|
Mục
Dụ Gia Đ́nh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 559 Thứ Sáu
27/5/2011
Trong
giáo triều dài thứ ba trong lịch sử của ḿnh, dài 26 năm rưỡi, ngoài
linh mục và giới trẻ là hai thành phần được vị giáo hoàng triết gia nhân
bản Gioan Phaolô II đặc biệt ưu tiên chăm sóc mục vụ, c̣n có cả những ai
sống đời hôn nhân gia đ́nh nữa. Thật vậy, vào chính ngày 13/5/1981, cách
đây 30 năm, ngày ngài bị ám sát chết hụt ở Quảng trường Thánh Phêrô,
ngài đă chính thức thành lập hai cơ cấu mới trong Giáo Hội để lo việc
mục vụ cho lănh vực hôn nhân gia đ́nh này, một môi trường nhân bản được
ngài cảm thấy càng ngày càng trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết trước
cuộc khủng bố tấn công của mănh lực văn hóa sự chết. Hai cơ cấu này đó
là Hội Đồng Ṭa Thánh về Gia Đ́nh và Giáo Hoàng Học Viện nghiên cứu về
Hôn Nhân Gia Đ́nh.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă nhắc lại việc thành lập hai cơ cấu này ở
ngay đầu bài huấn từ ngày 13/5/2011 ngài ngỏ cùng thành phần phục vụ
thuộc Giáo Hoàng Học Viện nghiên cứu về Hôn Nhân Gia Đ́nh ở Đại Học Ṭa
Thánh Latêranô
này như sau:
"Hôm nay tôi hân hoan gặp gỡ anh chị em, sau ít ngày phong chân phước
cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị 30 năm trước, như chúng ta đă
biết, đă muốn thành lập cả Hội Đồng Giáo Hoàng đặc trách về Gia Đ́nh lẫn
giáo hoàng học viện của anh chị em; hai cơ cấu cho thấy ngài mănh liệt
xác tín là chừng nào về tầm quan trọng quyết liệt của gia đ́nh đối với
Giáo Hội cũng như đối với xă hội".
Chưa hết, đối với ưu tiên mục vụ liên quan tới lănh vực hôn nhân gia
đ́nh này, vị giáo hoàng hăng say rao giảng "phúc âm sự sống" và cương
quyết bênh vực "văn hóa sự sống" của chúng ta là tân chân phước Gioan
Phaolô II này c̣n thành lập Cuộc Hội Ngộ Thế Giới Các Gia Đ́nh từ năm
1994, năm về gia đ́nh được Liên Hiệp Quốc tổ chức, nhưng lại chính là
năm gia đ́nh bị khủng bố tấn công hơn bao giờ hết ở Hội Nghị Cairô Ai
Cập về Dân Số, mà nếu không có vị giáo hoàng thiên định này hết ḿnh can
thiệp bằng mọi cách và mọi giá, các gia đ́nh trên thế giới đă bị quyền
lực của văn hóa sự chết ăn tươi nuốt sống bằng chính sách toàn cầu hóa
phá thai, một âm mưu thâm độc đă được chính quyền Clinton Mỹ quốc bấy
giờ nhiệt liệt ủng hộ cùng tài trợ và theo đó được các nhóm kế hoạch hóa
gia đ́nh hung hăng vận động hợp thức hóa để buộc các nước trên thế giới,
nhất là các nước nghèo và nhận việc trợ của Mỹ, phải triệt để áp dụng.
Thế là biến cố Cuộc Hội Ngộ Thế Giới Các Gia Đ́nh của Giáo Hội hoàn vũ
bắt đầu vào thời điểm 8-9/10/1994 ở Rôma, với đề tài "Cuộc Hội Ngộ
Thế Giới thứ nhất được Đức Gioan Phaolô II kêu gọi trong Năm Gia Đ́nh".
Sau đó, cứ 3 năm một lần lại tái diễn Cuộc Hội Ngộ Thế Giới Các Gia Đ́nh. Đó
là lư do, cho tới nay biến cố của Giáo Hội hoàn vũ về hôn nhân gia đ́nh
này đă tuần tự diễn tiến ở các nơi khác nhau trên thế giới như sau: Lần
thứ hai: vào thời điểm 4-5/10/1997 ở Rio de Janerio (Ba Tây), với chủ đề
"Gia Đ́nh: tặng ân và dấn thân, niềm hy vọng của nhân loại"; lần
thứ ba: vào những ngày 14-15/10/2000 ở Rôma, với chủ đề "Con cái là
mùa xuân của gia đ́nh và xă hội"; lần thứ tư: vào thời khoảng
25-26/1/2003 ở Manila (Phi Luật Tân), với chủ đề "Gia Đ́nh Kitô giáo:
Tin mừng cho ngàn năm thứ ba"; lần thứ năm: vào thời điểm 8-9/7/2006
ở Valencia (Tây Ban Nha), với chủ đề "Việc truyền đạt đức tin trong
gia đ́nh"; lần thứ sáu: vào những ngày 14-18/1/2009 ở Mexico City Mễ
Tây Cơ, với chủ đề "Gia đ́nh là thày dạy về các giá trị nhân bản và
Kitô giáo"; lần thứ bảy: vào thời khoảng 30/5 đến 2/6/2012 ở Milan Ư
quốc, với chủ đề "Gia đ́nh: làm việc và nghỉ ngơi".
