Hy Tế Từ Ái

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 554 Thứ Sáu 22/4/2011

 

 

Cũng vào Thứ Sáu Tuần Thánh như hôm nay, 6 năm trước, vị chuẩn chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II của chúng ta bắt đầu sống Tuần 9 Ngày Kính Chúa T́nh Thương, một tuần 9 ngày được Chúa Giêsu dạy Chị Thánh Faustina vào ngày 30/11/1936 thực hiện từ Thứ Sáu Tuần Thánh tới hết Thứ Bảy trước Chúa Nhật Thứ 1 sau Chúa Nhật Phục Sinh, tức tới Chúa Nhật Lễ Chúa T́nh Thương, một Thánh Lễ đă được chính vị giáo hoàng này thiết lập ngày 30/4/2000 trong lễ phong hiển thánh cho người nữ tu Balan đồng hương Faustina này của ngài, và chính bản thân ngài đă không ngờ được sống Tuần Chín Ngày Kính Chúa T́nh Thương ấy như một Hy Tế Từ Ái.

 

Giờ đây, để có thể cảm nghiệm được phần nào Tuần Chín Ngày Kính Chúa T́nh Thương này của vị Giáo Hoàng Totus Tuus của Ḷng Thương Xót Chúa Gioan Phaolô II, vị đă qua đời vào chính đêm áp lễ Chúa T́nh Thương, 2/4/2005, tức vừa kết thúc Tuần Chín Ngày Kính Chúa T́nh Thương. Thật vậy, trong bài Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 2/4/2006 kỷ niệm đúng một năm băng hà của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II, ĐTC Biển Đức XVI đă chia sẻ về những ngày cuối đời của ngài như sau:  

 

·         “Vào ngày 2/4 năm ngoái, một ngày như hôm nay đây, Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đă sống vào những giờ phút như thế này đoạn hành tŕnh cuối cùng của đời ngài, một cuộc hành tŕnh đức tin, đức mến và đức cậy, một cuộc hành tŕnh đă để lại một nét đậm nơi lịch của Giáo Hội cũng như của nhân loại. Cuộc khổ nạn và cái chết của ngài giống như một giai đoạn kéo dài của Tam Nhật Phục Sinh. 

 

“Tất cả chúng ta vẫn c̣n nhớ các h́nh ảnh về cuộc Đi Đường Thánh Giá cuối cùng của ngài hôm Thứ Sáu Tuần Thánh: V́ không đến được Hí Trường Colosseum, ngài đă theo dơi đường thánh giá từ nguyện đường riêng của ngài, tay ôm cây thập giá. Thế rồi, vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngài đă ban phép lành ‘urbi et orbi’, song không thể nói lên lời nào, mà chỉ lấy tay ra dấu mà thôi. Đó là một phép lành đớn đau và cảm kích được ngài lưu lại cho chúng ta như chứng từ cao cả nhất về việc ngài cương quyết hoàn thành sứ vụ của ngài cho tới cùng…..

 

“Trong những năm cuối cùng của ngài, Chúa đă dần dần tước lột ngài khỏi tất cả mọi sự, để làm cho ngài hoàn toàn nên giống Người. Và khi ngài không c̣n tông du được nữa, sau đó thậm chí không c̣n bước đi được nữa, sau cùng đến nỗi không c̣n nói được nữa, th́ cử chỉ của ngài, việc loan báo của ngài được biến thành những ǵ thiết yếu, đó là việc ban tặng bản thân ḿnh cho đến cùng….”  

 

Tht ra, v giáo hoàng xut thân t mt nước cng sn Balan không phi người Ư sau 455 năm này đă sng Hy Tế T Ái không phi ch trong Tun Chín Kính Chúa T́nh Thương cui cùng này, mà là t biến c xy ra liên quan đến M Fatima Qung Trường Thánh Phêrô gn 24 năm trước đó. Đúng thế, sức khỏe của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một con người vốn khoẻ mạnh và yêu thích thể thao, bắt đầu bị suy giảm kể từ ngày 13/5/1981, ngày ngài bị ám sát mà không chết và được đem vào bệnh viện lần đầu tiên trong giáo triều của ngài.

 

story.pope.attacker.jpg

Tay sát thủ là Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ. Hôm Thứ Sáu 4/2/2005, tờ nhật báo Vatan ở Ankara Thổ Nhĩ Kỳ đă trích lại những lời của tay thủ phạm tín đồ Hồi giáo này viết nhắn gửi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II như sau:

 

·         Ngài và tôi, cả hai chúng ta đều chịu khổ đau trong việc cố gắng để truyền đạo trên khắp thế giới. Tôi hy vọng rằng ngài sẽ được b́nh phục một ngày gần đây. Chúng ta đang tiến đến ngày cùng tháng tận của thế giới. Thế hệ này là gịng dơi cuối cùng. Tôi hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài sức mạnh và sinh lực”.

