Tuyệt Đỉnh Thời Gian

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 543 Thứ Sáu 4/2/2011

 

 

Vào những ngày đầu xuân, người Việt Nam thường hay chúc nhau "được mọi sự như ư". Thế nhưng, nếu chúc nhau một điều không bao giờ đạt được như thế trên trần gian này th́ chẳng khác ǵ cho nhau "ăn bánh vẽ", cho nhau những ǵ không thật và lời chúc của chúng ta mặc nhiên vô t́nh mang tính chất giả dối. Đó là lư do người Kitô hữu Công giáo chúng ta nên chúc các người thân yêu và bạn bè của ḿnh: "được mọi sự như ư Chúa". Chúng ta cũng nên cần phải luôn ư thức và nhắc nhở cho nhau rằng: Mọi sự sẽ qua đi hết, chẳng hạn như năm 2010 đă qua đi rồi, và sẽ không bao giờ có năm 2010 nữa, nhưng cái ǵ vĩnh viễn tồn tại cho dù mọi sự có qua đi, cho dù năm 2010 có qua đi, mới là điều thiết yếu và tối ư quan trọng.

 

Bởi thế, nhân dịp mừng tân niên Âm Lịch, thiết tưởng chúng ta cũng nên ư thức về ư nghĩa thời gian theo chiều kích Kitô học, nhờ đó đời sống trần gian của chúng ta trong thung lũng châu lệ mau qua tạm gửi này có được một ư nghĩa mang đầy những giá trị siêu việt và bất diệt.

 

Kính thưa quí vị, thời gian, đối với các loài sinh vật như thực vật và động vật, chẳng có nghĩa lư ǵ ngoài tiến tŕnh phát triển vô tri theo định luật thiên nhiên, chết là hết. Tuy nhiên, cho dù thời gian chỉ có ư nghĩa đối với con người “linh ư vạn vật” là loài được dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26-27), lịch sử của con người vẫn không phải là một huyền sử hay của một thứ lịch sử theo chủ thuyết tiến hóa của một cuộc đấu tranh giai cấp mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết. Bởi v́, lịch sử đă trở thành chứng nhân của Mạc Khải Thần Linh và mang dấu vết của Mạc Khải Thần Linh, như được ghi nhận trong Thánh Kinh Cựu Ước qua gịng Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái, và c̣n tiếp tục qua Giáo Hội Chúa Kitô cho đến tận thế. 

 

Thời Gian Hiện Thân nơi Không Gian

 

Nói đến thời gian là nói đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Thế nhưng, có thể nói, nếu không có con người cũng không có thời gian… Tại sao? Tại v́, trong tất cả mọi sự thuộc thế giới không gian, tức thế giới thiên nhiên tạo vật, chỉ có con người mới nhận thức được thời gian, mới đi làm lịch sử, mới tiến hóa theo thời gian, nói đúng hơn, mới làm cho thời gian đạt được mục đích hiện hữu của nó với vai tṛ là một thực tại trung gian, một thực tại qui hướng về vĩnh cửu, về Thực Tại Thần Linh toàn hảo tối thượng là cùng đích của tất cả mọi sự nói chung và nhất là của loài linh ư vạn vật nói riêng. Bởi thế, không có con người, th́ dù hiện hữu, giá trị của thời gian sẽ là ǵ và ở chỗ nào? Phải chăng nó là một tiến tŕnh mù quáng của vật chất, của thiên nhiên tạo vật?