Ngoài ra, trong Năm Gia Đ́nh được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tổ chức cho
và trong Giáo Hội hoàn vũ nhân năm về gia đ́nh của Liên Hiệp Quốc 1994,
đầu năm, ngài gửi một Bức Thư cho các gia đ́nh vào Lễ Đức Mẹ Dâng
Con mùng 2/2/1994 và cuối năm ngài gửi thêm một Bức Thư cho thành
phần con cái vào ngày 13/12/1994. Tiếp tục chiều hướng bênh vực đời
sống hôn nhân gia đ́nh trước cuộc khủng bố tấn công của quyền lực văn
hóa sự chết, vào năm sau đó, năm 1995, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă
gửi một Bức Thư cho nữ giới vào ngày 29/6/1995, v́ năm 1995 này
Liên Hiệp Quốc muốn giành riêng cho nữ giới và tổ chức Hội Nghị Bắc Kinh
ở Trung quốc về nữ giới, một biến cố toàn cầu cho thấy quyền lực văn hóa
sự chết nhất định không chịu buông tha những ǵ họ bất thành trong năm
gia đ́nh 1994 tại Hội Nghị Cairô về dân số, ở chỗ, lợi dụng hội nghị về
nữ giới ở Bắc Kinh trong năm 1995 ngay sau năm về gia đ́nh 1994, các
nhóm pro choice trên thế giới lại nối ṿng tay lớn hung hăng tranh đấu
cho quyền lợi của nữ giới đối với thân thể của họ, liên quan tới vấn đề
phá thai.
Về mục vụ gia đ́nh, không thể nào không nói đến những giáo huấn chính
thức liên quan tới một số văn kiện quan trọng sau đây của chung Giáo
Hội dưới triều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: trước hết, đối nội, là
Tông Huấn "Familiaris Consortio - T́nh Nghĩa Gia Đ́nh", ban hành
ngày 22/11/1981, một văn kiện về vai tṛ của gia đ́nh Kitô giáo trong
thế giới tân tiến, một văn kiện đúc kết Thượng Nghị Giám Mục Thế
Giới thường lệ lần thứ V diễn ra vào thời khoảng 26/9 đến 25/10/1980,
một thượng nghị giám mục thế giới đầu tiên của giáo triều Đức Gioan
Phaolô II bàn về chủ đề "Gia Đ́nh Kitô giáo", một vấn đề cho thấy
ngài lưu tâm đến gia đ́nh ngay từ đầu giáo triều của ḿnh; sau đó, đối
ngoại, là Bản Hiến Chương về Các Quyền Lợi của Gia Đ́nh ngày
22/10/1983 được Ṭa Thánh gửi chung đến tất cả mọi người, mọi cơ cấu tổ
chức cùng hết mọi thẩm quyền trên thế giới c̣n quan tâm tới sứ vụ của
gia đ́nh trong thế giới ngày nay. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lưu tâm
và ưu tiên ngay từ đầu mục vụ gia đ́nh chẳng những qua Thượng Nghị Giám
Mục Thế Giới đầu tiên trong giáo triều của ngài như thế, mà c̣n qua loạt
bài giáo lư của ngài về nhân bản nữa.
Thật vậy, theo gương của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô I trong việc lợi
dụng các buổi triều kiến chung - general audience vào Thứ Tư hằng tuần
để dạy giáo lư, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đă liên tục dạy giáo
lư cho con cái ḿnh suốt 26 năm rưỡi trời về đủ mọi lănh vực thần học,
thánh mẫu, giáo hội và tu đức, nhưng mở đầu về nhân bản, v́ ngài đă dùng
5 năm trời (1979-1984) để khai triển đề tài “t́nh yêu con người theo
ư định của Thiên Chúa”. Đề tài này có thể được chia ra làm ba phần,
phần nhất được bắt đầu bằng một loạt 23 bài giáo lư về sự hiệp nhất
nguyên thủy giữa người nam và người nữ theo sách Khởi Nguyên, trong
khoảng thời gian từ ngày 5-9-1979 đến ngày 2-4-1980. Sau đó chuyển sang
phần hai với 41 bài giáo lư về cái phúc của những ai có ḷng trong sạch
theo bài giảng trên núi và thư thánh Phaolô, vào thời khoảng từ ngày
16-4-1980 đến ngày 6-5-1981. Cuối cùng phần ba đă được bắt đầu với 50
bài về thần học hôn nhân và độc thân theo ư nghĩa phục sinh của thân
xác, thời khoảng từ ngày 11-11-1981 đến ngày 4-7-1984. Loạt bài giáo lư
về tài “t́nh yêu con người theo ư định của Thiên Chúa” cuối cùng
được kết thúc bằng 12 bài, thời khoảng từ ngày 11-7 đến 21-11-1984, về
việc ôn lại Thông Điệp “Sự Sống Con Người” của Đức Thánh Phaolô VI. Tất
cả tổng số bài giáo lư về hôn nhân gia đ́nh liên quan tới thần học về
thân xác này của ngài là 136 bài.