 

Sau đây là din tiến 10 ln v giáo hoàng bt đầu đóng vai tṛ tha kế Thánh Phêrô th 263 này phi đưa vào bnh vin trong sut giáo triu dài 26 năm rưỡi ca ngài, mt giáo triu dài th ba trong lch s Giáo Hi.

 

Lần thứ nhất - 13/5/1981: nhập bệnh viện Gemelli sau khi bị ám sát chết hụt ở Quảng Trường Thánh Phêrô, và đă trải qua 6 tiếng bị mổ xẻ.

 

Lần thứ hai - 20/6/1981: tái nhập bệnh viện này và chịu một cuộc giải phẫu thứ hai vào ngày 5/8, Lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết.

 

Lần thứ ba - 15/7/1992: vào cùng bệnh viện để được mổ v́ cục bướu lành ở ruột.

 

Lần thứ tư - 2/7/1993: đến chụp CAT scan cùng bệnh viện Gemelli chỉ mấy tiếng vào buổi tối xem t́nh h́nh ra sao sau cuộc giải phẫu năm 1992.

 

Lần thứ năm - 11/11/1993: nhập bệnh viện Gemelli sau khi bị gẫy xương vai bên phải.

 

Lần thứ sáu - 29/4/1994: nhập bệnh viện Gemelli v́ bị ngă gẫy xương đùi tối hôm trước.

 

Lần thứ bảy - 14/8/1996: đến bệnh viện Regina Apostolorum Clinic ở Albano để được chụp CAT scan.

 

Lần thứ tám - 8/10/1996: nhập bệnh viện Gemelli để cắt ruột dư.

 

Lần thứ chín - 1/2/2005, Thứ Ba, v́ bị nhiễm trùng bộ phận hô hấp nguy kịch, Đức Thánh Cha được đưa vào bệnh viện Gemelli ở Rôma vào khoảng 11 giờ đêm. Tại bệnh viện này, vị giáo hoàng 84 tuổi đă được khám nghiệm đủ thứ, kể cả chụp quang tuyến X, để xem bệnh t́nh trầm trọng tới đâu. Ngài chưa một lần ở trong pḥng khẩn trị ICU (Intensive Care Unit) như lần này.

 

Lần thứ mười - 24/2/2005, Thứ Năm, vào lúc 10:45 sáng, Đức Thánh Cha lại được cấp thời đưa trở lại bệnh viện, v́ bệnh cúm tái phát để được chữa trị chuyên môn và khám nghiệm thêm. Ngài lại bị khó thở và lên cơn sốt. Bản văn của ṭa thánh cho biết về biến động bệnh t́nh của ngài như sau:

 

·         Chiều hôm qua, Thứ Tư 23/2, ĐTC đă tái phát những triệu chứng cúm ngài đă bị trước đây mấy tuần. Bởi thế, sáng nay ngài đă được đưa vào bệnh viện Agostino Gemelli để được chữa trị chuyên môn và khám nghiệm thêm”.

 

Sáng Chúa Nhật V Mùa Chay 13/3/2005, vị giám đốc văn pḥng báo chí ṭa thánh đă loan báo rằng:

 

·         Đức Thánh Cha, theo các vị bác sĩ chăm sóc ngài cho biết, chiều nay sẽ trở về Vatican và dưỡng bệnh ở đó”.

 

Thật vậy, trên chiếc xe minivan từ nhà thương về Vatican, qua một cánh cửa hé mở, Đức Thánh Cha, sau 18 ngày (từ 24/2) được điều trị bệnh thông khí quản, đă vẫy tay chào hàng ngàn người Rôma và khách hành hương đứng dọc hai bên đường từ nhà thương về Vatican. Nhưng có ai ngờ rằng đó là lần cuối cùng ngài vĩnh viễn không bao giờ trở lại nhà thương trần gian nữa để về Nhà Cha trên trời sau đó nửa tháng tại ngay tông dinh pḥng ngài.

 

Có thể nói Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chính thức trở thành Hy Tế Từ Ái từ ngày 13/5/1981:

 

Hy Tế ở chỗ ngài bị ám sát đến tí nữa mất mạng sống, nhưng máu ngài đă thực sự đổ ra, máu của vị đại diện Chúa Kitô thứ 264 trên trần gian của Giáo Hội Công Giáo, và xác của ngài từ lúc ấy đă được thông phần với đau thương của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis, trong việc bù đắp phần nào cho những ǵ thế giới cần phải có để được cứu chuộc.

