bất khả tái sao bản,
đồng thời lại tiến tới chỗ viên trọn và hoàn toàn hiện thực nữa.
Việc
đóng góp của các cộng đồng tôn giáo cho xã hội là những gì không thể
chối cãi. Vô vàn các tổ chức bác ái và văn hóa đã chứng thực cho vai trò
xây dựng của thành phần tín hữu trong đời sống xã hội. Quan trọng hơn
vẫn là việc đóng góp về đạo lý của tôn giáo vào lãnh vực chính trị.
Không được cấm đoán hay loại trừ tôn giáo, nhưng phải coi như thực hiện
việc đóng góp hiệu năng vào vấn đề cổ võ cho công ích. Theo chiều hướng
ấy cần phải đề cập tới chiều kích tôn giáo của văn hóa, một văn hóa được
dựng xây qua các thế kỷ nhờ những đóng góp về xã hội và đặc biệt về đạo
lý của tôn giáo. Chiều kích này không hề đố kỵ đối với những ai không có
cùng niềm tin tưởng của mình, nhưng tái củng cố sự gắn bó xã hội, mối
thống nhất và tình đoàn kết.
Quyền tự
do tôn giáo, một năng lực cho quyền tự do và nền văn minh: những nguy
hiểm gây ra bởi việc khai thác nó.
7- Việc khai thác quyền tự do tôn giáo để che đậy những lợi
lộc kín đáo, như việc lật đổ trật tự được thiết định, việc dự trữ các
nguồn nhiên liệu hay việc nắm giữ quyền lực của một nhóm độc nhất, có
thể gây ra tai hại khổng lồ cho các xã hội.
Chủ
nghĩa cuồng tín, chủ nghĩa cực đoan và các thực hành phản lại với phẩm
giá của con người không bao giờ là chính đáng hết, càng không thể nhân
danh tôn giáo mà làm. Việc tuyên xưng của một tôn giáo không thể bị khai
thác hay áp đặt bằng quyền lực. Các quốc gia và các cộng đồng nhân loại
khác không bao giờ được quên rằng quyền tự do tôn giáo là điều
kiện để theo đuổi sự thật, và sự thật không áp đặt mình bằng võ lực
nhưng “bằng quyền năng sự thật của chính mình” (10). Theo ý
nghĩa đó thì tôn giáo là một tác lực tích cực cho việc xây dựng xã
hội dân sự và chính trị.
Ai có
thể phủ nhận được việc đóng góp của các tôn giáo lớn trên thế giới này
vào việc phát triển văn minh?
Việc chân thành tìm kiếm Thiên Chúa đã dẫn tới việc tôn trọng hơn đối
với phẩm giá của con người. Các cộng đồng Kitô hữu, bằng gia sản
các giá trị và nguyên tắc của mình, đã góp phần rất nhiều vào việc giúp
cho cá nhân cũng như chư dân ý thức được căn tính của họ và phẩm vị của
họ, việc thiết lập các cơ cấu dân chủ và việc nhìn nhận các thứ nhân
quyền cùng với các nhiệm vụ tương ứng của các nhân quyền này.
Cả ngày
nay nữa, trong một xã hội càng ngày càng toàn cầu hóa, Kitô hữu được kêu
gọi, chẳng những qua việc tham gia của họ vào đời sống dân sự, kinh tế
và chính trị, mà còn qua chứng từ bác ái và niềm tin của họ nữa, để cống
hiến một đóng góp giá trị cho việc cần cù và phấn chấn theo đuổi công lý,
việc phát triển toàn vẹn con người và việc quản trị đúng đắn các thứ
nhân vụ. Việc loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống công khai làm cho đời
sống công khai bị hụt hẫng chiều kích hướng về siêu việt thể. Thiếu mất
cảm nghiệm nền tảng này, khó có thể hướng dẫn các xã hội hướng tới những
nguyên tắc phổ quát về đạo lý cũng như khó có thể thiết lập ở tầm cấp
quốc gia và quốc tế một trật tự về pháp lý hoàn toàn nhìn nhận và tôn
trọng các quyền lợi và quyền tự do như những thứ quyền này được nêu lên
làm đích điểm – tiếc thay vẫn bị gạt đi hay phủ nhận – của Bản Tuyên
Ngôn Chung Nhân Quyền năm 1948.
Sống
trong yêu thương và sự thật
10- Trong một thế giới toàn cầu hóa được đánh dấu bằng các xã hội
gia tăng về đa chủng và đa tôn, các đại tôn giáo có thể trở thành một
yếu tố quan trọng của mối hiệp nhất và của nền hòa bình cho gia đình
nhân loại. Căn cứ vào những niềm xác tín về đạo giáo của mình và việc
theo đuổi sáng suốt cho công ích, thành phần môn đồ của những đại tôn
giáo này được kêu gọi cống hiến việc thể hiện một cách hữu trách cuộc
dấn thân của họ trong bối cảnh tự do tôn giáo. Giữa tính chất khác nhau
của các thứ văn hóa về tôn giáo, cần phải trân quí những yếu tố bảo trì
việc chung sống về dân sự, trong khi đó loại trừ đi bất cứ những gì phản
với phẩm giá của con người nam nữ.