Sau đây, chúng ta cần đi sâu vào chính nội dung giáo huấn của ngài về
hôn nhân gia đ́nh, để nhờ đó thành phần sống Mầu Nhiệm Cao Cả liên quan
tới Chúa Kitô và Giáo Hội chúng ta có thể trở thành một cộng đồng yêu
thương và sự sống nhờ đó trở thành một Giáo Hội Tại Gia, một Giáo Hội
Thu Nhỏ. Trước hết, chúng ta hăy cố gắng thấm thía một đoạn tiêu biểu
trong Thư Gửi Các Gia Đ́nh của ngài ngày 2/2/1994 liên quan tới Mầu
Nhiệm Cao Cả làm nên cốt lơi của đời sống hôn nhân. Sau nữa, chúng ta
cần ôn lại huấn dụ của ngài muốn nhắn nhủ chung các gia đ́nh và riêng
các đôi phối ngẫu nhân ngày giành cho các gia đ́nh trong Đại Năm Thánh
2000 là ngày 15/10. Và sau hết chúng ta cùng với ngài chúng ta cầu cho
các gia đ́nh, một kinh nguyện được chính ngài soạn cho Cuộc Hội Ngộ Thế
Giới Các Gia Đ́nh lần IV ở Manila Phi Luật Tân năm 2003.
Hôn Nhân Gia Đ́nh: Mầu Nhiệm Cao Cả
(Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II: Thư Gửi Các Gia Đ́nh ngày 2/2 trong Năm Gia
Đ́nh 1994, đoạn 19)
Thánh Phaolô sử dụng một cụm từ ngắn gọn để ám chỉ về đời sống gia đ́nh:
đó là một “mầu nhiệm cao cả” (Eph 5:32). Những ǵ ngài viết trong
Bức Thư gửi cho Kitô hữu Êphêsô này về “mầu nhiệm cao cả”, mặc dù được
sâu xa bắt nguồn từ Sách Khởi Nguyên cũng như từ toàn thể truyền thống
Cựu Ước, song lại tiêu biểu cho một đường lối mới được thể hiện sau đó
nơi Giáo Huấn của Giáo Hội.
Giáo Hội tuyên xưng rằng Hôn Nhân, một Bí Tích của mối giao ước giữa
người chồng và người vợ, là một “mầu nhiệm cao cả”, v́ nó thể hiện
t́nh yêu phu thê của Chúa Kitô đối với Giáo Hội. Thánh Phaolô viết:
“Hỡi những người chồng, hăy yêu thương vợ của ḿnh, như Chúa Kitô đă yêu
thương Giáo Hội và hiến ḿnh cho Giáo Hội, để Người thánh hóa Giáo Hội,
thanh tẩy Giáo Hội bằng nước rửa của lời nói” (Eph 5:25-26). Thánh Tông
Đồ ở đây đang nói về Phép Rửa là những ǵ đă được ngài nói dài trong Bức
Thư gửi cho Kitô hữu Rôma, bức thư ngài tŕnh bày phép rửa này như là
việc thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô để được chia sẻ với sự
sống của Người (x Rm 6:3-4). Nơi Bí Tích này, người tín hữu được hạ
sinh như là một con người mới, v́ Phép Rửa có quyền năng thông ban
sự sống mới, sự sống của chính Thiên Chúa. Mầu nhiệm của vị Thiên Chúa
Làm Người, một cách nào đó, được thu gọn vào biến cố Phép Rửa. Như Thánh
Irenaeus về sau nói, cùng với nhiều vị Giáo Phụ khác của Giáo Hội ở cả
Đông phương lẫn Tây phương, là “Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta, Con
Thiên Chúa, đă trở nên con của loài người để loài người được trở nên con
Thiên Chúa”.
Như thế, vị Phu Quân cũng chính là Vị Thiên Chúa làm người. Trong Cựu
Ước, Giavê xuất hiện như Vị Phu Quân của Yến Duyên là dân được tuyển
chọn – một vị Phu Quân vừa luyến ái vừa nghiêm khắc, vừa ghen tương vừa
trung tín. Những lúc phản bội, đào ngũ và thờ ngẫu tượng của Yến Duyên,
những lúc được các vị Tiên Tri diễn tả bằng những từ ngữ mănh liệt và
khích động, cũng không bao giờ có thể làm tắt lịm t́nh yêu được Vị
Thiên Chúa Hôn Phu “yêu thương đến cùng” (x Jn 13:1).