 

Từ Ái ở chỗ, theo gương Đấng đă đến làm ḥa với nhân loại tội lỗi nơi mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua, ngài cũng đă tự động đến với tay sát thủ Ali Agca trong tù vào ngày 23/12/1983 như một cử chỉ thứ tha cho anh ta, và đă chính thức xin ân xá cho anh ta trong Đại Năm Thánh 2000, nhờ đó anh ta đă được chính phủ Ư thả ra vào ngày 12/1/2006.

 

Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Dziwisz ở TGP Krakow, Balan, vị đă từng làm bí thư của Đức Gioan Phaolô II vào lúc ngài bị ám sát, cũng là vị đă ôm lấy ngài khi ngài té xuống bởi trúng đạn, đă cho biết qua vị phát ngôn viên của ḿnh là Cha Robert Necek vào chính hôm nhân vật ấy được thả ra như sau:

 

·         Đức Gioan Phaolô II đă tha cho Ali Agca lâu lắm rồi. Giờ đây ngài đang nguyện cầu cho anh ta ở trên trời và tôi cũng cầu nguyện cho anh ta nữa. Tôi nhớ một câu nói của vị Giáo Hoàng này đại khái là: ‘Làm sao chúng ta có thể ra trước nhan Chúa mà chúng ta lại không thứ tha cho nhau chứ?’”

 

ĐTGM Stanislaw Dziwisz trước đây cũng đă cho cơ quan tin tức Balan PAP biết là Đức Gioan Phaolô II đă viết một bức thư cho Ali Agca nhưng không bao giờ gửi.

 

Theo tờ nhật báo Rzeczpospolita th́ trong bức thư ấy, được viết vào khoảng Tháng 5/1981 và 12/1983, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă đặt vấn đề với Agca là tại sao người Thổ Nhĩ Kỳ này muốn sát hại ngài:

 

·         Tại sao anh lại giết tôi, nếu cả hai chúng ta tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất?”

 

Trong bản Di Chúc của ḿnh, một bản di chúc dài 4 trang giấy, ngài chẳng những đă nói tới việc ngài hoàn toàn phó thác mạng sống của ngài cho Đấng Quan Pḥng Thần Linh qua bàn tay Từ Mẫu Maria, Đấng ngài liên lỉ sống đời tận hiến theo khẩu hiệu Totus Tuus của ngài, mà c̣n đặc biệt nói tới biến cố 13/5/1981 hai lần, v́ biến cố này liên quan tới mạng sống của ngài cũng như đến khẩu hiệu Totus Tuus của ngài.

 

Tiếc thay, bản di chúc chân thực của ngài, được Ṭa Thánh phổ biến ngay sau khi ngài qua đời, qua cơ quan Vatican Information Service ngày 7/4/2005, cho đến nay đă bị xuyên tạc hết sức sai lầm bằng những thứ truyền đơn dọa nạt, như được thấy ở một cộng đoàn thuộc TGP Los Angeles hôm Chúa Nhật 10/4/2011. Trong tờ truyền đơn được kẹp ngay trong Tờ Mục Vụ của chung Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam TGP này, người ta đọc thấy những xuyên tạc hết sức trắng trợn sau đây:

 

Điều giả dối thứ nhất đó là dám nhét vào Di Chúc của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II những ǵ ngài chẳng hề viết, chẳng hạn dám bảo rằng ngài được Chúa hiện ra tiên báo những biến cố thảm họa nên cần phải đọc kinh này kinh kia. Sau đây là nguyên văn những điều giả tạo được một bộ óc quỉ ma nào đó ngụy tạo như thế này (những chỗ được gạch dưới và được in đậm theo đúng trong bản văn dối trá này):

 

·         “Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy nguy hiểm và thử thách. Chúng con hăy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa, chính Chúa Giêsu đă hiện ra nhờ Cha thông báo cho các con những sứ điệp: Các con hăy cầu khẩn Thiên Chúa là Thiên Chúa các con, giải trừ gian nguy trong thế giới sắp sụp đổ này...”

 

Điều giả dối thứ hai đó là dám lấy quyền Ṭa Thánh để ban những thứ ân xá, những ân xá chưa hề được Ṭa Thánh ban như vậy bao giờ trong lịch sử của Giáo Hội, cả tiểu xá lẫn đại xá, cho những ai phổ biến những kinh nguyện được gán cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy đọc trong di chúc của ngài, những kinh nguyện được chia ra làm 4 phần. Nguyên văn những lời ban ân xá được một bàn tay bí mật quỉ quyệt nào đó viết ra như sau:

 

·         “Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người, th́ đă hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người th́ các con được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này sẽ được các Thiên Thần đưa về hưởng hạnh phúc muôn đời. Cha ban pháp lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này...”