Vị trí
công khai cộng đồng quốc tế giành cho các tôn giáo cùng với đề án của
chúng về những gì kiến tạo nên một “đời sống tốt lành” giúp làm nên một
thứ đo lường của sự thuận ý về sự thật và sự thiện, cũng như một sự đồng
thuận về luân lý; cả hai điều này là nền tảng cho cuộc chung sống chính
đáng và an bình. Các nhà lãnh đạo của những đại tôn giáo, nhờ vị thế của
mình, ảnh hưởng của mình và thẩm quyền của mình trong các cộng đồng
riêng của họ, là những người đầu tiên được kêu gọi thực hiện việc tương
kính và đối thoại.
Về phần
mình, các Kitô hữu được đức tin vào Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu
Kitô thúc đẩy sống như những người anh chị em gặp gỡ nhau trong Giáo Hội
và cùng nhau hoạt động để xây dựng một thế giới
trở thành nơi các cá nhân và chư dân “không còn gây thương tổn hay hủy
hoại… vì trái đất sẽ tràn đầy kiến thức của Chúa như nước bao trùm biển
khơi” (Is 11:9).
Bên
ngoài hận thù và thành kiến
13- Bất chấp những bài học của lịch sử cùng các nỗ lực của các
quốc gia, của các tổ chức quốc tế và các vùng, của các tổ chức không
thuộc chính phủ và của nhiều con người nam nữ thiện tâm, thành phần hằng
ngày hoạt động để bảo vệ các quyền lợi và quyền tự do căn bản, thế giới
ngày nay cũng vẫn chứng kiến thấy những trường hợp bách hại, kỳ thị,
những hành động bạo lực và bất dung dựa vào tôn giáo. Đặc biệt là ở Á
Châu và Phi Châu, các nạn nhân chính là các phần tử thuộc thành phần
thiểu số về tôn giáo, thành phần bị ngăn cản không được tự do tuyên xưng
hay thay đổi tôn giáo của mình bằng những hình thức dọa nạt và vi phạm
đến các quyền lợi của họ, đến các quyền tự do căn bản của họ và đến các
sản vật thiết yếu của họ, bao gồm cả việc mất tự do cá nhân và chính
mạng sống.
Như tôi
đã nói, cũng có cả những hình thức khôn khéo hơn tỏ ra hận thù tôn
giáo, những hình thức mà, ở các quốc gia Tây phương, thỉnh thoảng được
thấy thể hiện nơi việc chối bỏ lịch sử và phủ nhận các biểu hiệu về tôn
giáo phản ảnh căn tính và văn hóa của đa số thành phần công dân.
Những hình thức hận thù này cũng nuôi dưỡng cả những gì là căm ghét và
thành kiến; chúng không hợp với một nhãn quan trong sáng và quân bình về
đa nguyên tính và thế tục tính của các cơ cấu tổ chức, chưa nói tới sự
kiện là các thế hệ tương lai có nguy cơ bị mất đi cái di sản thiêng
liêng vô giá nơi các xứ sở của họ.
Tôn giáo
cần được bênh vực bằng việc bênh vực các quyền lợi và tự do của các cộng
đồng tôn giáo. Các vị lãnh đạo của các đại tôn giáo trên thế giới và các
vị lãnh đạo của các quốc gia, vì thế, cần phải tái tấu việc dấn thân của
mình trong việc cổ võ và bảo vệ quyền tự do tôn giáo, nhất là trong việc
bênh vực các thành phần thiểu số tôn giáo; những thành phần thiểu số tôn
giáo này không phải là mối đe dọa cho căn tính của thành phần đa số, mà
là một cơ hội cho việc đối thoại và làm cho nhau phong phú hơn về văn
hóa. Việc bênh vực họ là đường lối lý tưởng để củng cố tinh thần thiện
tâm, cởi mở và hỗ tương là những gì bảo đảm cho việc bảo vệ các quyền
lợi và quyền tự do căn bản ở tất cả mọi lãnh vực và các miền đất trên
thế giới.
Quyền tự
do tôn giáo trên thế giới
14- Sau hết, tôi muốn ngỏ lời với các cộng đồng Kitô hữu đang chịu
bách hại, kỳ thị, bạo lực và bất dung, nhất là ở Á Châu, ở Phi Châu, ở
Trung Đông và đặc biệt ở Thánh Địa, một nơi được Thiên Chúa chọn và chúc
phúc. Một lần nữa tôi cam đoan với họ về lòng cảm mến và lời nguyện cầu
phụ thân của tôi, và tôi xin tất cả những ai có thẩm quyền hãy ra tay
ngay để chấm dứt hết những gì là bất công phạm đến các Kitô hữu đang
sống ở những miền đất ấy. Trước những khó khăn hiện tại, chớ gì thành
phần môn đệ của Chúa Kitô không cảm thấy chán nản, vì việc làm chứng
cho Phúc Âm là và bao giờ cũng là một dấu hiệu phản khắc.