Việc xác nhận và hoàn trọn mối liên hệ phu thê giữa Thiên Chúa và dân
của Ngài được hiện thực nơi Chúa Kitô, trong Tân Ước. Chúa Kitô bảo đảm
với chúng ta rằng Vị Hôn Phu này ở với chúng ta (x Mt 9:15). Người ở với
tất cả chúng ta; Người ở với Giáo Hội. Giáo Hội trở thành một Hôn Thê,
vị Hôn Thê của Chúa Kitô. Vị Hôn Thê được Bức Thư gửi Kitô hữu Êphêsô
nói tới này hiện diện ở nơi mỗi một con người được rửa tội và như là một
hôn thê tŕnh diện trước Vị Hôn Phu của ḿnh. “Chúa Kitô đă yêu thương
Giáo Hội và đă hiến ḿnh cho Giáo Hội…, để Người thấy được một Giáo Hội
vinh quang, vô t́ tích hay dấu vết hoặc bất cứ điều ǵ như thế, hầu Giáo
Hội trở nên thánh hảo vẹn tuyền” (Eph 5:25-27). T́nh yêu Vị Hôn Phu “đă
yêu thương” Giáo Hội “cho đến cùng” tiếp tục canh tân t́nh trạng thánh
đức của Giáo Hội nơi các vị thánh của Giáo Hội, cho dù Giáo Hội vẫn là
Giáo Hội của thành phần tội nhân. Ngay cả thành phần tội nhân, “thành
phần thu thuế và gái điếm”, cũng được kêu gọi nên thánh, như chính Chúa
Kitô khẳng định trong Phúc Âm (x Mt 21:31). Tất cả đều được kêu gọi để
trở nên một Giáo Hội vinh quang, thánh hảo và vẹn tuyền. Chúa phán: “Hăy
thánh hảo v́ Ta thánh hảo” (Lev 11:44; x 1Pt 1:16).
Đó là ư nghĩa sâu xa nhất của “mầu nhiệm cao cả” này, một ư nghĩa nội
tại của tặng ân bí tích trong Giáo Hội, một ư nghĩa sâu xa nhất
của Phép Rửa và Thánh Thể. Những bí tích này là hoa trái của t́nh yêu Vị
Hôn Phu đă yêu thương chúng ta đến cùng, một t́nh yêu tiếp tục lan tỏa
và ban phát để con người được thông dự vào sự sống siêu nhiên hơn nữa.
Sau khi nói “hỡi những người chồng, hăy yêu thương vợ ḿnh” (Eph 5:25),
Thánh Phaolô c̣n nhấn mạnh thêm rằng: “Chồng phải yêu thương vợ thậm chí
như chính thân thể ḿnh. Ai yêu thương vợ là yêu thương bản thân ḿnh.
V́ không ai từng ghét xác thịt của ḿnh cả, song nuôi dưỡng và chăm sóc
nó, như Chúa Kitô đối với Giáo Hội, v́ chúng ta là chi thể của thân ḿnh
Người” (Eph 5:28-30). Rồi Thánh Nhân thúc giục các đôi phối ngẫu bằng
những lời lẽ như sau: “Hăy nhường nhịn nhau v́ ḷng tôn kính Chúa Kitô”
(Eph 5:21).
Thật sự đây là một thứ tŕnh bày mới mẻ về sự thật bất biến liên quan
tới đời sống hôn nhân gia đ́nh theo chiều hướng của Tân Ước. Chúa Kitô
đă mạc khải sự thật này trong Phúc Âm bằng việc Người hiện diện ở Cana
xứ Galilêa, bằng hy tế Thập Giá và các Bí Tích của Giáo Hội Người. Nhờ
thế, thành phần làm chồng làm vợ khám phá thấy nơi Chúa Kitô cái điểm
tựa cho t́nh yêu phu thê của họ. Khi nói Chúa Kitô là Vị Hôn Phu của
Giáo Hội, Thánh Phaolô sử dụng kiểu so sánh t́nh yêu phu thê là những ǵ
đă được đề cập tới ở Sách Khởi Nguyên: “Người nam ĺa bỏ cha mẹ ḿnh mà
gắn bó với vợ ḿnh, và cả hai trở thành một xác thịt” (Gen 2:24). Đó là
“mầu nhiệm cao cả” của một t́nh yêu hằng hữu đă từng hiện diện nơi việc
tạo thành, được tỏ hiện nơi Đức Kitô và được kư thác cho Giáo Hội. Thánh
Phaolô lập lại rằng: “Mầu nhiệm này là một mầu nhiệm sâu xa, tôi đang
muốn nói đến Chúa Kitô và Giáo Hội” (Eph 5:32). Bởi thế, Giáo Hội không
thể nào được hiểu như là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, như là dấu hiệu của
việc con người Giao Ước với Thiên Chúa trong Chúa Kitô, hay như bí tích
cứu độ phổ quát, trừ khi chúng ta nhớ rằng “mầu nhiệm cao cả” này có
liên quan tới việc tạo dựng nên con người có nam có nữ, cũng như tới ơn
gọi của cả hai trong việc yêu thương phu thê, trong vai tṛ làm cha và
vai tṛ làm mẹ. “Mầu nhiệm cao cả” này, đó là Giáo Hội và nhân loại
trong Chúa Kitô, không hiện hữu một cách tách biệt đối với “mầu nhiệm
cao cả” được thể hiện nơi “một xác thịt” (x Gen 2:24; Eph 5:31-32), tức
là nơi thực tại của đời sống hôn nhân gia đ́nh.