 

Điều giả dối thứ ba đó là bản văn không đề ngày tháng, không hề có tên người dịch, mà chỉ có tên của một vị linh mục nào đó nguyên văn vắn tắt như sau:

 

·         “Trích dịch di chúc của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (theo bản tiếng Anh của Cha Laurensô thuộc bộ Giáo Lư Đức Tin Roma)”.  

 

Điều giả dối thứ bốn này là liên quan đến tính chất chân thực hóa những ǵ là giả dối được tên gian ác tuyên truyền, nhờ đó khiến người đọc cảm thấy chẳng những yên tâm về những ǵ minh đọc, mà c̣n hăng hái làm theo mệnh lệnh tiếp tay tuyên tuyền của hắn, v́ tài liệu giả dối họ tung ra đó xuất phát từ Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin chứ không phải tầm thường, một Thánh Bộ đă từng tung ra Bí Mật Fatima phần thứ ba trước đây.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, Bí Mật Fatima phần thứ ba được Thánh Bộ này tung ra ngày 26/6/2000 đă bị một linh mục ở Canada xuyên tạc và tung ra những bí mật sai lầm khác trong cộng đồng Dân Chúa khắp nơi và đă từng gây hoang mang rất nhiều từ sau khi Chị Lucia qua đời ngày 13/2/2005 tới nay. Bản Di Chúc của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng thế, một văn kiện cũng được Ṭa Thánh phổ biến vào năm 2005 sau khi vị giáo hoàng này qua đời, cũng đă bắt đầu bị ngụy tạo từ khi có thiên tai biển động sóng thần ở Nhật. Đó là lư do chúng ta thấy trong tờ di chúc giả tạo mới có những lời như sau:

 

·         “Các con yêu mến, khi Cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này; chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc tai nạn lớn sẽ xẩy ra tại các nước lớn như: Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin...”

 

Tóm lại, tờ giấy một trang mang tựa đề “Trích Di Chúc của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” này hoàn toàn là những ǵ giả tạo, không đúng với sự thật, không được tiếp tay tuyên truyền. Bản Di Chúc được chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết ra, có ngày tháng và kư tên đàng hoàng, bắt đầu từ ngày 6/3/1979 và sau đó được ngài điều chỉnh một số lần, lần dài nhất và cuối cùng vào ngày 17/3/2000, nội dung hoàn toàn về giờ chết của ngài và những ǵ chỉ liên quan đến thời điểm này.

 

Sau đây là nguyên văn Bản Di Chúc của ngài, được Ṭa Thánh phổ biến vào ngày 7/4/2005 (và được anh Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, dịch theo Vatican Information Service của Ṭa Thánh qua điện thư ngày 7/4/2005, một điện thư vẫn c̣n được lưu trữ trong trang mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh sau đây

http://visnews-en.blogspot.com/search?updated-max=2005-04-16T10%3A46%3A00%2B02%3A00&max-results=50 )

 

Chúc thư ngày 6/3/1979

(và những thêm thắt sau này)

 

“Con hoàn toàn thuộc về Mẹ -  Totus Tuus ego sum"

      

Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Amen.

   

“Bởi vậy các con hăy tỉnh thức, v́ các con không biết được giờ nào Chúa đến” (x Mt 24:42) – những lời này nhắc tôi về tiếng gọi sau hết, tiếng gọi sẽ xẩy ra vào bất cứ lúc nào Chúa muốn. Tôi muốn theo Người, và tôi muốn rằng hết mọi sự làm nên cuộc sống trần gian của tôi phải là những ǵ sửa soạn cho tôi về giây phút ấy. Tôi không biết bao giờ xẩy ra giây phút ấy, thế nhưng, như bất cứ những ǵ khác, tôi cũng xin đặt nó vào bàn tay Người Mẹ của Chủ Nhân tôi: Tất cả của con là của Mẹ Totus Tuus. Cũng trong cùng Đôi Tay từ mẫu này tôi xin trao phó hết mọi sự và hết mọi người liên quan tới đời sống và ơn gọi của tôi. Trong Đôi Tay này, trước hết, tôi xin trao phó Giáo Hội, cũng như Tổ Quốc của tôi cùng toàn thể nhân loại. Tôi cám ơn hết mọi người. Tôi xin mọi người hăy thứ tha cho tôi. Tôi cũng xin mọi người hăy nguyện cầu cho tôi để T́nh Thương của Thiên Chúa được tỏ hiện rạng ngời hơn là nỗi yếu hèn và thân phận bất xứng của tôi. 