 

Vẫn biết không gian và thời gian đồng qui ở chỗ hữu hạn, ở chỗ có cùng, có bắt đầu và có kết thúc, và dù cho thời gian và không gian có hội ngộ nhau ở bốn mùa thời tiết xuân, hạ, thu, đông, v́ “thời” đây là thời gian và “tiết” đây thuộc về không gian. Thế nhưng, theo hiện tượng vật lư, thời gian hoàn toàn tùy thuộc vào không gian và được con người sử dụng làm phương tiện đo đếm không gian. Bởi v́, theo con người hiểu biết và khám phá về khoa học, ngày giờ năm tháng của thời gian trên trái đất này lệ thuộc vào cuộc xoay vần vận chuyển của không trung vũ trụ, như một ngày là do kết quả của một ṿng xoay (rotation) của trái đất chung quanh chính tâm trục của nó, hay một năm là do kết quả của một ṿng quay (movement) của trái đất chung quanh mặt trời v.v. Ở những nơi có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, như ở Hoa Kỳ hay ở miền Bắc Việt Nam, th́ ngày dài vào mùa hè và đêm dài vào mùa đông. Thế nhưng, vấn đề cần phải giải quyết ở đây là thái dương hệ, tiêu biểu cho không gian vũ trụ đây, được h́nh thành từ lúc nào và bắt đầu hoạt động chuyển vận của nó như thế bao lâu rồi?

 

Đó là lư do, theo triết lư, nếu không gian vũ trụ hay thiên nhiên tạo vật không tự ḿnh mà có th́ nó phải có trong thời gian và tồn tại cũng như phát triển theo thời gian. Theo quan sát khoa học, nếu xẩy ra đúng như định luật tự nhiên, th́ mọi sự, nhất là loài sinh vật, xuất hiện ở một lúc nào đó, rồi phát triển theo thời gian, cho đến khi hết thời của nó. Chẳng hạn, sau cuộc ân ái của vợ chồng vào đúng thời gian trứng rụng của người vợ, th́ b́nh thường trong thời gian tối đa 48 tiếng là người vợ có thể mang bầu, và qua thời gian ấn định 9 tháng 10 ngày sau đó là người con ra đời; và con người mới này, sau khoảng thời gian ấu nhi và thiếu nhi, họ sẽ bắt đầu tiến vào thời gian dậy th́, thời gian phát triển sinh lư, với những phát triển mới mẻ trên thân xác liên quan đến cơ phận sinh dục của họ v.v. Thế rồi, cũng theo tiến tŕnh b́nh thường, vào một thời gian nào đó, 70 tuổi hay 100 tuổi, cuối cùng, con người sẽ qua đi. Không phải con người chết là hết thời mà là v́ hết thời của ḿnh nên con người chết đi. Bởi thế, sau khi con người chết đi, thời gian vẫn c̣n đó. Và dù con người có muốn làm chủ thời gian, ở chỗ, họ muốn chết vào ngày giờ do họ ấn định, bằng cách tự tử đi nữa, họ vẫn lệ thuộc vào thời gian, bởi v́, những vụ tự tử không thành đă hùng hồn chứng thực điều này, do đó, những vụ tự tử thành công cũng chính là lúc thực sự hết thời của con người tuyệt vọng chán đời.

 

Thời Gian là Thực Tại Tỏ Hiện

 

Như thế, thời gian có tính cách thần linh, chất chứa nơi nó tất cả những dự định thần linh, được thể hiện qua các định luật tự nhiên, những định luật mà bất cứ tạo vật nào, nhất là sinh vật, cách riêng loài người, đến nỗi, một khi cả dám làm ngược lại hay chống lại, con người có lư trí khôn ngoan suy xét và có tự do chọn lựa lành dữ sẽ phải chịu một hậu quả tai hại khôn lường. Điển h́nh là nếu họ uống thuốc ngừa thai họ có thể sẽ bị ung thư ngực, uống kích thích tố (hormone) sau khi hết kinh nguyệt để giữ nét trẻ trung có thể sẽ dễ bị mục xương, ăn nhiều quá sẽ bị bội thực, uống rượu nhiều quá sẽ bị say.