Chính gia đ́nh là mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa. Là “giáo hội tại
gia”, gia đ́nh là hôn thê của Chúa Kitô. Giáo Hội hoàn vũ, và hết
mọi Giáo Hội riêng trong Giáo Hội hoàn vũ, được tỏ hiện một cách trực
tiếp nhất như là hôn thê của Chúa Kitô nơi “giáo hội tại gia” cũng như
nơi cảm nghiệm yêu thương của giáo hội tại gia này: cảm nghiệm của t́nh
yêu phu thê, t́nh yêu cha mẹ, t́nh yêu huynh đệ, t́nh yêu của một cộng
đồng bao gồm những con người và các thế hệ. Chúng ta có thể nghĩ rằng
t́nh yêu của con người thiếu được hay chăng Vị Hôn Phu này và t́nh yêu
mà Người đă yêu thương chúng ta trước cho đến cùng? Chỉ khi nào những
người làm chồng và làm vợ tham phần vào t́nh yêu ấy cũng như vào “mầu
nhiệm cao cả” ấy, họ mới có thể yêu thương “đến cùng” mà thôi. Trừ khi
họ thông dự vào t́nh yêu ấy, bằng không họ sẽ không biết yêu thương “cho
đến cùng” là ǵ, và chẳng biết quan trọng là chừng nào những đ̣i hỏi của
t́nh yêu này. Và như thế th́ rất ư là nguy hiểm đối với họ.
Giáo huấn của Bức Thư gửi Kitô hữu Êphêsô khiến chúng ta lấy làm bỡ ngỡ
lạ lùng trước tính cách sâu xa của nó cũng như trước thẩm quyền giảng
dạy về đạo lư của nó. Nói đến hôn nhân, và gián tiếp đến gia đ́nh,
như là một “mầu nhiệm cao cả” liên quan tới Chúa Kitô và Giáo Hội, Thánh
Phaolô đă tái khẳng định những ǵ ngài đă nói trước đó với thành phần
làm chồng rằng: “Mỗi người trong anh em hăy yêu thương vợ ḿnh như chính
ḿnh”. Ngài nói tiếp: “Và người vợ hăy tôn kính chồng của ḿnh” (Eph
5:33). Tôn kính, vị người vợ yêu thương và biết rằng ḿnh đă được yêu
thương. Chính v́ t́nh yêu thương này mà vợ chồng mới trở nên tặng ân
cho nhau. Yêu thương bao gồm việc nhận biết phẩm vị riêng tư của
người khác, và tính cách chuyên nhất đặc thù của ḿnh hay của vợ. Thật
vậy, mỗi một con người phối ngẫu, là con người, theo ư muốn của Thiên
Chúa, trong tất cả mọi tạo sinh trên trái đất này, sống cho ḿnh. Tuy
nhiên, mỗi người trong họ, bằng tác hành ư thức và hữu trách, tự hiến
bản thân ḿnh cho nhau và cho con cái được Chúa ban. Vấn đề ở đây là
Thánh Phaolô tiếp tục những lời huấn dụ của ngài bằng cách làm âm vang
điều răn thứ tư: “Hỡi con cái, hăy vâng lời cha mẹ của ḿnh trong Chúa,
v́ đó là điều chân thực. ‘Hăy tôn kính cha mẹ’ (đây là giới răn thứ nhất
được kèm theo lời hứa là), ‘để các người sống an lành và để các người
sống lâu dài trên trái đất này’. Hỡi những người làm cha, đừng quở trách
con cái ḿnh khiến chúng tức giận, nhưng hăy dạy bảo chúng theo kỷ cương
và lời Chúa dẫn dắt” (Eph 6:1-4). Vậy Thánh Tông Đồ thấy nơi giới răn
thứ bốn này việc hoàn toàn dấn thân của niềm tương kính giữa vợ và
chồng, giữa cha mẹ và con cái, và ngài nhận thấy nơi mối tương kính này
cái nguyên tắc bền vững của gia đ́nh.
Cái tổng luận to tát vĩ đại của Thánh Phaolô liên quan tới “mầu nhiệm
cao cả” này, ở một nghĩa nào đó, hiện lên như là một thứ summa
hay tổng lược giáo huấn về Thiên Chúa và loài người, một mầu
nhiệm cao cả được Chúa Kitô hoàn trọn. Tiếc thay, tư tưởng Tây phương,
theo đà phát triển của chủ nghĩa duy lư tân tiến, dần dần đă xa
vời với giáo huấn ấy. Nhà triết gia nêu lên nguyên tắc “Cogito, ergo
sum – tôi nghĩ tưởng nên tôi hiện hữu” cũng cống hiến cho quan niệm
tân tiến về con người tính cách lưỡng diện đặc thù chuyên biệt của nó.
Nó là một mẫu thức duy lư trong việc gây ra nơi con người cái hoàn toàn
tương phản giữa tinh thần và thân xác, giữa thân xác và tinh thần. Thế
nhưng, con người là một ngôi vị duy nhất với cả thân xác và tinh thần
của họ. Thân xác không bao giờ được biến thành thuần chất thể: nó là
một thân thể được tinh thần hóa, như tinh thần của con người thật là
gắn bó với thân xác mà họ có thể được diễn tả như là một tinh thần
nhập thể. Nguồn kiến thức dồi dào nhất về thân thể là Lời hóa thành
nhục thể. Chúa Kitô đă tỏ cho con người biết được bản thân họ. Ở
một nghĩa nào đó, câu phát biểu này của Công Đồng Chung Vaticanô II là
câu trả lời đă được Giáo Hội mong đợi từ lâu để cống hiến cho chủ nghĩa
duy lư tân tiến vậy.