   

Trong những ngày tĩnh tâm tôi đă đọc lại chúc thư của Đức Thánh Cha Phaolô VI. Những ǵ tôi đọc ấy đă thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.

    

Tôi không có sản vật ǵ lưu lại cần phải bỏ đi cả. Đối với những đồ nhật dụng tôi đă sử dụng, tôi xin hăy tùy nghi phân phát chúng đi. Xin đốt các thứ ghi chú tư riêng của tôi đi. Việc làm này tôi xin được thực hiện bởi cha Stanislaw là người tôi gửi lời cám ơn đă cộng sự và giúp đỡ tôi qua bao năm trường và quán xuyến. Về tất cả những niềm tri ân cảm tạ khác, tôi xin lưu giữ trong tâm khảm của ḿnh như chính Thiên Chúa biết, v́ khó ḷng bày tỏ chúng lắm.

     

Về vấn đề an táng, tôi xin lập lại những điều ấn định như đă được Đức Thánh Cha Phaolô VI nêu lên. (Đây là một ghi chú bên lề: chôn táng dưới đất, chứ không phải trong thạch mộ, 13.3.92).

    

“apud Dominum misericordia

et copiosa apud Eum redemption”.

    

Gioan Phaolô II

 

Rôma ngày 6 tháng 3 năm 1979

Sau khi tôi chết, xin hăy dâng Lễ và cầu nguyện cho tôi.

Ngày 5 tháng 3 năm 1990

 

Không đề ngày tháng

    

Tôi xin bày tỏ ḷng tin tưởng sâu xa của tôi là, bất chấp tất cả mọi yếu hèn của tôi, Chúa sẽ ban cho tôi tất cả những ơn cần thiết để đương đầu theo ư muốn của Ngài bất cứ công việc nào, thử thách hay khổ đau nào Ngài muốn nơi người tôi tớ của Ngài trong cuộc đời của tôi. Tôi cũng tin tưởng rằng Ngài sẽ không bao giờ để cho tôi, qua hành vi cử chỉ nào đó của tôi: lời nói, việc làm hay bỏ làm, phản lại những trách nhiệm tôi cần phải thi hành nơi Ngai Ṭa Thánh Phêrô này.

 

Ngày 24 tháng 2 – 1 tháng 3 năm 1980

    

Cũng trong những ngày tĩnh tâm này, tôi đă suy nghĩ về sự thật nơi Chức Linh Mục của Chúa Kitô trước viễn ảnh của cuộc Chuyển Tiếp mà đối với mỗi một người chúng ta là giây phút từ trần của ḿnh. Đối với chúng ta th́ Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô là một dấu hiệu hùng hồn (chữ “hùng hồn” này được thêm vào xen kẽ bên trên hàng chữ đang viết) về cuộc ra khỏi cơi đời này – để được sinh vào đời sau, sinh vào một lai thế.

    

Bởi vậy, tôi đă đọc bản chúc thư năm ngoái của ḿnh, bản chúc thư cũng được viết trong những ngày tĩnh tâm – tôi đă đối chiếu nó với chúc thư của vị đại tiền nhiệm Phaolô VI cũng là Người Cha của tôi, với chứng từ cao cả trước sự chết của một Kitô hữu và của một vị Giáo Hoàng – và tôi đă lập lại trong tôi nhận thức về những vấn đề được bản do tôi viết ra vào ngày 6 tháng 3 năm 1979 nói đến (một cách tạm thời).

     

Hôm nay tôi chỉ muốn thêm điều này: đó là mỗi một người trong chúng ta cần phải nhớ đến viễn ảnh chết chóc. Và cần phải sẵn sàng ra trước nhan Chúa và là Vị Thẩm Phán – Đấng vừa là Vị Cứu Chuộc vừa là Người Cha. Tôi luôn để ư đến điều này, khi kư thác giây phút quyết liệt ấy cho Người Mẹ của Chúa Kitô và của Giáo Hội – cho Người Mẹ là niềm hy vọng của tôi.