Chúng ta
hãy thấm thía những lời Chúa Giêsu phán: “Phúc cho những ai than khóc,
vì họ sẽ được ủi an… Phúc cho những ai đói khát công lý, vì họ sẽ được
no thỏa… Phúc cho các con khi người ta sỉ vả các con và bách hại các con
cùng tung ra đủ mọi sự dữ sai phạm đến các con vì Thày. Hãy hân hoan và
vui mừng, vì phần thưởng của các con cao cả trên trời” (Mt 5:4-12). Bởi
vậy chúng ta hãy lập lại “lời chúng ta hứa tha thứ và xin lỗi khi chúng
ta xin Thiên Chúa tha thứ trong Kinh Lạy Cha. Chính chúng ta nêu
lên điều kiện và cấp độ của tình thương được chúng ta kêu xin khi chúng
ta nguyện cầu rằng ‘và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha
kẻ có nợ chúng con’ (Mt 6:12)” (17). Bạo lực không thể bị khống chế bằng
bạo lực. Chớ gì những tiếng kêu đau thương của chúng ta luôn được kèm
theo bởi đức tin, đức cậy cũng như bởi chứng từ đức mến Chúa của chúng
ta. Tôi cũng hy vọng rằng ở Tây phương, nhất là ở Âu Châu, sẽ chấm
dút thái độ thù ghét và thành kiến chống lại Kitô hữu vì họ cương quyết
hướng đời sống của mình trung thành với những giá trị và nguyên tắc được
bày tỏ trong Phúc Âm. Chớ gì Âu Châu hãy hòa giải với các cội gốc Kitô
giáo của mình, những gì là nền tảng để hiểu biết về vai trò quá khứ của
mình, hiện tại cũng như tương lai của nó trong lịch sử; nhờ đó nó mới
cảm nghiệm được công lý, thuận hòa và an bình bằng việc vun trồng một
cuộc chân thành đối thoại với tất cả mọi dân nước.
Tự do
tôn giáo, con đường hòa bình
15- Thế giới này đang cần đến Thiên Chúa. Nó đang cần đến những
thứ giá trị chung về đạo lý và thiêng liêng, và tôn giáo có thể cống
hiến một đóng góp quí báu vào việc theo đuổi thực hiện của mình, cho
việc xây dựng một trật tự xã hội chính đáng và an bình ở cấp quốc gia và
quốc tế.
Hòa bình
là tặng ân của Thiên Chúa và đồng thời cũng là một công việc không bao
giờ hoàn trọn. Xã hội nào hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa
bình hơn, thứ hòa bình không phải chỉ là sự vắng bóng chiến tranh hay là
thành quả của quyền lực về quân sự hoặc kinh tế, lại càng không phải là
những việc lừa đảo hay khéo léo mạo dụng. Trái lại, hòa bình là thành
quả của một tiến trình của việc thanh tẩy và của việc thăng hóa về văn
hóa, luân lý và thiêng liêng liên quan đến từng người và từng dân tộc,
một tiến trình nhân phẩm của con người hoàn toàn được tôn trọng.
Tôi mời gọi tất cả những ai muốn trở nên thành phần xây dựng hòa bình,
nhất là giới trẻ, ãy lắng nghe tiếng nói trong tâm can của mình nhờ đó
tìm nơi Thiên Chúa một cứ điểm vững vàng trong việc đạt chiếm một thứ tự
do chân thực, một mãnh lực khôn lường có thể cống hiến cho thế giới một
hướng đi và tinh thần mới, và có thể thắng vượt những lầm lẫn của quá
khứ. Theo lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị chúng ta nặng nợ
về sự khôn ngoan và viễn kiến trong việc thiết lập Ngày Thế Giới Hòa
Bình: “Trước tất cả mọi sự, cần cống hiến hòa bình bằng các thứ
khí giới khác – khác với những thứ khí giới dùng để tàn sát và hủy diệt
nhân loại. Cái cần trên hết là các thứ khí giới về luân lý, những thứ
khí giới cống hiến sức mạnh và uy tín cho luật lệ quốc tế – thứ khí giới,
trước hết, của việc tuân giữ các hiệp ước” (18). Quyền tự
do tôn giáo là một thứ khí giới đích thực của hòa bình,
bằng một sứ vụ lịch sử và ngôn sứ. Hòa bình là những gì mang lại
đầy đủ hoa trái cho những phẩm chất và tiềm năng sâu xa nhất của con
người, những phẩm chất có thể thay đổi thế giới và làm cho nó nên tốt
hơn. Nó mang lại niềm hy vọng cho một tương lai công lý và hòa bình,
thậm chí có gặp phải bất công và tình trạng nghèo khổ về thể lý và luân
lý. Chớ gì tất cả mọi con người nam nữ, cùng các xã hội ở hết mọi cấp độ
và ở hết mọi phần đất trên thế giới này, sớm cảm nghiệm được quyền tự
do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình!
|
|