Câu trả lời này có một tầm vóc rất quan trọng để hiểu biết gia đ́nh,
nhất là trước bối cảnh của nền văn minh ngày nay, một nền văn minh, như
đă nói, dường như ở rất nhiều trường hợp đă buông xuôi nỗ lực trở thành
một “nền văn minh yêu thương”. Thời đại tân tiến này đă đạt được nhiều
tiến bộ trong việc hiểu biết cả thế giới vật chất lẫn tâm lư con người,
thế nhưng, đối với chiều kích sâu xa nhất, chiều kích siêu h́nh học của
ḿnh th́ con người đương thời vẫn c̣n là một hữu thể vô tri về
bản thân ḿnh rất nhiều. Bởi thế, gia đ́nh vẫn c̣n là một thực tại mù
mờ vô thức. Kết quả của t́nh trạng ly gián khỏi “mầu nhiệm cao cả”
được Thánh Tông Đồ nói tới là thế.
Việc tách ĺa tinh thần và thân xác nơi con người đă dẫn đến một khuynh
hướng càng ngày càng gia tăng trong việc coi thân thể của con người,
không theo những thể loại đặc biệt giống như Thiên Chúa của nó, mà là
dựa trên căn bản nó giống với tất cả những thân thể khác có mặt trong
thế giới thiên nhiên này, những thân xác được con người sử dụng như loại
vật thể nguyên chất trong việc cố gắng sản xuất ra các thứ vật dụng để
hưởng dùng. Thế nhưng ai cũng có thể nhận ra ngay những hiểm nguy khổng
lồ là chứng nào đang thập tḥ ở đằng sau việc áp dụng cái qui tắc ấy cho
con người. Khi thân thể của con người, được coi như tách biệt khỏi tinh
thần và tâm tưởng, bị sử dụng như một vật thể nguyên chất giống
như thân thể của các con thú vật – và điều này thực sự đang xẩy ra nơi
việc thí nghiệm các phôi thai và bào thai chẳng hạn – chúng ta sẽ không
thể nào tránh được t́nh trạng tiến đến chỗ bị thảm bại một cách kinh
hoàng về đạo lư.
Trong cùng một quan điểm về nhân loại học tương tự, gia đ́nh của nhân
loại đang phải đối diện với cái thách đố của một chủ nghĩa nhị nguyên
mới, một chủ nghĩa mà thân thể và tinh thần trở thành hoàn toàn đối
nghịch nhau; thân xác không lănh nhận sự sống từ tinh thần, và tinh thần
không cống hiến sự sống cho thân xác. Bởi thế mà con người đang không
c̣n sống như là một ngôi vị và là một chủ thể. Bất kể bất cứ ư hướng
nào hay những lời công bố nào nghịch lại chăng nữa, con người cũng đang
trở thành thuần vật thể. Thứ văn hóa tân nhị nguyên thuyết này đă
dẫn đến chỗ, chẳng hạn, coi tính dục của con người như là một lănh vực
để mạo dụng và khai thác hơn là theo chiều hướng của cái ngỡ
ngàng ban đầu khiến Adong ngay từ khởi nguyên của cuộc tạo dựng đă
kêu lên trước Evà rằng: “Cuối cùng th́ đây là xương bởi xương tôi và
thịt bởi thịt tôi” (Gen 2:23). Nỗi ngỡ ngàng tương tự ấy đă được âm vang
nơi những lời của Bài Ca Solomon: “Em đă chiếm đoạt trái tim anh rồi,
hỡi em ơi, hôn thê ơi, em đă chiếm đoạt trái tim anh bằng ánh mắt của
em” (Song 4:9). Một số những tư tưởng tân tiến đă trở nên xa cách biết
bao đối với kiến thức sâu xa về nam tính và nữ tính ở trong Mạc Khải
Thần Linh! Mạc Khải dẫn chúng ta đến chỗ nhận thức nơi tính dục của
con người một kho tàng cân xứng với con người, thành phần t́m thấy
thực sự viên trọn nơi gia đ́nh, cũng là thành phần có thể tỏ hiện ơn gọi
sâu xa của ḿnh nơi việc giữ ḿnh đồng trinh cũng như cuộc sống độc thân
v́ Vương Quốc của Thiên Chúa.
Chủ nghĩa duy lư tân tiến không chấp nhận mầu nhiệm. Nó không
chấp nhận mầu nhiệm về con người có nam có nữ, hay nó cũng không muốn
công nhận rằng sự thật trọn vẹn về con người đă được tỏ hiện nơi Chúa
Giêsu Kitô. Đặc biệt là nó không chấp nhận “mầu nhiệm cao cả” được công
bố trong Bức Thư gửi Kitô hữu Êphêsô, song hoàn toàn chống lại mầu nhiệm
cao cả này. Nó có thể nh́n nhận một cách rơ ràng, liên quan tới loại
thần thánh mơ hồ, sự có thể hay thậm chí nhu cầu cần phải có một Hữu Thể
tối cao hay thần linh, nhưng nó mạnh mẽ loại trừ ư tưởng về một vị Thiên
Chúa làm người để cứu độ con người. Đối với duy lư thuyết, không thể nào
tưởng tượng nổi Thiên Chúa lại cần phải là Đấng Cứu Chuộc, Ngài
lại càng không phải là “Vị Hôn Phu”, là nguồn mạch nguyên thủy và
đặc thù của t́nh yêu con người giữa các cặp phu thê. Duy lư thuyết cống
hiến một cách nh́n hoàn toàn khác hẳn trong việc nh́n ngắm việc tạo
thành cũng như ư nghĩa của việc con người hiện hữu. Thế nhưng, một khi
con người bắt đầu không c̣n nh́n thấy một vị Thiên Chúa yêu thương ḿnh
nữa, một vị Thiên Chúa kêu gọi con người nơi Đức Kitô để sống trong Ngài
và sống với Ngài, và một khi gia đ́nh không c̣n khả năng để tham dự vào
“mầu nhiệm cao cả”, th́ nó c̣n lại những ǵ nếu không phải chỉ c̣n duy
chiều kích tạm thời của cuộc sống hay sao? Cuộc sống trần gian
không c̣n là ǵ khác ngoài một chuỗi tranh đấu để hiện hữu, một cuộc
kiếm t́m chiếm đoạt vô vọng, và là một cuộc chiếm đoạt tiền tài trước
hết mọi sự.