    

Thời điểm chúng ta đang sống đây là những lúc khốn khó và hỗn loạn khôn xiết kể. Con đường của Giáo Hội đă trở nên khó đi và gay go, đă trở thành một cuộc thử thách đặc biệt trong những lúc này đây, cả đối với Tín Hữu lẫn Chủ Chăn. Ở một số Xứ Sở (chẳng hạn như ở những xứ sở tôi đọc thấy trong những ngày tĩnh tâm của ḿnh), Giáo Hội đang trải qua một giai đoạn bị bách hại không kém ǵ những cuộc bách hại ở những thế kỷ đầu, thật ra c̣n hơn thế nữa về mức độ tàn bạo và hận thù. “Sanguis martyrum – semen christianorum” máu tử đạo là hạt giống Kitô hữu. Ngoài ư nghĩa này ra, nhiều người chết một cách vô tội ngay ở trong Xứ Sở chúng ta đang sống đây.

    

Một lần nữa, tôi muốn phó ḿnh hoàn toàn cho ơn Chúa. Chính Ngài sẽ quyết định khi nào và cách nào tôi chấm dứt cuộc sống trần gian của ḿnh cùng thừa tác vụ mục vụ của ḿnh. Dù sống hay chết, Totus Tuus trong Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thậm chí cho tới nay, khi chấp nhận sự chết, tôi hy vọng rằng Chúa Kitô sẽ ban cho tôi được ơn vượt qua sau hết, tức là ơn Phục Sinh (của tôi). Tôi cũng hy vọng rằng Người làm cho (cái chết ấy) trở thành ích lợi cho những ǵ quan trọng hơn đang được tôi t́m cách phục vụ, đó là phần rỗi của con người nam nữ, là sự an toàn của gia đ́nh nhân loại, trong đó có sự an toàn của tất cả mọi quốc gia và tất cả mọi dân tộc (trong đó tôi đặc biệt nói đến Quê Hương trần gian của tôi), cũng như trở thành lợi ích cho dân được Người đặc biệt trao phó cho tôi, cho vấn đề của Giáo Hội, cho vinh hiển của chính Thiên Chúa.

    

Tôi không muốn thêm bất cứ những ǵ vào điều tôi đă viết một năm trước đây, mà chỉ muốn bày tỏ việc sẵn sàng này mà thôi, với cả ḷng tin tưởng phó thác này nữa, một ḷng tin tưởng tôi lại có được trong những ngày cấm pḥng này đây. 

    

Gioan Phaolô II

    

Con hoàn toàn thuộc về Mẹ - Totus Tuus ego sum 

 

Ngày 5 tháng 3 năm 1982

 

Trong thời gian những ngày tĩnh tâm này tôi đă đọc (một số lần) bản văn chúc thư của ngày 6 tháng 3 năm 1979. Mặc dù tôi vẫn coi bản văn này là tạm thời (chứ chưa dứt khoát), song tôi vẫn để nguyên như cũ. Tôi không thay đổi ǵ (bấy giờ), và tôi cũng không thêm ǵ cả, liên quan tới những điều đă được đề cập đến trong ấy.

     

Việc  cố sát mạng sống của tôi vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, một cách nào đó, đă xác nhận tính cách chính xác của những lời được viết trong thời gian của những ngày tĩnh tâm năm 1980 (24 tháng 2 – 1 tháng 3).

     

Giờ đây tôi lại càng cảm thấy thấm thía hơn việc tôi hoàn toàn ở trong Bàn Tay Thiên Chúa, và tôi vẫn tiếp tục ở trong tay Chúa tôi, phó ḿnh cho Người trong Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Người (Totus Tuus).

    

Gioan Phaolô II 

 

Ngày 5 tháng 3 năm 1982

 

Đối với câu cuối cùng nơi bản chúc thư của ḿnh ngày 6 tháng 3 năm 1979 (“liên quan tới địa điểm / tức là tới chỗ an táng / tùy Hồng Y Đoàn và Đồng Hương quyết định”) – tôi xin nói rơ là tôi có ư nói tới vị tổng giám mục Krakow hay Tổng Hội Đồng của Hàng Giáo Phẩm Balan – Trong lúc này đây, tôi xin Hồng Y Đoàn hăy đáp ứng, bao nhiêu có thể, bất kỳ điều yêu cầu nào được đề cập tới trên đây.  

 

Ngày 1 tháng 3 năm 1985 (trong những ngày tĩnh tâm)

 

Trở lại vấn đề “Hồng Y Đoàn và Đồng Hương”: “Hồng Y Đoàn” không buộc phải bàn hỏi với “Đồng Hương” về vấn đề này, tuy nhiên hồng y đoàn vẫn có thể làm điều ấy, nếu v́ lư do nào đó hồng y đoàn cảm thấy cần làm như thế.