 

Tại sao ở Mỹ ung thư là một tác nhân đệ nhất sát hại mạng sống con người cả nam lẫn nữ như thống kê cho thấy, nếu không phải con người ở đây đă ăn uống mọi sự hầu như có chất hóa học, kể cả thịt thà được cung cấp từ những con vật được nuôi bằng những chất dinh dưỡng hóa học, hay rau cỏ được tưới bón bằng những thứ phân hóa học. Sự kiện suy diễn này không biết có chính xác hay chăng, chỉ biết rằng, ngày xưa, khi c̣n sống sát với thiên nhiên, c̣n ăn tươi nuốt sống những thứ có thể cho được vào bụng, th́ con người sống khỏe mạnh và thọ hơn con người văn minh vật chất sau họ!

 

Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là con người phải sống theo thời gian, phó mặc cho định mệnh là những ǵ vốn chất chứa trong thời gian và là những ǵ sẽ được hiện lộ khi tới thời điểm (time) của nó, khi tới lúc (moment) của nó. Chẳng hạn như bị bệnh nguy tử không chịu chạy chữa, cho rằng, nếu hết thời của ḿnh th́ dù có đi bác sĩ hay uống thuốc tiên cũng chết. Đúng thế, sinh vật nói chung và con người nói riêng, v́ sống trong thời gian và hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian, nếu hết thời của ḿnh th́ tự nhiên sẽ qua đi, không thể thoát được, dù có đề pḥng cách mấy đi nữa.

 

Thế nhưng, định luật tự nhiên cũng bao gồm cả định luật bảo tồn và tự vệ, định luật khôn sống mống chết, như vẫn thấy nơi loài thú vật. Nếu đói không ăn, theo định luật tự nhiên, con người chắc chắn sẽ chết thế nào, th́ bị bệnh nguy tử không chữa, theo định luật tự nhiên, họ cũng khó ḷng thoát được bàn tay tử thần như vậy. Bởi thế, cái chết của con người không chịu chữa trị khi bị bệnh nguy tử đây không phải bị gây ra bởi họ buông xuôi theo định luật tự nhiên cho bằng chỉ v́ họ đă đi ngược chiều với định luật tự nhiên, định luật bảo tồn, khuynh hướng sinh tồn. Tai nạn xẩy ra hay tất cả mọi tai ương biến loạn trong thiên nhiên vũ trụ nói chung và trong xă hội loài người nói riêng này, kể cả nhân tai lẫn thiên tai, không phải đă bị gây ra bởi những hiện tượng hay sự kiện ngược ngạo và đối địch nhau liên quan đến định luật tự nhiên hay sao?

 

Thế nhưng, nói chung, như lịch sử loài người cho thấy, qua gịng thời gian hiện hữu của ḿnh, từ thời ăn lông ở lỗ “sống để mà ăn” như con vật, đến thời điểm văn minh văn hóa “ăn để mà sống” thuần túy loài người hiện nay, con người càng ngày càng khám phá ra sự thật về thiên nhiên tạo vật nói chung nhất là về chính bản thân ḿnh nói riêng. Qua thời gian, con người đă không khám phá ra thiên nhiên tạo vật chung quanh ḿnh bằng những khám phá khoa học hay sao, về đủ mọi lănh vực, từ bầu trời cao đến đáy biển cả, từ đại không gian đến tiểu vũ trụ, nhất là về lănh vực tạo sinh cải giống từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 và đầu thiên kỷ thứ ba hiện nay hay sao? Cũng qua thời gian, con người đă thực sự khám phá ra chính ḿnh, bằng việc ư thức được mối liên hệ đại đồng, một mối liên hệ chỉ được tồn tại nếu xă hội loài người muốn duy tŕ và phát triển, ở chỗ, con người cần phải nh́n nhận, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cùng quyền lợi làm người bẩm sinh của mỗi người cũng như của mọi người trong xă hội, như được ư thức và công bố trong Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc năm 1948 sau hai trận Thế Chiến Thứ I & II.

 

Thời Gian Nên Trọn nơi Con Người

 

Nếu qua thời gian, con người đă khám phá ra trong thời gian tất cả sự thật về thiên nhiên tạo vật cũng như về chính bản thân ḿnh như thế, một sự thật đă có trước họ và tồn tại sau khi từng thế hệ nhân gian của họ qua đi, và nếu họ biết sống đúng với sự thật ấy, họ sẽ chẳng những có thể làm chủ trái đất, mà c̣n có thể làm chủ cả thời gian nữa. Thật vậy, nếu sự thật là một thực tại bất biến, một thực tại chi phối tất cả không gian, được từ từ hiện lộ trong thời gian và được khám phá thấy bởi nhân gian, th́ một khi con người đă biết lợi dụng sự thật tự nhiên bằng khả năng khoa học của ḿnh để làm chủ trái đất này thế nào, họ cũng có thể biết lợi dụng cả sự thật về con người nhân bản của ḿnh bằng ư thức luân lư, nhờ đó họ làm chủ được cả thời gian như vậy.

 

V́ sống trong sự thật và sống theo sự thật, một thực tại bất biến, một thực tại tối thượng, con người hữu h́nh và hữu hạn, cho dù có chết về phần xác, có bị thiếu hụt về thể lư, tâm lư và luân lư trên đời này, họ sẽ không bao giờ qua đi, không bao giờ cảm thấy thiếu thốn, trái lại, họ sẽ vĩnh viễn tồn tại, có thể nói, họ đă đạt đến cùng đích của ḿnh ngay khi họ c̣n sống trong thời gian. Hay nói cách khác, thời gian cô đọng lại nơi con người sống sự thật, hội tụ lại nơi con người sống trong sự thật. Nếu không gian thu hẹp lại nơi con người sống yêu thương thế nào, hay không gian được yêu thương bao trùm thế nào, th́ thời gian cũng tụ lại nơi con người chân thực như thế, hay thời gian được chân lư bao trùm như vậy.

 

Đó là lư do thực tế cho thấy, con người khôn ngoan, một khôn ngoan trung thực phản ánh sự thật, là một con người sống hiện tại với cả quá khứ lẫn tương lai. Bởi v́, tất cả những ǵ họ tác hành, hay phản ứng, hoặc giải quyết, trong giây phút hiện tại và cho cuộc sống hiện tại của cá nhân họ, những ǵ liên quan đến cả xă hội hay cho xă hội, họ đều căn cứ vào những kinh nghiệm sống họ đă được truyền thụ bởi các bậc tiền bối cha ông họ, nhất là do chính họ rút tỉa được từ cuộc sống riêng tư trong thời gian quá khứ của họ, để làm sao cho bản thân họ cũng như cho chung nhân gian chẳng những được tồn tại mà c̣n phát triển, hầu đạt đến một chân trời tương lai rạng ngời chân lư và thiện hảo, đúng như dự án thần linh của Thượng Trí Quan Pḥng là Chân Lư Tối Cao và là Nguyên Lư Đệ Nhất.

 

Một con người sống sự thật, hay sống trong sự thật, sống theo sự thật, là một con người làm chủ thời gian, làm cho thời gian được kết tụ lại nơi họ, ở chỗ họ đang sống trung thành, trước sau như một, sống thủy chung (từ đầu đến cuối), bất chấp mọi bất trắc và ngăng trở xẩy ra trong cuộc sống. Dù trước mắt thế gian họ có bị coi là ngu dại, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Họ có chết đi cho chân lư và v́ chân lư, như trường hợp của những con người tranh đấu cho công lư và ḥa b́nh, hay như trường hợp của những vị tử đạo chân chính, những anh hùng vị quốc vong thân, nhân gian lịch sử sẽ không bao giờ quên họ, và họ sẽ vĩnh viễn tồn tại với lịch sử, với thời gian, thậm chí vượt ra ngoài thời gian và không gian, ở chỗ họ sẽ bất diệt và bất tận như chính sự thật vậy.

 

Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật như thế, ngoài tác động ư thức liên quan mật thiết tới hiện tại, con người c̣n cần phải có một kư ức sống động và một phán đoán chính xác nữa, một kư ức liên quan đến quá khứ và một phán đoán liên quan đến tương lai. Thật vậy, con người cần đến kư ức là yếu tố tâm lư liên quan đến quá khứ, v́ thời gian chất chứa sự thật và tỏ hiện sự thật, nên tất cả những ǵ xẩy ra trong cuộc đời con người và cho cuộc đời con người đều mang con người đến gần sự thật hay đều tỏ cho con người biết sự thật về bản thân họ cũng như về ngoại cảnh chung quanh họ.

 

Bởi thế, càng sống con người càng khôn ra là vậy, con người càng cảm thấy ḿnh biết đời hơn và biết ḿnh hơn, hành sử một cách hiệu quả hơn, không c̣n vụng về, dại dột, ngớ ngẩn, thất sách như trước nữa. Thế nhưng, nếu con người không biết rút kinh nghiệm và lưu trữ những cảm nhận cuộc đời, họ khó mà có thể tiến thân, có thể trưởng thành. Tưởng niệm là một yếu tố tối ư quan trọng của Do Thái Giáo cũng như của Kitô Giáo. Bởi v́, ơn cứu độ của họ không phải là một thực tại mơ hồ, mà là một biến cố lịch sử, một biến cố họ chẳng những cần phải tưởng nhớ mà c̣n phải liên tục long trọng cử hành nữa.   

 

Thời Gian Sống Động trong Cuộc Đời

 

Biến cố lịch sử cứu độ của Do Thái Giáo là biến cố Vượt Qua, biến cố họ được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho tổ phụ họ là Abramham, Isaac và Giacóp, Vị Thiên Chúa đă tự động lập Giao Ước với các vị cha ông của họ ấy và thực sự đă hoàn tất giao ước của Ngài với con cháu các vị, cụ thể nhất là việc Ngài chẳng những dùng nhân vật Moisen để giải thoát họ khỏi cảnh làm tôi cho dân Ai Cập 450 năm, mà c̣n dùng Gioduệ để đưa họ vào chính mảnh đất Ngài đă hứa với các vị là mảnh đất Palestine thấm đẫm huyết lệ nhất trên thế giới hiện nay. Đó là lư do Do Thái Giáo, từ biến cố lịch sử cứu độ vô tiền khoáng hậu đó tới nay, hằng năm, họ vẫn cử hành tuần lễ Vượt Qua để, trong khi tưởng nhớ đến Vị Thiên Chúa Cứu Độ của ḿnh, họ ư thức ngay trong hiện tại những ǵ họ cần phải sống một cách xứng đáng với ơn cứu độ của họ.

 

Biến cố lịch sử cứu độ của Kitô Giáo cũng là Biến Cố Vượt Qua, một cuộc vượt qua đă được báo trước bằng chính cuộc vượt qua của dân Do Thái. Biến Cố Vượt Qua mà Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng long trọng cử hành vào mỗi Chúa Nhật hằng tuần trong năm, nhất là vào Tuần Thánh, với cao điểm là Lễ Phục Sinh, đó là biến cố vượt qua của Vị Sáng Lập họ tôn thờ, Đấng đă chịu chết trên cây thập giá, nhưng đă tự ḿnh sống lại từ trong kẻ chết vào ngày thứ ba. Theo ư nghĩa vượt qua này, cũng như nhờ biến cố lịch sử vượt qua này của Vị Sáng Lập, Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội, chẳng những được cứu độ cho khỏi tội lỗi và sự chết, mà c̣n được sự sống và là một sự sống viên măn, một sự sống thần linh, một sự sống hoàn toàn tự do siêu thoát, khiến họ có khả năng chế ngự sự dữ bằng sự lành, nhất là khả năng làm chứng cho chân lư, khả năng làm cho con người nhận biết chân lư và sống trong chân lư, một sự sống trường sinh bất diệt, một sự sống thần linh toàn hảo.

 

Như thế, nếu biến cố Vượt Qua của Kitô Giáo, qua con người Kitô hữu, có thể làm cho nhân gian nhận biết sự thật và sống trong sự thật, một sự thật là nguồn gốc và là cốt lơi của văn hóa nhân bản đích thực, th́ biến cố này không phải chỉ là biến cố lịch sử thuần túy đă hoàn toàn qua đi và cần phải tưởng niệm, mà c̣n là một biến cố hiện thực sống động nơi việc cử hành phụng vụ của cộng đồng Kitô hữu nữa.

 

Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật, con người chẳng những cần phải có một kư ức sống động liên quan đến quá khứ mà c̣n phải có một phán đoán chính xác liên quan đến cả tương lai nữa. Đúng thế, cho dù kư ức có nhớ kỹ lưỡng và đầy đủ những ǵ xẩy ra trong quá khứ, nhưng nếu con người không biết lợi dụng những kinh nghiệm lợi hại, tốt xấu đă qua ấy để áp dụng vào môi trường và hiện cảnh cuộc sống của ḿnh th́ tương lai trước mắt họ vẫn chỉ là một ảo tưởng, hiện tại của họ vẫn là một cuộc dậm chân tại chỗ, thậm chí có những lúc trở thành một vũng lầy, càng nhúc nhích cựa quậy con người càng bị lún xuống sâu hơn, cho đến lúc không c̣n cứu được nữa.

 

Nhận định này không đúng hay sao, bằng không tại sao con người càng văn minh lại càng lo âu sợ hăi chính ḿnh, sợ hăi chính những ǵ ḿnh làm ra, sợ hăi nhau, không tin tưởng nhau. Đến nỗi, kinh nghiệm của hai trận Thế Chiến I và II chưa đủ, con người hiện nay h́nh như sắp sửa cần đến một trận Thế Chiến III nữa mới được? Bởi thế, phán đoán của con người không thể chỉ căn cứ vào nguyên kinh nghiệm quá khứ để quyết định cho số phận của tương lai, bằng không, tương lai chỉ là lập lại quá khứ, như gịng nước chảy ngược. V́ không bài học nào giống bài học nào, lại c̣n vấn đề hoàn cảnh mỗi thời đại mỗi khác nữa, mà con người hiện tại cần phải hết sức sáng suốt, ở chỗ, họ làm sao để kinh nghiệm quá khứ có thể kết trái tương lai.

 

Thế nhưng, nếu kinh nghiệm quá khứ, tự bản chất của nó, là cảm nghiệm của con người về sự thật, th́ càng kinh nghiệm cuộc đời, con người càng gần gũi sự thật, càng thông suốt sự thật, càng thấu triệt sự thật mới đúng. Như thế, chỉ cần con người nhận biết sự thật, qua kinh nghiệm và nhờ kinh nghiệm quá khứ, cũng như qua những dấu chỉ và môi trường hiện tại, họ có thể an tâm tiến vào tương lai, dù chân trời tương lai mù mịt giông ba băo táp. Bởi v́, sự thật chẳng những là Thực Tại Thần Linh Tối Thượng mà con người phải đạt tới như cùng đích của ḿnh, mà c̣n là ánh sáng soi đường dẫn lối cho con người thiện tâm bước đi và là sức mạnh thúc đẩy con người khao khát kiếm t́m chân thiện mỹ tiến bước về cơi trường sinh vĩnh hằng.

 

Thời Gian - chất chứa chân lư và mạc khải thần linh

 

Nếu thời gian là linh hồn của không gian và chi phối không gian nói chung và mọi sinh vật nói riêng, nhất là con người, và nếu con người chết không phải v́ linh hồn ra khỏi xác cho bằng v́ đă hết thời của ḿnh, cũng như v́ tới thời của ḿnh th́ con người mới được sinh vào trần gian, chúng ta mới thấy rằng thời gian quả thực là dấu vết của mạc khải thần linh, là lịch sử cứu độ, là ánh sáng của sự thật, là những ǵ liên hệ mật thiết với mầu nhiệm thần linh, với sự quan pḥng thần linh của Thiên Chúa. Đến đây chúng ta mới thấy thật là chí lư những lời Mạc Khải Thánh Kinh về các thời điểm trên thế gian và trong gịng lịch sử được Sách Giảng Viên (Ecclesiastes) nói đến ở đoạn 3 từ câu 1 đến câu 8 như sau:

 

1 Ở dưới bầu trời này,

mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:

2 một thời để chào đời, một thời để ĺa thế;

một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây;

3 một thời để giết chết, một thời để chữa lành;

một thời để phá đổ, một thời để xây dựng;

4 một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;

một thời để than van, một thời để múa nhảy;

5 một thời để quăng đá, một thời để lượm đá;

một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;

6 một thời để kiếm t́m, một thời để đánh mất;

một thời để giữ lại, một thời để vất đi;

7 một thời để xé rách, một thời để vá khâu;

một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng;

8 một thời để yêu thương, một thời để thù ghét;

một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.

(Giảng Viên 3:1-8 bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Chính v́ thời gian liên hệ tới Thượng Trí vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa và sự quan pḥng thần linh của Ngài chúng ta mới nghe thấy Mạc Khải Thánh Kinh Tân Ước tuyên bố về giây phút tuyệt đỉnh thời gian như thế này: "Khi đến thời điểm ấn định, Thiên Chúa đă sai Con của Ngài đến sinh bởi một người nữ" (Gal 4:4).

 

Đúng thể, lịch sử về thời gian của con người đă đạt đến tột đỉnh của ḿnh khi "đến thời điểm ấn định, Thiên Chúa sai Con ḿnh đến sinh bởi một người nữ" (Gal 4:4), “nơi Người, vĩnh cửu đă đi vào thời gian” và “với Người thời gian trở nên tràn đầy vĩnh cửu”, như cảm nhận đầy xác tín của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, được ngài bày tỏ và diễn giải qua 2 bài trong loạt bài Giáo Lư về Chúa Kitô để dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, đó là bài thứ 2 vào buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 26/11/1997 và bài thứ 4 vào buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 10/12/1997.

 

Bởi vậy chúng ta hăy làm sao để có thể sống vĩnh cửu trong thời gian và sống thời gian như trong vĩnh cửu. Bằng cách, chúng ta hăy liên lỉ sống trong yêu thương và theo Thánh Ư Chúa. V́ yêu thương và Thánh Ư Chúa là những ǵ không bao giờ qua đi. Thánh Kư Gioan đă khẳng định điều chân thật này trong Bức Thư Thứ Nhất của ngài ở đoạn 2 câu 17 như sau: "Thế gian cùng với các thứ quyền dụ của nó sẽ qua đi, thế nhưng ai làm theo ư Thiên Chúa sẽ muôn đời tồn tại". Đó là lư do thành công hay thất bại trong đời sống, nhất là các hoạt động tông đồ của chúng ta là thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, không phải là được thế gian ủng hộ khen tặng hay chê bai chống đối, mà là chúng ta có hoàn trọn Thánh Ư Chúa hay chăng!?

 

Đến khi nhắm mắt xuôi tay vĩnh viễn ra khỏi đời này, ra trước ṭa phán xét, Vị Thẩm Phán tối cao và chí công không hề hạch hỏi chúng ta về  những thành công trần thế mà chỉ hỏi chúng ta duy có một điều đó là chúng ta có yêu thương nhau như Ngài đă thương yêu chúng ta hay chăng (x Jn 13:34, 15:12), tức chúng ta có chu toàn điều “Thiên Chúa là T́nh Yêu” (1Jn 4:8,16) hết sức mong muốn nơi chúng ta hay chăng, điều duy nhất bất khả  thiếu, như dụ ngôn về cuộc chung thẩm trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25 câu 31-46 chứng thực, để nhờ đó chúng ta mới xứng đáng được muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài, một cuộc hiệp thông thần linh là cùng đích của chúng ta, như chính Thiên Chúa Hóa Công đă có ư muốn tạo dựng nên chúng ta trên trần gian này.