Những căn gốc sâu xa của “mầu nhiệm cao cả”, một bí tích của yêu thương
và sự sống được mở màn ở Cuộc Tạo Dựng và Cứu Chuộc, và là một bí tích
có Chúa Kitô là Vị Hôn Phu như một bảo đảm tối hậu của ḿnh, đă
bị mất đi theo cách nh́n tân tiến về sự vật. “Mầu nhiệm cao cả” đang bị
đe dọa nơi chúng ta và chung quanh chúng ta. Chớ ǵ việc Giáo Hội cử
hành Năm Gia Đ́nh này là một cơ hội hiệu nghiệm cho những cặp vợ chồng
tái nhận thức mầu nhiệm ấy và tái quyết tâm sống mầu nhiệm ấy một cách
mạnh mẽ, can đảm và nhiệt t́nh.
Hôn Nhân Gia Đ́nh: Giáo Hội
Tại Gia
(Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
nhắn nhủ chung các gia đ́nh và riêng các đôi phối ngẫu nhân ngày
giành cho các gia đ́nh trong Đại Năm Thánh 2000 là ngày 15/10)
Anh chị em đến đây không phải với tư cách cá nhân mà là với tư cách gia
đ́nh. Anh chị em từ khắp nơi trên thế giới đến Rôma, mang theo niềm xác
tín sâu xa về vấn đề gia đ́nh là tặng ân cao cả của Thiên Chúa, một tặng
ân tiên nguyên được đánh dấu bằng phép lành của Người” (đoạn 1.2).
“Phép lành tiên nguyên này được gắn liền với chính dự án của Thiên
Chúa... ‘Con người lẻ loi một ḿnh không tốt; Ta sẽ tạo nên cho con
người một trợ nhân xứng hợp với con người’ (Gen
2:18).
Như thế là tác giả sách thánh của Sáng Thế Kư đă cho thấy cái đ̣i hỏi
nền tảng làm nên mối hiệp nhất nam nữ trong hôn nhân, cũng như mối
hiệp nhất nơi đời sống gia đ́nh phát xuất từ mối hiệp nhất nam nữ. Nó là
một đ̣i hỏi của mối hiệp thông. Con người không được dựng nên để
sống le loi cô độc một ḿnh; họ mang nơi chính bản thân ḿnh một ơn gọi
giao hữu được bắt nguồn từ bản tính linh thiêng của họ. V́ ơn gọi này,
họ mới lớn lên tới mức sống liên kết với nhau, khi hoàn toàn nhận thức
được chính ḿnh bằng cách duy nhất là ‘chân t́nh trao tặng bản thân’ (Hiến
Chế Vui Mừng Và Hy Vọng, số 24)”
(đoạn 2.1).
“Đối với con người, những mối giao hữu thuần túy về phận vụ
vẫn chưa đủ. Họ cần có cả những mối giao hữu liên cá vị nữa,
những mối giao hữu phong phú sâu xa trong nội tâm, vô tư và hy sinh tự
hiến. Căn bản nhất trong những mối giao hữu liên cá vị này là mối giao
hữu hiện diện nơi gia đ́nh giữa vợ chồng với nhau, cũng như giữa họ và
con cái của họ. Toàn thể cơ cấu bao rộng nơi những mối giao hữu của loài
người đều được phát xuất từ cũng như được tái sinh một cách ư thức từ
mối giao hữu làm cho con người nam nữ nhận ra rằng, họ được dựng nên cho
nhau và đă đi đến quyết định kết hợp đời sống riêng tư của ḿnh thành
một dự án của đời sống: ‘Thế nên người nam đă ĺa bỏ cha mẹ ḿnh mà
gắn bó với vợ của ḿnh, và cả hai đă trở nên một xác thịt duy nhất’
(Gen
2:24)”
(đoạn 2.2).
“Một xác thịt duy nhất! Làm sao các con lại có thể không thấy
được cái mănh lực của lời diễn tả này? Chữ ‘xác thịt’ theo thánh kinh
không phải chỉ có ư nghĩa về bản chất thể lư của con người, mà c̣n là
toàn thể con người có thể xác và tinh thần của họ nữa. Cái mà đôi
phôi ngẫu đạt được không phải chỉ là việc kết hợp thân thể với nhau mà
là một mối hiệp nhất thực sự nơi ngôi vị của họ với nhau. Một mối hiệp
nhất sâu xa đến nỗi làm cho họ, một cách nào đó, đă trở thành một
h́nh ảnh trong lịch sử loài người phản ánh cho thấy ‘cái Chúng
Ta’ nơi Ba Ngôi Vị thần linh (xem
Thư gửi Các Gia Đ́nh, 8)”
(đoạn 3.1).
“... Trong hôn nhân theo bí tích, đôi phối ngẫu – như những cặp trẻ
trung Cha sắp sửa chúc lành cho đang làm đây – dấn thân để nói lên với
nhau cũng như để chứng tỏ cho thế giới thấy t́nh yêu mănh liệt bất
khả phân ly Chúa Kitô dành cho Giáo Hội. Đó là một ‘mầu nhiệm cao
cả’ theo nhận định của Thánh Phaolô Tông Đồ (x
Eph 5:32)”
(đoạn 4.3).
“’Xin Chúa là nguồn mạch sự sống chúc lành cho các người!’ (đáp
ca).
Phúc lành của Thiên Chúa ngay từ đầu không phải chỉ ban cho việc hiệp
thông hôn nhân mà thôi, c̣n cho cả việc họ quảng đại đảm nhận trách
nhiệm hướng đến sự sống nữa. Con cái thực sự là ‘mùa xuân của gia
đ́nh và xă hội’, như khẩu hiệu của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của các con nói
lên. Chính nơi con cái mà hôn nhân nở hoa, ở chỗ chúng làm thăng hóa tất
cả mối hiệp thông của sự sống (‘totius vitae consortium’:
Giáo Luật khoản 1055.1),
một mối hiệp thông làm cho vợ chồng nên ‘một xác thịt duy nhất’; điều
này thực sự là như thế đối với cả con cái được sinh ra từ mối giao
thân tự nhiên của đôi phối ngẫu lẫn những đứa con được họ nhận làm
con nuôi. Con cái không phải là ‘đồ phụ tùng’ đối với dự án của
cuộc sống hôn nhân. Chúng không phải là một thứ ‘chọn lựa tùy
ư’ mà là một ‘tặng ân cao cả’ (Hiến
Chế Vui Mừng và Hy Vọng, 50),
được ghi dấu ngay nơi chính cơ cấu của việc hiệp nhất vợ chồng... Như
thế, trong việc sống hợp với lời của Thiên Chúa, gia đ́nh trở nên một
học đường dạy làm người và t́nh đoàn kết chân thực” (đoạn 5).
“Cả cha mẹ lẫn con cái đều được kêu gọi để thực hiện công việc này, thế
nhưng, như Cha đă viết trong Năm Gia Đ́nh 1994 th́ ‘Cái chúng tôi của
cha mẹ, của vợ chồng, phát triển thành cái chúng tôi của gia đ́nh, một
thứ chúng tôi được ghép vào những thế hệ tiền thân và hướng tới chỗ lan
rộng’...” (đoạn 6.1).
“Các gia đ́nh Kitô hữu rất thân mến... Chớ ǵ gia đ́nh của anh chị em
tiếp tục lớn lên như là một ‘giáo hội tại gia’, bằng việc hằng ngày anh
chị em dâng lời chúc tụng Thiên Chúa, cũng như bằng việc anh chị em làm
tràn lan gịng t́nh yêu thương đầy phúc đức và tái sinh ra trên khắp xă
hội loài người” (đoạn 7.1).
Kinh Cầu Cho Gia Đ́nh
(Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
viết kinh nguyện cầu
cho các gia đ́nh này nhân Cuộc Hội Ngộ Thế
Giới Các Gia Đ́nh lần IV ở Manila Phi Luật Tân năm 2003)
Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Đấng mà mọi gia đ́nh trên trời dưới đất có
được tên gọi.
Lạy Cha, Cha là T́nh Yêu và là Sự Sống./ Qua Con của Cha là Đức Giêsu
Kitô được hạ sinh bởi một người nữ,/ Và nhờ Thánh Thần là suối nguồn đức
ái thần linh,/ Xin ban cho hết mọi gia đ́nh trên trái đất này/ được trở
thành Đền thờ của sự sống và yêu thương/ Cho từng thế hệ kế tiếp.
Xin Cha ban ơn hướng dẫn tâm tưởng và hành động/ Của những người chồng
người vợ/ V́ thiện ích của gia đ́nh họ cũng như cho tất cả mọi gia đ́nh
trên thế giới này.
Xin ban cho giới trẻ được t́m thấy trong gia đ́nh/ Nơi nương tựa vững
chắc cho phẩm vị con người của họ/ Cũng như cho việc họ tăng trưởng
trong chân lư và yêu thương.
Xin ban cho t́nh yêu,/ Được ơn bí tích hôn phối kiên cường/ Trở nên mănh
liệt hơn tất cả mọi yếu hèn và thử thách/ Mà gia đ́nh của chúng con đôi
khi phải trải qua.
Nhờ việc chuyển cầu của Thánh Gia Nazarét,/ Xin ban cho Giáo Hội được
thành đạt trong việc thi hành/ Sứ vụ toàn cầu của ḿnh nơi gia đ́nh/ Và
qua gia đ́nh.
Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con,/ Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống/
Muôn thuở muôn đời./ Amen
|
|