 

GPII 

 

Tuần Pḥng Năm Thánh 2000 (12-18 tháng 3)

(về bản chúc thư của tôi)

 

1.             Vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi mật nghị hồng y chọn Gioan Phaolô II, vị giáo chủ Balan, ĐHY Stefan Wyszynski đă nói với tôi rằng: “Nhiệm vụ của vị tân Giáo Hoàng là nhiệm vụ dẫn Giáo Hội vào Ngàn Năm Thứ Ba”. Tôi không biết là tôi có lập lại câu này đúng nguyên như thế hay chăng, nhưng tối thiểu đó là ư nghĩa của những ǵ tôi đă nghe thấy bấy giờ. Điều ấy được nói lên bởi Con Người đă đi vào lịch sử như là vị giáo chủ của Ngàn Năm này. Một vị giáo chủ cao cả. Tôi đă thấy được việc ngài thi hành sứ vụ của ngài, thấy được việc ngài hoàn toàn phó thác. Thấy được những cuộc chiến đấu của ngài. Thấy được cuộc chiến thắng của ngài. “Chiến thắng, nếu xẩy ra, sẽ là một cuộc chiến thắng nhờ Mẹ Maria” – Vị giáo chủ của Ngàn Năm này thường lập lại những lời ấy của vị tiền nhiệm ngài là Đức Hồng Y August Hlond.

     

Theo chiều hướng ấy, tôi đă sửa soạn một cách nào đó nhiệm vụ đă nêu lên cho tôi vào ngày 16 tháng 10 năm 1978. Khi tôi viết những lời này th́ Năm Thánh 2000 đă trở thành hiện thực. Đêm 24/12/1999, cánh Cửa tiêu biểu của Năm Thánh ở Đền Thờ Thánh Phêrô đă mở ra, rồi cửa Đền Thờ Gioan Lateranô, tới Đền Thờ Đức Bà Cả vào Ngày Đầu Năm, và vào ngày 19/1 đến Cửa Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành. Biến cố cuối cùng này, với đặc tính đại kết của nó, vẫn c̣n đặc biệt in sâu vào kư ức của tôi.

 

2.             Trong khi Năm Thánh diễn tiến th́, từng ngày, thế kỷ 20 được khép lại phía sau và thế kỷ 21 được mở ra trước mắt. Theo dự án của Đấng Quan Pḥng Thần Linh, tôi được sống trong một thế kỷ khốn khó thụt lùi về quá khứ, và giờ đây, trong năm cuộc đời tôi ở vào tuổi 80 (‘octogesima adveniens’), đă đến lúc hỏi ḿnh là đó có phải là lúc cùng với ông Simêon trong thánh kinh lập lại câu ‘nunc dimittis’.

    

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ngày tấn công vị Giáo Hoàng trong cuộc triều kiến chung ở Quảng Trường Thánh Phêrô, Đấng Quan Pḥng Thần Linh đă cứu tôi khỏi chết một cách nhiệm lạ. Chính Đấng là Chúa Duy Nhất của sự sống và sự chết đă kéo dài sự sống của tôi, một cách nào đó Ngài đă trả nó lại cho tôi. Từ lúc đó sự sống của tôi lại càng thuộc về Ngài hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhận ra rằng tôi phải tiếp tục việc phục vụ tôi đă được kêu gọi vào ngày 16 tháng 10 năm 1978 cho đến mức nào. Tôi xin Ngài hay gọi tôi về khi nào như Ngài muốn. ‘Dù sống hay chết chúng ta đều thuộc về Chúa… chúng ta là của Chúa’ (x Rm 14:8). Tôi cũng hy vọng rằng, bao lâu tôi c̣n được kêu gọi phục vụ Giáo Hội với vai tṛ thừa kế Thánh Phêrô, T́nh Thương của Thiên Chúa sẽ ban cho tôi sức mạnh cần thiết cho việc phục vụ này. 

 

3.             Trong các ngày tĩnh tâm hằng năm của ḿnh, tôi đều đọc lại chúc thư của ngày 6 tháng 3 năm 1979. Tôi tiếp tục giữ những điều đă được viết trong bản văn này. Những ǵ bấy giờ, và ngay cả trong các tuần pḥng sau đó, đă được thêm vào đều cho thấy t́nh h́nh khốn khó và căng thẳng nói chung đánh dấu thập niên 1980. Từ mùa thu năm 1989, t́nh h́nh này đă đổi thay. Thập niên cuối cùng của thế kỷ này không có những thứ căng thẳng trước đó; như thế không có nghĩa là nó không kéo theo ḿnh những trục trặc và khó khăn mới. Phải đặc biệt chúc tụng Đấng Quan Pḥng Thần Linh về thập niên cuối cùng này, v́ giai đoạn được gọi là ‘chiến tranh lạnh’ đă được kết thúc mà không xẩy ra cuộc xung đột vũ lực nguyên tử, một cuộc xung đột nguy hiểm đă từng đè nặng trên thế giới trong giai đoạn trước. 

 

4.             Ở trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba “in medio Ecclesiae”, một lần nữa, tôi muốn bày tỏ niềm tri ân cảm tạ Thánh Linh về đại ân Công Đồng Chung Vaticanô II là những ǵ, cùng với toàn thể Giáo Hội, nhất là với toàn thể hàng giáo phẩm, tôi cảm thấy nặng nợ. Tôi tin rằng về lâu về dài các tân thế hệ sẽ rút t́m thấy những kho tàng được Công Đồng của thế kỷ 20 này đă cống hiến cho chúng ta. Là vị giám mục đă tham dự vào biến cố công đồng này từ ngày đầu tiên cho đến ngày sau hết, tôi muốn kư thác gia sản lớn lao này cho tất cả những ai đang và những ai sẽ được kêu gọi hiện thực nó trong tương lai. Về phần ḿnh, tôi xin cảm tạ Vị Mục Tử hằng sống, Đấng đă cho tôi được đóng góp vào việc làm rất cao cả này trong suốt thời giáo triều của tôi.

    

“In medio Ecclesiae”… từ những năm đầu tiên của thừa tác vụ làm giám mục của ḿnh, thật sự là nhờ Công Đồng này, tôi đă có thể cảm nghiệm được mối hiệp thông huynh đệ của Hàng Giáo Phẩm. Là một linh mục ở tổng giáo phận Krakow, tôi đă cảm nghiệm được mối hiệp thông huynh đệ này nơi các vị linh mục, và Công Đồng này đă mở ra cho tôi một chiều kích mới cho cảm nghiệm này.

 

5.             Biết bao nhiêu là người tôi cần phải liệt kê ra đây! Có lẽ Chúa là Thiên Chúa đă gọi họ về với Ngài đa số trong họ rồi, c̣n đối với những ai vẫn c̣n ở bên này thế giới, chớ ǵ những lời của bản chúc thư này là những ǵ hiệu triệu họ, hết mọi người và hết mọi nơi, bất kỳ họ ở đâu đi nữa.

 

Trong hơn 20 năm tôi đang làm trọn thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô “in medio Ecclesiae” tôi đă cảm nghiệm được tấm ḷng rộng lượng và thậm chí cả việc hợp tác đắc lực của rất nhiều vị hồng y, tổng giám mục và giám mục, rất nhiều linh mục, rất nhiều con người tận hiến – nam tu và nữ tu – và sau hết là rất nhiều, rất ư là nhiều giáo dân, trong Giáo Triều, tại giáo phận Rôma, cũng như ở ngoài những môi trường này.

    

Làm sao tôi lại không tri ân nhớ đến tất cả mọi vị giám mục trên thế giới, các vị tôi đă gặp trong những cuộc “viếng thăm Ṭa Thánh ngũ niên” của các vị! Làm sao tôi không nhớ đến rất nhiều người anh em không phải là Kitô hữu Công giáo! Các vị tôn sư Rôma cũng như rất nhiều đại diện tôn giáo không phải Kitô hữu! Rồi biết bao nhiêu là các vị đại diện giới văn hóa, khoa học, chính trị và giới phương tiện truyền thông xă hội!

 

6.             Khi đời ḿnh về chiều, tôi nhớ lại thuở ban đầu, nhớ đến cha mẹ của tôi, đến người anh của tôi, đến người chị của tôi (người tôi chưa hề biết đến v́ chị đă chết trước khi tôi vào đời), đến giáo xứ ở Wadowice, nơi tôi được rửa tội, đến thành phố tôi quí mến ấy, đến các bạn bè của tôi, những người bạn từ hồi c̣n tiểu học, trung học và đại học, cho cả đến thời gian hành nghề, lúc tôi c̣n là một công nhân, rồi ở giáo xứ Niegowic, qua giáo xứ Thánh Florian ở Krakow, nhớ đến thừa tác vụ mục vụ cho học đường, đến môi trường của… đến tất cả mọi môi trường… đến Krakow và đến Rôma… đến dân được Chúa đặc biệt trao phó cho tôi.

    

Với tất cả mọi người tôi chỉ muốn nói một điều duy nhất, đó là “Xin Chúa thưởng công cho anh chị em”.

“In manus tuas, Domine, commendo spiritum meum”.

A.D.

Ngày 17 tháng 3 năm 2000