Mỗi dân-tộc
trên thế-giới đều có một
loại y-phục cá-biệt, khi
nh́ìn cách phục-sức của họ,
chúng ta nhận biết họ thuộc
quốc-gia nào.
Người
Nhật-Bản có chiếc áo Kimono,
người Trung-Hoa đời Măn
Thanh có chiếc áo Thượng-Hải
mà quí bà quí cô thường gọi
là áo "xường-xám", người
Đại-Hàn, người Phi, người
Thái v.v.
Người Việt-Nam,
chúng ta hănh diện về chiếc
áo dài, được trang-trọng
nâng lên ngôi vị quốc-phục,
cũng có người gọi một cách
hoa-mỹ hơn: "chiếc áo dài
quê-hương".
Kẻ viết
bài nầy cố-gắng góp nhặt
răi-rác một số ít các
tài-liệu về chiếc áo dài
được ghi chép rất vắn-tắt
trong các sách sử. Ngoài ra,
cũng có một ít tài-liệu tìm
thấy trên sách báo cũ, nhưng
không ghi rõ xuất-xứ.
Tài-liệu ghi trong sách cũ
tuy vắn-tắt, nhưng đáng tin-cậy.
Dân-tộc
Việt-Nam có một chiều dài
lịch-sử trên bốn ngàn năm
theo như sử sách đă ghi,
trong đó có một ngàn năm bị
Bắc thuộc, tám mươi hai năm
bị Pháp đô-hộ, tiếp theo là
cuộc chiến quốc cộng
tương-tàn!
Một
dân-tộc mà bị dân-tộc khác
đô-hộ trên ngàn năm quả là
quá lâu. Bao nhiêu tài-sản
của quốc-gia, sử sách
quí-giá, tài-liệu về lịch-sử
v.v... đă cướp đi hoặc
tiêu-hủy hết. Mục đích của
kẻ thống-tri. là triệt-tiêu
nền văn-hóa của ta để
đồng-hóa.
Mặc dầu bị
ngoại xâm, chiến-tranh tàn
phá liên-miên, nhưng dân-tộc
ta luôn có sự đề-kháng
tinh-vi để trường-tồn.
Sử-gia Đào Duy Anh chép:
"Theo sách Sử-ký chép thì
người Văn-Lang xưa, tức là
tổ-tiên ta, mặc áo dài về
bên tả (tả nhiệm).
Sử lại
chép rằng ở thế-kỷ thứ nhất,
Nhâm Điên dạy cho dân quận
Cửu-chân dùng kiểu quần áo
theo người Tàu. Theo những
lời sách chép đó thì ta có
thể đoán rằng trước hồi Bắc
thuộc dân ta gài áo về tay
trái, mà sau bắt chước người
Trung-quốc mới mặc áo gài về
tay phải." (Việt-nam Văn-Hóa
Sử, Đào Duy Anh, trang 172).
Mặc dầu cuộc sống chung đụng
và bắt chước theo người
ngoại quốc, nhưng tổ-tiên ta
vẫn khôn-khéo duy-trì nét
đặc-thù của nền văn-hóa,
không đánh mất bản-sắc
dân-tộc.
Không ai
biết rõ chiếc áo dài
nguyên-thủy ra đời từ lúc
nào và hình dáng ra sao, vì
thiếu tài-liệu kiểm-chứng.
Mới đây,
nhân đọc cuốn kể chuyện
"Chín Chúa - Mười Ba Vua
Triều Nguyễn" của ông Tôn
Thất B́nh, (Nhà Xuất Bản
Đà-Nẵng, 1997) có bài "Những
Trang Đầu của Lịch-Sử Áo
Dài" tác-giả chép như sau:
"Chiếc áo
dài tha-thướt xinh đẹp hiện
nay phải qua một quá-trình
phát-triển. Nó được
hình-thành từ đời chúa
Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên
chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe
người Nghệ-an truyền câu
sấm: "Bát đại thời hoàn
trung nguyên" (tám đời trở
về trung nguyên), thấy từ
Đoan Quốc Công đến nay vừa
đúng tám đời bèn xưng hiệu
lấy thể-chế áo mũ trong Tam
tài đồ hội làm kiểu... lại
hạ lệnh cho trai gái hai xứ
đổi dùng áo quần Bắc quốc để
tỏ sự biến đổi, khiến phụ-nữ
bận áo ngắn hẹp tay như áo
đàn ông thì Bắc quốc không
có thế.
Thế là do
tinh-thần độc-lập, muốn dân
chúng trong địa-phận mình
cai-trị mang y-phục riêng để
phân-biệt với miền Bắc,
Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
"Y-phục
bản quốc vốn có chế độ,
địa-phương này từ trước cũng
chỉ tuân theo quốc-tục, nay
kính vâng thượng đức, dẹp
yên cơi biên, trong ngoài
như nhau, chính-tri. và
phong-tục cũng nên
thống-nhất. Nếu còn có người
mặc quần áo kiểu người khách
(Trung quốc, TTB chú) nên
đổi theo thể-chế của nước
nhà.
Đổi may
y-phục thì theo tục nước mà
thông dụng vải, lụa, duy có
quan-chức mới cho dùng xen
the, là, trừu, đoạn, còn gấm
vóc và các thứ hoa rồng
phượng nhất-thiết không
được quen thói cũ dùng càn.
Thường-phục thì đàn ông, đàn
bà dùng áo cổ đứng ngắn tay,
cửa ống tay hoặc rộng hoặc
hẹp tùy-tiện. Áo thời hai
bên nách trở xuống phải khâu
kín liền không cho xẻ mớ.
Duy đàn ông không muốn mặc
áo cổ tròn và hẹp tay cho
tiện làm việc cũng được.
Lễ phục
thì dùng áo cổ đứng tay dài,
vải xanh chàm hoặc vải đen,
hay vải trắng tùy nghi. Còn
các bức viền cổ và kết lót
thì đều theo như điều hiểu
dụ năm trước mà chế dùng."
Như vậy từ
thế kỷ XVIII, chiếc áo dài
đă được ra đời, dù ban đầu
c̣n thô-sơ, nhưng kín đáo.
Nó là sản-phẩm mang màu sắc
dung-ḥa Bắc Nam. Cũng ở
thời Nguyễn Phúc Khoát,
phụ-nữ đă biết trang điểm,
thêu-thùa hoa lá quanh cổ áo
để tăng vẻ đẹp, hàng vải khá
tốt và tinh-xa?o. Các loại
áo đoạn hoa bát ty, sa,
lương, địa, the là hàng hoa
được mặc vào ngày thường, áo
vải, áo mộc bị chê là vải
xấu.
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát đă viết
những trang lịch-sử đầu cho
chiếc áo dài vậy." (Theo Lê
Quư Đôn-Phủ biên tạp lục,
trong cuốn "Kể chuyện Chín
Chúa - Mười Ba Vua Triều
Nguyễn, của Tôn Thất B́nh,
trang 29.)
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát hùng-cứ ở
xứ Đàng Trong, sau khi chiếm
trọn nước Chiêm-thành,
mở-mang bờ cơi về phương
Nam, theo Lê Quư Đôn, đă có
được thời-kỳ thịnh-vượng
b́nh-yên.
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát xưng
vương-hiệu là Vũ Vương, có
triều-nghi xây hai điện
Kim-Hoa, Quang-Hoa, có các
nhà Tụ-La.c, Chính-Quang,
Trung-Hoà, Di-Nhiên, đài
Sướng-Xuân, các Dao-Tŕ, các
TriềuĐương, các Quan-Thiên,
đ́nh Thụy-Vân, hiên
Đồng-Lạc, an Nội-Viên, đ́nh
Giáng-Hương, điện
Trường-Lạc, hiên Duyệt Vơ
v.v., có cơ-chế chính-tri.,
hành-chánh, xă hội có
kỷ-cương, nhưng chưa có
quốc-hiệu.
Tuy nhiên,
người ngoại-quốc tới lui
buôn-bán tại cửa Hội-an
thường gọi là "Quảng-Nam
quốc". Để chứng tỏ tinh-thần
độc-lập, Chúa Vũ-Vương
Nguyễn Phúc Khoát đă
chú-trọng đến vấn đề
cải-cách xă-hội, phong-tu.c
mà điều quan-tro.ng là sự
cải-cách về y-phục.
Nếu căn-cứ
theo tài-liệu kể trên th́ì
chiếc áo dài Việt-nam đă ra
đời vào thế kỷ XVIII, trong
thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát
(1739-1765) (?).
Từ đó đến
nay chắc-chăn chiếc áo dài
Việt-Nam cũng đă thay hình
đổi dạng để thích-nghi với
trào-lưu tiến-hóa và sự
trường-tồn của dân-tộc.
Sách Đại
Nam thực lục tiền biên cũng
có chép: "Vào khoảng năm
1744 chúa Voõ Vương ở phương
Nam bắt dân-gian cải-cách
y-phục". Có lẽ vào thời xa
xưa đàn-bà Việt-Nam mặc áo
thắt vạt và mặc váy.
Ta đọc
đoạn sử sau đây: "Đến đời
Minh-Mệnh có lệnh cho đàn-bà
đường ngoài phải mặc quần,
nhưng chỉ những người giàu
sang ở thành-thi. tuân
theo,chứ ở nhà quê thì đến
nay đàn-bà cũng vẫn mặc
váy." (Việt-Nam Văn-Hóa Sử,
Đào Duy Anh, trang 173).
Mặc dầu bị
ngoại-xâm và bị đô-hộ lâu
dài, nhưng tổ-tiên ta vẫn
khôn-khéo duy-tŕ một xă-hội
có kỷ-cương, tôn-ti trật-tự.
Cứ nh́n vào trang-phu.c và
màu sắc để phân-biệt
giai-tầng trong xă-hội.
Sách Vũ
Trung Tùy Bút chép: "Đời xưa
học tṛ và người thường, khi
có việc công th́ mặc áo xanh
lam (thanh cát), lúc thường
thì mặc áo mùi thâm (chuy
y), người làm lụng thì mặc
áo mùi sừng (qú sắc).
Từ đời Lê
về sau thì sắc trắng ít
dùng. Cứ trạng-thái y-phục
gần nhất của người nưóc ta
thì các quan hay mặc áo xanh
lam, học trò cùng những
chức-viên, tổng-lư và hạ lại
thường dùng mùi sừng và mùi
đen, người nhà quê và người
làm lụng thì thường dùng mùi
nâu. Người giàu-sang thì mặc
the lụa gấm-vóc, còn người
nghèo-hèn thì chỉ
dùng áo vải ... vua quan
thì có phẩm-phục, quân lính
thì có nhung-phục, thường
dân thì có lễ-phục".
Trong
Việt-Nam Sử-Lược của học-giả
Trần Trọng Kim viết: "Vua
Lê-Lợi, ngày ấy dấy quân
khởi-nghĩa chống giặc Tàu ở
đất Lam-sơn. Ngài dùng chiếc
áo vải màu lam là màu áo
biểu-tượng để kháng giặc".
Vì thế vua Lê-Lợi được mệnh
danh là "Anh hùng áo vải
Lam-Sơn".
Qua các
đoạn sử vừa trích dẫn ở
trên, ta thấy y-phục là một
biểu-tượng của quốc-gia
dân-tộc. Trải qua bao
biến-thiên của đất nước,
chiếc áo dài cũng đă được
cải-tiến.
Vào
khoảng thập niên 1930, nhóm
văn-sĩ trong Tự-Lực Văn Đoàn
đă chủ-xướng cuộc cải-cách
văn-hóa, tư-tưởng mới cho
thế-hệ trẻ. Trong nhóm này
có hai họa-sĩ du-học từ Pháp
về, đó là các ông Nguyễn Cát
Tường và Lê-Phổ, dùng hai tờ
báo Ngày Nay và Phong-Hóa
làm phương-tiện truyền-bá
của nhóm. Hai họa-sĩ đă vẽ
và chỉnh-trang kiểu áo dài
phụ-nữ gọi là áo "Le Mur Cát
Tường" cổ cao, không có eo.
Ông Nguyễn
Cát Tường viết trong tờ
Phong-Hóa, có đoạn: "Muốn
biết nước nào có tiến-bộ, có
kỷ-thuật hay không? Cứ xem y
phục người nước của họ, ta
cũng đủ hiểu." (Phong-Hóa số
86, tháng 2-1934).
Một
nhân-vật nữ khác không thể
không nhắc đến, đó là bà
Trịnh Thục Oanh, một
hiệu-trưởng của trường nữ
Trung-học Hà-Nội, đă làm
thêm một cuộc cải-cách
táo-bạo hơn, bà nhấn eo
chiếc áo, ôm sát theo đường
nét mỹ-miều duyên dáng của
phái nữ.
Đến ngày
nay, chiếc áo dài của quí bà
quí cô là một tác-phẩm
mỹ-thuật tuyệt-vời. Nó đă
trở thành một thứ y-phục độc
đáo của phụ-nữ Việt-nam. Tại
cuộc hội chợ quốc tế Osaka,
năm 1970 tại Nhật-bản, chiếc
áo dài phụ nữ Việt-Nam đă
lên ngôi và đem lại vinh dự
cho phái đoàn VNCH. Khách
quốc-tế trầm-trồ thán-phục
trước các vạt áo lả-lơi như
cánh bướm trước gió. Khách
bình-phẩm:
- Hơi
mỏng!
- Nhưng
rất kín đáo, đủ sức che mắt
thánh!
Một
nhiếp-ảnh gia quốc-tế của
Việt-nam cũng đă hănh diện
về hấp-lực của chiếc áo dài
tại hội-chợ, nên có nhận
xét:
- Nó có
sức chở gió đi theo.
Những lời
nhận xét trên không có gì
quá đáng. Chiếc áo dài
Việt-nam chỉ thích-hợp cho
thân hình kiều diễm, ẻo-lả,
mảnh-mai của phụ-nữ
Việt-nam. Nó vừa kín đáo,
vừa e-ấp, vừa khêu-gợi. Nó
khai thác được đường nét
tuyệt-mỹ của thân-thể. Thi
sĩ Xuân-Diệu thú-nhận:
Những
tà áo lụa mong manh ấy,
Đă gói hồn tôi suốt trọn
đời.
Chiếc áo
dài hiển-nhiên là một loại
"quốc-phục". Khách khứa đến
thăm, chủ nhà trịnh-trọng
bận chiếc áo dài như là một
chiếc áo lễ để tiếp khách.
Tại học
đường nó là chiếc áo học trò
ngây-thơ, tung-tăng như cánh
bướm, gói trọn mộng đẹp của
tương-lai. Một chiếc khăn
vành có tác dụng như một
"vương-miện", thêm vào chiếc
áo choàng bên ngoài sẽ trở
thành bộ y-phục "hoàng hậu"
cho cô dâu khi bước lên xe
hoa. Trong buổi dạ-tiệc,
chiếc áo dài Việt-nam cũng
sẽ lộng-lