|
Vị Tuyển
Chân Phước
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 545 Thứ Sáu
181/2/2011
Sau
Kinh Truyền
Tin
Chúa nhật 16-01, Đức Thánh Cha nhắc lại Thông cáo của Bộ Phong Thánh
chính thức
loan báo
về biến
cố Đức
Giáo
Hoàng
Gioan Phaolô II được tôn phong Chân phước. Đồng thời Đức Thánh Cha cũng
nói đến ư nghĩa việc chọn ngày 1-05-2011 để cử hành lễ tôn phong này.
Sau đây là những lời
Đức Thánh Cha nói:
·
“Vào ngày 1 tháng 5 tôi sẽ hân hoan công bố Vị Đáng Kính Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, là một chân phước.
Ngày được chọn này rất ư nghĩa v́ nó thật sự là Chúa Nhật thứ hai
Phục Sinh là ngày được chính ngài dâng kính Ḷng Thương Xót Chúa và
vào ngày vọng của lễ này đời sống trần gian của ngài đă kết thúc.
Những ai đă quen biết ngài, những ai đă tỏ ra tôn kính và mến yêu
ngài không thể nào không chung vui với Giáo Hội ở biến cố này”.
Sau đó, Đức Thánh Cha c̣n ngỏ lời chúc mừng những khách hành hương người
Ba Lan, đồng hương của vị chuẩn Tân Chân Phước:
·
“Tin vui này đă được mọi người, và nhất là anh chị em chờ mong tha
thiết. Đối với anh chị em, Đấng Đáng kính – Vị Tiền nhiệm của tôi là
người dẫn anh chị em đi trong Đức Tin, Sự Thật và Tự Do. Tôi mong
anh chị em hăy chuẩn bị tâm hồn thật chu đáo để đón mừng sự kiện
này. Với tất cả niềm quư mến, tôi chúc lành cho anh chị em”.
Về vấn đề phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II sắp
tới, Đức Hồng Y Amato Tổng Trưởng Thánh Bộ Án
Phong Thánh đă trả lời trong một cuộc phỏng vấn trên Đài Phát Thanh
Vatican cho vị giám đốc Đài Phát Thanh này là Roberto Piermarini như sau:
Vấn:
Đă xẩy
ra
một phép lạ được qui cho lời chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô
II. Vậy giờ đây sẽ mở ra những viễn tượng nào nữa?
Đáp:
Đúng thế, sắc lệnh về việc chữa lành cho Nữ Tu Marie Simon Pierre
Normand, được qui cho lời chuyển cầu của vị Đại Giáo Hoàng này mấy tháng
sau khi ngài qua đời, là những ǵ sẽ gây âm vang nhất trong Giáo Hội
cũng như trên thế giới, nhờ bởi tiếng tăm lẫy lừng về thánh đức của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Sắc lệnh này mở đường cho việc phong chân
phước cho ngài, một biến cố sẽ xẩy ra ở Rôma vào ngày 1 tháng 5 tới đây,
Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh, Chúa Nhật Ḷng Thương Xót Chúa.
Vấn:
Về
tiến
tŕnh thực hiện vụ án phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô th́ sao?
Đáp:
Tôi cần phải nói rằng án phong này có hai điều thuận lợi. Điều thứ nhất
liên quan tới việc Đức Thánh Cha châm chước cho giai đoạn đợi chờ 5 năm
trước khi mở án xin phong, và điều thứ hai việc cho án phong này “qua
mặt” các án phong khác đang có trong danh sách. Tuy nhiên, vẫn không có
vấn đề đi tắt liên quan tới những ǵ là gắt gao và chính xác của phương
thức. Vụ án phong này cũng được đối xứ như bất cứ vụ án phong nào khác,
căn cứ vào tất cả các tiến tŕnh được ấn định theo luật lệ của Thánh Bộ
Án Phong Thánh. Ngược lại, nếu tôi cần nói thêm về một trong những nhận
định đầu tiên của tôi th́ chính là để tôn kính phẩm vị và để tưởng nhớ
vị đại Giáo Hoàng này, để tránh đi bất cứ ngờ vực nào và để vượt qua bất
cứ khó khăn nào, mà vụ án phong này cần phải đặc biệt cẩn thận cứu xét
tỉ mỉ sâu xa.
Vấn:
Đâu là những
chi tiết về phép lạ xẩy ra do lời chuyển cầu
của Đức Gioan Phaolô?
Đáp:
Phép lạ này là việc chữa lành cho một nữ tu người Pháp
là Marie Simon Pierre khỏi bị bệnh Run Lẩy Bẩy. Bệnh này được chuẩn định
từ năm 2001 bởi bác sĩ của nữ tu cũng như bởi các chuyên viên khác. Nữ
tu đă được chữa trị thích đáng, tuy nhiên, việc chữa trị này vẫn không
thể chữa lành bệnh này, mà chỉ làm nhẹ bới t́nh trạng đớn đau của nữ tu
mà thôi. Khi nghe tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời, vị giáo
hoàng cũng cịu cùng một chứng bệnh. Nữ tu Marie và các đồng bạn của nữ
tu bắt đầu kêu cầu với vị Giáo Hoàng quá cố, xin ngài chữa lành cho. Vào
ngày 2 tháng 6 năm 2005, bị mệt mỏi và kiệt quệ v́ đớn đau, Nữ Tu Marie
đă tỏ ư định của ḿnh cho bề trên muốn được thôi công việc chuyên môn
của ḿnh. Nhưng vị bề trên đă kêu gọi Nữ tu Marie hăy tin tưởng vào lời
chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II. Sau đó Nữ tu Marie về nghỉ đêm một
cách yên lặng. Khi tỉnh giấc th́ cảm thấy được chữa lành. Những đớn đau
của nữ tu đă biến mất, và nữ tu cảm thấy không c̣n cứng ngắc ở các khớp
xương nữa. Hôm đó là ngày 3 tháng 6 năm 2005, Lễ Thánh tâm Chúa Giêsu.
Nữ tu Marie lập tức ngưng ngay việc chữa trị về y khoa của ḿnh và đă
đến gặp bác sĩ, vị chỉ c̣n biết xác nhận là Nữ tu Marie đă được chữa
lành.
Nhân dịp Ṭa Thánh loan báo Sắc Phong Chân Phước cho Vị Giáo Hoàng này
hôm Thứ Sáu 14/1/2011, Cha Andrzej Koprowski SJ Giám Đốc Chương Tŕnh
Đài Phát Thanh Vatican đă bày tỏ những
nhận định về
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, những nhận định dài được mạng điện
toán toàn cầu của Đài Phát Thanh Vatican phổ biến ngày 21/1/2011, nhưng
chỉ xin được phổ biến nhiều trích đoạn chính yếu tiêu biểu sau đây:
… Giáo triều của Đức Gioan Phaolô II là một dấu hiệu hùng hồn và tỏ
tường, chẳng những đối với người Công giáo mà c̣n đối với quần chúng
trên thế giới nữa, đối với dân chúng thuộc tất cả mọi mầu da và tín
ngưỡng. Phản ứng của thế giới đối với lối sống của ngài, với việc phát
triển sứ vụ tông đồ của ngài, tới cách thức ngài chịu đựng khổ đau, tới
quyết định tiếp tục sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô của ngài cho đến cùng theo
ư muốn của Đấng Quan Pḥng thần linh, và sau hết, phản ứng về cái chết
của ngài, đó là việc đại chúng yêu chuộng hô lời “Thánh ngay lúc này đây!”
được ai đó vang lên trong ngày an táng của ngài, tất cả đều có một nền
tảng vững chắc của chúng nơi cảm nghiệm đă từng được thấy
nơi con người vị Giáo Hoàng này. Thành phần
tín hữu đă cảm thấy, đă cảm nghiệm rằng ngài là “người của Thiên Chúa”,
vị thực sự nh́n thấy những bước đi cụ thể cùng những cơ cấu của thế giới
đương thời “trong Chúa”, theo quan điểm của Thiên Chúa, với ánh mắt của
một nhà thần bí chỉ biết nh́n lên Thiên Chúa. Ngài rơ ràng là một con
người của nguyện cầu: cầu nguyện nhiều tới độ từ tính chất năng động của
việc ngài hiệp nhất bản thân với Thiên Chúa, từ việc liên lỉ lắng nghe
những ǵ Chúa muốn nói trong từng hoàn cảnh cụ thể, đă tuôn ra
tất cả mọi “hoạt động của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”. Những ai thân
cận nhất với ngài đă thấy được rằng, trước khi gặp gỡ khách khứa, gặp gỡ
các vị Lănh Đạo Quốc Gia, gặp gỡ các viên chức cao cấp của Giáo Hội hay
thành phần công dân b́nh thường, Đức Gioan Phaolô II đă tĩnh lặng nguyện
cầu cho ư chỉ của các người khách và cho cuộc gặp gỡ sắp xẩy ra.
1- Việc đóng góp của Đức Karol Wojtyla vào Công Đồng Chung Vaticanô II
…
Chúng ta hăy dừng lại một chút về Công Đồng
Vatican II. Vị tổng giám mục trẻ ở Cracow là một trong những vị Nghị Phụ
năng động nhất của Công Đồng. Ngài đă góp phần quan trọng cho “Đề Án
III” là đề án trở thành Hiến Chế Mục Vụ của Công Đồng Vui Mừng Và Hy
Vọng về Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến. Cũng như cho Hiến Chế Tín
Lư Ánh Sáng Muôn Dân. Nhờ việc học hỏi của ḿnh ở hải ngoại, đức
giám mục Wojtyla đă có được một kinh nghiệm về việc truyền bá phúc âm
hóa cũng như về sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, ở Tây Âu cũng như ở các
châu lục khác, nhất là về chủ nghĩa vô thần chuyên chế ở Balan cũng như
ở các xứ sở khác thuộc “Khối Sô Viết”. Ngài đă mang tất cả kinh nghiệm
ấy vào các cuộc tranh luận của Công Đồng…
Tất cả những sự ấy được sử dụng vào việc sửa soạn cho các trách nhiệm
tương lai của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô này. Như Đức Gioan Phaolô nói, ngài
đă cưu mang trong ḷng bức thông điệp đầu tiên của ḿnh, Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần, và mang nó từ Cracow đến Rôma. Tất cả những ǵ ngài
cần phải làm ở Rôma đó là viết xuống tất cả tư tưởng ấy. Trong bức thông
điệp này chất chứa một lời mời gọi bao rộng nhân loại hăy tái nhận thức
thực tại về việc cứu chuộc trong Chúa Kitô:
Con người
(…) vẫn là một hữu thể bất khả thấu về bản thân ḿnh, th́ đời sống
của họ trở nên vô nghĩa, nếu t́nh yêu không được mạc khải cho họ, nếu họ
không gặp gỡ t́nh yêu, nếu họ không cảm nghiệm được nó và làm cho nó
thành của ḿnh, nếu họ không thân mật thông phần với nó. Điều này, như
đă nói, là lư do tại sao Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc “hoàn toàn tỏ cho con
người thấy bản thân họ”(…) con người t́m lại được cái cao cả, phẩm vị và
giá trị thuộc về nhân tính của ḿnh. Trong mầu nhiệm Cứu Chuộc, con
người trở thành những ǵ được “thể hiện” một cách mới mẻ, và ở một nghĩa
nào đó, được tân tạo. (…) Con người muốn hiểu thấu bản thân ḿnh – và
không chỉ ở những tiêu chuẩn cùng tầm vóc trực tiếp, bán phần, thường
hời hợt bề ngoài, thậm chí ảo tưởng về hữu thể của ḿnh – họ cần phải
đến gần với Chúa Kitô, bằng tất cả những ǵ là khắc khoải, bất ổn và
thậm chí yếu hèn cùng tội lỗi của ḿnh, bằng đời sống và cái chết của
ḿnh. Có thể nói họ cần phải nhập vào Người với tất cả bản thân họ, họ
cần phải “thích ứng” và đồng hóa với toàn thể thực tại của việc Nhập Thể
và Cứu Chuộc để thấy được chính ḿnh (số 10)……….
2- “Totus Tuus”, Ḷng Tin Tưởng vào Maria Mẹ Thiên Chúa
Cuộc sống của Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn hiến thân phục vụ Chúa, nhờ
việc chuyển cầu của Người Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là “Totus Tuus”, cho
thiện ích của Giáo Hội hay cho thiện ích của con người là đường lối của
Giáo Hội (Redemptor Hominis, n 14). Đó là “raison d’tre” của các
chuyến Tông Du, của những cuộc gặp gỡ dân chúng hằng ngày, của việc gặp
gỡ các thành phần có trách nhiệm trong các cộng đồng giáo hội, gặp gỡ
các vị hồng ư và giám mục, các vị Thủ Lănh các Giáo Hội khác và các cộng
đồng Kitô hữu
khác, các vị Lănh Đạo các tôn giáo khác, cũng như thành phần giáo dân. …
Vào năm 1989, “Bức Tường Bá Linh” sụp đổ, thế nhưng, ở tầm cấp quốc tế,
người ta có thể cảm thấy quyền lực hủy diệt của các guồng máy thương mại
và của các khuynh hướng về kinh tế cũng như về ư hệ đặc biệt trở nên
tàng h́nh hơn bao giờ hết, gây ra bất công và loại trừ đi tất cả mọi dân
nước – thậm chí cả những quyền lực hủy hoại của một số nhóm xă hội tại
các xứ sở phát triển – nhất là người ta có thể thấy được sự sống con
người bị hạ giá là chừng nào. Trong nhiều Chuyến Tông Du Quốc Tế ở các
châu lục khác nhau, Vị Giáo Hoàng này đă vang vọng Phúc Âm của Chúa Kitô
và mối quan tâm của Giáo Hội. Ngài đă viết về mối quan tâm này một cách
có hệ thống hơn trong các thông điệp: Laborem Exercens, Sollicitudo
Rei Socialis, Centesimus Annus; cũng như Evangelium Vitae,
Veritatis Splendor, Fides et Ratio; và các thông điệp trực tiếp bàn
đến vấn đề đời sống cùng việc tông đồ của Giáo Hội như Dominum et
Vivificantem, Redemptoris Missio, Ut Unum Sint, Ecclesia de Eucharistia.
3- Chiến Tranh Iraq và “vấn đề tấn công ḥa b́nh”
Đôi khi, như trong trường hợp thực hiện các nỗ lực để tránh chiến tranh
giữa Hiệp Chủng Quốc và Iraq, đă xẩy ra một “cuộc tấn công ḥa b́nh”
thực sự, chẳng những để cứu lấy mạng sống của dân chúng mà c̣n mang lại
một cuộc ngăn chặn t́nh trạng gia tăng hận thù cũng như những ư nghĩ
điên cuồng về những cuộc đụng độ giữa các nền văn minh, hay về hiện
tượng mới liên quan tới nạn khủng bố khắp thế giới. Bởi vậy, lời diễn từ
Tân Niên ngỏ cùng Ngoại Giao Đoàn làm việc với Ṭa Thánh, và Tháng 2
không thể qua đi bằng một chuỗi gặp gỡ của Vị Giáo Hoàng này với các
thành phần ngoại giao “thượng hạng”: J. Fischer (7th Feb.);
Tarek Aziz (14th Feb.); Kofi Annan (18th Feb.);
Tony Blair (22nd Feb.); José Maria Aznar và phái đoàn tùy
tùng của Seyyed Mohammad Khatami, Head of the Islamic Republic of Iran
(27th Feb.); và sau hết, v́ t́nh h́nh bất khả chấp nhận về
phía nhân loại, quyết định gửi Đức Hồng Y Etchegaray với sứ vụ đặc biệt
tới Baghdad (15th Feb.) và Đức Hồng Y Pio Laghi tới
Washington (3rd – 9th March). “Tháng Hai của Vị
Giáo Hoàng này” đă chấm dứt ở cuộc gặp gỡ Đức Hồng Y J. L. Tauran cùng
với 74 vị đại sứ và ngoại giao trên khắp thế giới; với tư cách là Bí Thư
Đặc Trách Các Mối Liên Hệ Chư Quốc, “Bộ Trưởng Ngoại Vụ” của Đức Giáo
Hoàng là Đức Hồng Y Tauran đă lên tiếng kêu gọi để tránh chiến tranh và
nhắc nhở tất cả những ǵ Đức Giáo Hoàng đă nói trong “việc tấn công ḥa
b́nh” của ngài.
4- Cuộc
Mừng Đại Năm Thánh 2000: một thực tại lịch
sử để tưởng nhớ cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu Nazareth
… Cuộc Đại Hỷ Mừng Ơn Cứu Chuộc trong Năm 2000, đối với Đức Gioan Phaolô
II… là một thực tại lịch sử nhắc nhở chúng ta về việc xuất hiện của
Chúa Giêsu Nazarét và hết mọi sự bao gồm trong biến cố lịch sử này, tức
là Ơn Cứu Chuộc, Chứng Từ về T́nh Yêu Thiên Chúa cho tới Thập Giá và
Phục Sinh, đời sống của Giáo Hội sơ khai, con đường cứu độ được hoàn
thành bởi Chúa Cứu Thế, nhờ đó Người đă giới thiệu Giáo Hội của Người
như là dấu hiệu và là dụng cụ của mối hiệp nhất nội tại với Thiên Chúa
cũng như mối hiệp nhất nội tại của gia đ́nh nhân loại. Cuộc Đại Năm
Thánh 2000 nhắc nhở chúng ta về Thánh Địa, về mảnh đất của Chúa Giêsu
cũng như về Rôma, nơi của vai tṛ tông đồ vị Thừa Kế Thánh Phêrô, mối
liên hết cho tính xác thực của sứ điệp và của mối hiệp nhất cộng đồng
giáo hội. Sứ điệp này đă được tái công thức hóa nơi các Tông Thư
Tertio Millenio Adveniente và Novo Millennio Ineunte. Thế
nhưng, đối với vị Giáo Hoàng này, cái cần đặt vấn đề nhất đó là việc tạ
ơn riêng tư cũng như việc tạ ơn của toàn thể Giáo Hội đối với Chúa Giêsu
cũng như đối với cuộc gặp gỡ trong đức tin với Đấng đă yêu thương cho
đến cùng, Đấng đă cứu chúng ta và vẫn là một dấu hiệu quá cần thiết
trong một thế giới đang càng ngày càng trở nên điếc lác, trong lúc họ cố
gắng tổ chức đời sống của ḿnh như thể Thiên Chúa không c̣n hiện hữu, v́
thế lạc lơng mất cả căn tính và chẳng c̣n ư nghĩa ǵ nữa.
5- Chú trọng tới Giới Trẻ và ư nghĩa của Ngày Giới Trẻ Thế Giới
Đức Gioan Phaolô II thường thẩm định các thành quả của những Chuyến Tông
Du Quốc Tế với thành phần hợp tác viên của ḿnh, để vạch ra những ǵ đă
được thực hiện cách tốt đẹp cũng như để cứu xét những ǵ cần thay đổi
cho những cuộc tông du kế tiếp. Sau chuyến tông du Balan năm 1991, Vị
Giáo Hoàng này đă nhận định rằng trong Thánh Lễ ở Warsaw, ở chỗ xa nhất,
giới trẻ đến rồi đi, uống bia hay coca-cola, rồi trở lại. “Ngài nhận xét
rằng nó không giống như các chuyến tông du trước, đă có một thay đổi nào
đó nơi tâm thức của xă hội. ...” … Ngài rất lưu tâm tới vai tṛ của
giáo dân trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Thật là ư nghĩa khi ngài
c̣n là tuyên úy Đại Học ở Cracow, ngài đă khai thác một đoạn ngắn của
“t́nh trạng tan vỡ về chính trị” vào năm 1957 để tổ chức – với sự hợp
tác của đức tổng giám mục Cracow, Boleslaw Kominek – một hội nghị chuyên
đề trong thành phố cho trên 100 sinh viên đại học khắp Balan (lần đầu
tiên từ các thập niên!) về ngay chủ đề “vai tṛ của giáo dân trong Giáo
Hội” (và năm đó xẩy ra trước Công Đồng Chung Vaticanô II!). Sau đó,
trong các cuộc nghỉ hè, ngài đă tổ chức linh thao ở địa điểm của các Sơ
Ursuline của Roman Union ở Bado Ślaskie cho nhóm nhỏ hơn một chút thành
phần tham dự của hội nghị chuyên đề Wroclaw, chính là để phát động việc
“huấn luyện thành phần giáo dân”.
Qua việc thành lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới, vị Giáo Hoàng này nâng đỡ các
h́nh thức hoạt động khác nhau của thành phần giáo dân trong đời sống và
sứ vụ của Giáo Hội, nhờ đó mở đường cho những khởi động rất ư nghĩa vào
mấy năm sau đó, trong giáo triều của Đức Biển Đức XVI…
6- Tính chất đơn sơ nơi kinh nguyện của Đức Gioan Phaolô II
Khi chúng ta nhắc lại những ǵ Đức Gioan Phaolô II đă hoàn thành, “những
biến cố lớn lao” được trộn lẫn với việc tưởng nhớ về các giây phút đơn
sơ nguyện cầu, việc nguyện cầu từng là những ǵ gây lạ lùng thậm chí cho
cả những hợp tác viên của ngài. Tôi sẽ chỉ đề cập đến hai sự kiện, xuất
phát từ hai giai đoạn khác nhau trong đời sống của ngài. Trong thập niên
1970, tôi là tuyên úy cho các sinh viên ở Đại Học Công Giáo Lublin. Vào
lúc mở đầu cho năm học này, vị Hồng Y ở Cracow bấy giờ đă đến tham phần
cử hành Thánh Thể ở nhà thờ của đại học ấy, để chính thức khai mạc năm
học tại Sảnh Đường lớn, cũng như để dùng bữa trưa. Sau đó, vị Hồng Y này
sửa soạn trở về Cracow. Vị Viện Trưởng Đại Học là Cha Krapiec, hộ tống
ngài ra xe, nhưng đă dừng lại để nói chuyện với một người khách khác,
lâu tới nỗi cả hai đă trễ giờ ra xe. Thế nhưng lạ chưa! Vị Hồng Y đă
“biến mất”! Mười phút họ chờ đợi dài như 10 thế kỷ. Vị viện trưởng, vốn
quen làm chủ mọi sự, chẳng biết vị Hồng Y ở đâu nữa. Vị này hỏi tôi rằng:
“Wojtyla đâu rồi? Đức Hồng Y đă biến mất! Ngài đang ở đâu nhỉ?” Bằng một
nụ cười nhẹ nhàng diễu cợt, tôi nhẫn nha không trả lời vị ấy ngay, để
chọc vị này một chút. Sau đó tôi bảo vị này rằng: “Ngài có lẽ đến nhà
thờ rồi”. Chúng tôi đă đến đó và quả thực chúng tôi thấy Đức Hồng Y đang
qú cầu nguyện trước Đàng Thánh Giá.
Một lần khác xẩy ra vào năm 1999, trong chuyến Tông Du Balan lần thứ bảy.
Chuyến tông du kéo dài 13 ngày, với 22 chỗ viếng thăm theo chương tŕnh,
từ miền Bắc xuống miền Nam của xứ sở này. Một chương tŕnh khá mệt vượt
khả năng thể lư của Vị Giáo Hoàng. Một trong những ngày ấy, theo chương
tŕnh. Có cuộc làm phép Đền Thánh ở Lichen, Thánh Lễ ở Bydgoszcz, rồi
gặp gỡ thành phần đại học, phụng vụ Thánh Tâm Chúa, liên quan tới việc
phong chân phước cho Cha Frelichowski ở một thành phố khác, ở Torun, rồi
trở về Lichen để ở qua đêm. Một ngày quá ư là bận roan! Bởi vậy, sau bữa
tối, dăy pḥng ngủ giàng cho phái đoàn của Giáo Hoàng đă đi ngủ ngay.
Nhưng Vị Giáo Hoàng lại âm thầm ở trong nhà nguyện lâu thật lâu để cầu
nguyện. Ở đó chỉ có 3 người chúng tôi, đó là Đức Giám Mục Chrapek, đặc
trách chương tŕnh viếng thăm của hàng giáo phẩm; bản thân tôi với tư
cách là “phụ tá”, và vị lănh đạo an ninh của Vatican là nhân vật nổi
tiếng Camillo Cibin. Cuối cùng vị Giáo Hoàng đă ra khỏi nguyện đường để
về pḥng ngủ của ḿnh. Ông Cibin đă nói cùng tôi rằng: “Cha Andrea, làm
ơn mang cho tôi một cái ghế. Thế nhưng là một cái ghế cứng, làm bằng gỗ,
chứ không phải cái sofa, hail y cà phê, cà phê đậm, và một quả táo”. Tất
cả những điều ấy là để giúp cho ông ta canh cả đêm trước pḥng ngủ của
vị Giáo Hoàng, một pḥng ngủ không đóng hết, để canh chừng xem vị Giáo
Hoàng – chẳng những mệt mà c̣n bị già yếu – thở có b́nh thường hay ngài
có cần giúp đỡ ǵ chăng. Sự thánh thiện của bản thân vị Giáo Hoàng này
là những ǵ được sâu xa cảm phục bởi thành phần cộng sự viên thân cận
nhất của ngài và điều này thật là ư nghĩa.
7- Di Chúc của Đức Gioan Phaolô II
Đức Gioan Phaolô II đă ư thức về sự kiện là chúng ta đang trải qua một
thời điểm thử thách của lịch sử, một thời điểm mà vị Thừa Kế Thánh Phêrô
có nhiệm vụ phải củng cố đức tin, thế nhưng ngài đồng thời cũng ư thức
thấy được sự kiện là khía cạnh quan trọng nhất ở chỗ cần phải lệ thuộc
vào Thiên Chúa. Di chúc ngài viết vào năm 1979, và là bản di chúc ngài
đă điều chỉnh hằng năm, trong các tuần pḥng, cống hiến cho chúng ta một
chứng từ mănh liệt về điều này. Từ ngày 24/2 đến ngày 1/3 năm 1980, ngài
đă viết:
”24.II-1.III.1980. Trong những tuần pḥng này, tôi đă suy tư về sự
thật của Thiên Chức Linh Mục Chúa Kitô liên quan tới Cuộc Vượt Qua, đối
với mỗi người chúng ta, tức là giờ chết của chúng ta. Đối với chúng ta,
việc ra khỏi đời này – để được tái sinh vào đời sau, vào thế giới mai
hậu, dấu hiệu hùng hồn (ngài thêm chữ quyết liệt bên trên chữ
dấu hiệu) – là cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô. (…) Những khoảng thời
gian chúng ta sống đă trở thành những ǵ là khó khăn và lo âu khôn tả.
Đời sống của Giáo Hội cũng trở nên khó khăn và căng thẳng, một thứ thử
thách đặc biệt của những thời điểm ấy – đối với thành phần tín hữu cũng
như đối với các vị mục tử. Ở một số xứ sở (như xứ sở tôi đọc thấy trong
tuần pḥng), Giáo Hội thấy ḿnh ở vào một thời điểm bị bách hại như cuộc
bách hại của các thế kỷ đầu tiên, có thể c̣n hơn thế nữa, theo mức độ dữ
tợn và hận thù. Sanguis martyrum – semen christianorum máu tử đạo – hạt
giống Kitô hữu. Ngoài ra, rất đông con người vô tội đă biến mất, thậm
chí ngay ở xứ sở chúng ta đang sống đây…
Một lần nữa, tôi muốn kư thác bản thân tôi hoàn toàn cho ân sủng Chúa.
Ngài là Đấng sẽ quyết định khi nào và cách nào tôi cần phải chấm dứt
cuộc đời trần gian của ḿnh và thừa tác mục vụ của ḿnh. Trong khi sống
cũng như lúc chết, Totus Tuus, nhờ Đấng Vô Nhiễm Tội. Bằng việc sẵn sàng
chấp nhận cái chết này, tôi hy vọng rằng Chúa Kitô ban cho tôi ân sủng
cho việc qua đi cuối cùng này, tức là cho cuộc Vượt Qua (của tôi). Tôi
cũng hy vọng rằng Người làm cho ân sủng ấy trở thành hữu dụng v́ lư do
quan trọng hơn tôi đang phục vụ, đó là phần rỗi của con người, việc bảo
vệ gia đ́nh nhân loại, nơi tất cả mọi quốc gia cũng như nơi tất cả mọi
dân tộc (trong số đó tôi đặc biệt nghĩ đến xứ sở trần gian của tôi), hữu
ích cho những ai đặc biệt được trao phó cho tôi, trong Giáo Hội, cho
vinh quang của Vị Thiên Chúa này”.
Vào ngày 5/3/1982, ngài đă thêm như thế này:
“Cuộc cố sát mạng sống của tôi, hôm 13.V.1981, đă xác định đặc biệt
chính xác những lời được viết trong tuần pḥng 1980 (24.II –
1.III). Tôi cảm thấy càng sâu xa hơn là tôi hoàn toàn ở trong Tay Thiên
Chúa – và tôi vẫn liên tục sẵn sàng đối với Chúa của tôi, kư thác bản
thân ḿnh cho Người nơi Người Mẹ Vô Nhiễm của Người (Totus Tuus)”.
Thế rồi vào ngày 17/3 của Đại Năm Thánh 2000, ở khoản số 3 ngài viết:
“Như mọi năm, trong tuần pḥng, tôi đọc lại di chúc của tôi về ngày
6.III.1979. Tôi tiếp tục giữ các khoản chất chứa trong đó. Những ǵ được
thêm thắt, vào thời gian và trong các tuần pḥng sau đó, tạo nên một
phản ảnh về t́nh trạng khó khăn và căng thẳng đánh dấu thập niên 1980.
Từ mùa thu năm 1989, t́nh trạng này đă đổi thay. Thập niên cuối cùng của
thế kỷ qua đă được thoát khỏi những căng thẳng trước kia; điều này không
có nghĩa là không c̣n những vấn đề hay những khốn khó mới. Một cách đặc
biệt, chớ ǵ Đấng Quan Pḥng Thần Linh được chúc tụng về t́nh trạng
ấy, ở chỗ giai đoạn ‘chiến tranh lạnh’ đă chấm dứt mà không xẩy
ra xung đột bạo lực nguyên tử, một thứ đe dọa đè nặng trên thế giới
trong giai đoạn trước đó” (những chỗ gạch dưới do chính Đức Giáo
Hoàng muốn nhấn mạnh).
8- Một khía cạnh thiết yếu của vị tân Chân Phước: “Thiên Chúa là nền
tảng của tất cả những ǵ chúng ta nỗ lực”
Đây là một khía cạnh thiết yếu, nếu người ta muốn hiểu biết sâu xa hơn
con người vị tân Chân Phước của Giáo Hội, Đức Karol Wojtyla – Gioan
Phaolô II. Nền tảng của tất cả những ǵ chúng ta nỗ lực đều ở nơi Thiên
Chúa. Chúng ta được bao phủ bởi t́nh yêu thần linh, bởi những thành quả
của Ơn Cứu Chuộc và Cứu Độ. Thế nhưng chúng ta cần phải giúp cho con
người được sâu xa hơn trong chính Thiên Chúa; chúng ta cần phải làm mọi
sự có thể để có được những thái độ riêng tư và xă hội sâu xa trong thực
tại của Thiên Chúa. Điều này đ̣i phải nhẫn nại, thời gian và khả năng
thấy mọi sự bằng ánh mắt của Thiên Chúa.
Cuộc hành hương cuối cùng ngắn ngủi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở
Balan, đúng hơn ở “xứ sở nhỏ bé” của ngài, tức ở Cracow, Wadovice và
Đường Thánh Giá (ở Kalwaria Zebrzydowska), đă cho thấy một quyết tâm,
cũng là một tính chất sắc bén về thiêng liêng “trong tiến tŕnh chín mùi
qua thời gian” nhờ đó tất cả nhân loại, nhất là cộng đồng giáo hội và
Kitô hữu, có thể hiểu được hoàn toàn hơn một số khía cạnh nền tảng của
đức tin. Từ ban đầu của giáo triều ḿnh, vào năm 1978, Đức Gioan Phaolô
II thường nói ở trong các bài giảng của ḿnh về t́nh thương của Thiên
Chúa. Điều này đă trở thành đề tài cho bức thông điệp thứ hai của ngài,
Giầu Ḷng Thương Xót, năm 1980. Ngài đă thấy rằng nền văn hóa tân tiến
cùng với ngôn ngữ của nó không c̣n chỗ cho t́nh thương, coi t́nh thương
như là một cái ǵ đó xa lạ; chúng cố gắng ghi khắc tất cả mọi sự theo
thứ hạng về công lư và luật pháp. Thế nhưng vấn đề này vẫn không đủ, v́
nó không phải là những ǵ về thực tại của Thiên Chúa.
9- Kư thác thế giới cho Ḷng Thương Xót Chúa
… Vào tháng Tám năm 2002, ở Lagiewniki, nơi Nữ Tu Faustina đă sống và
qua đời, Đức Gioan Phaolô II đă hiến dâng thế giới cho Ḷng Thương Xót
Chúa, bằng ḷng tin tưởng vô biên vào Thiên Chúa T́nh Thương, vào Đấng
đă từng là nguồn phấn khởi cũng là mănh lực cho việc ngài phục vụ với
vai tṛ là vị Thừa Kế Thánh Phêrô.
Chính là Chúa Thánh Thần, Đấng Ủi An và là Thần Chân Lư, Đấng hướng dẫn
chúng ta theo những đường nẻo của Ḷng Thương Xót Chúa. Bằng việc làm
cho thế gian nhận ra những ǵ “liên quan đến tội lỗi, sự công chính và
việc phân xử” (Jn 16:8), Ngài cũng làm tỏ hiện tất cả ơn cứu độ trong
Chúa Kitô. Việc “thuyết phục” liên quan đến tội lỗi này có liên hệ nhị
trùng với Thập Giá Chúa Kitô. Một mặt, Thánh Linh khiến cho chúng ta,
nhờ Thập Giá của Chúa Kitô, có thể nh́n nhận tội lỗi, hết mọi tội lỗi,
nơi tất cả chiều kích sự dữ chất chứa và tiềm ẩn nơi tội lỗi. Mặt khác,
Thánh Linh cho phép chúng ta, cũng nhờ Thập Giá Chúa Kitô, thấy được tội
lỗi theo chiều kích của mysterium pietatis, tức là chiều kích mầu nhiệm
t́nh yêu nhân hậu và thứ tha của Thiên Chúa (x Thông Điệp Dominum et
vivificantem, 32). Như thế, việc “thuyết phục liên quan đến tội lỗi” này
cũng trở thành một niềm xác tín là tội lỗi có thể bị loại trừ và con
người có thể phục hồi phẩm vị của ḿnh là con cái dấu yêu của Thiên Chúa.
Thật vậy, Thập Giá “là việc Thiên Chúa hạ ḿnh thẳm sâu nhất xuống với
con người […]. Thập giá chẳng khác ǵ một sự giao chạm của t́nh yêu hằng
hữu trên những vết thương đau trong cuộc sống của con người” (Dives in
misericordia, 8). Tảng đá nền của Ngôi Đền Thờ này sẽ măi măi nhắc nhở
cho chúng ta về chân lư này, v́ nó được mang về đây từ Núi Canvê, như
thể từ chân Cây Thập Giá là nơi Chúa Giêsu Kitô đă chiến thắng tội lỗi
và sự chết. Thế giới ngày nay cần đến t́nh thương của Thiên Chúa biết
bao! Nơi hết mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu
cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn và đ̣i rửa hận
thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại đau thương và chết chóc cho
thành phần vô tội, th́ ở đó cần đến ân sủng t́nh thương để ổn định ḷng
trí con người và tạo lập ḥa b́nh. Nơi nào thiếu hụt ḷng trọng kính sự
sống và phẩm vị con người th́ ở đó cần đến t́nh yêu nhân hậu của Thiên
Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn
tả của hữu thể con người. Cần phải có t́nh thương để bảo đảm rằng hết
mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân lư rạng ngời.
Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng kư thác thế
giới cho Ḷng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một ḷng thiết tha
mong ước thấy sứ điệp của t́nh yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo
nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới
biết đến và làm cho ḷng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ ǵ sứ điệp này,
từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho
khắp thế giới. Chớ ǵ lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ,
từ nơi đây phải chiếu giăi ra “tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến
cuối cùng của Cha” (x Nhật Kư, 1732).
|
|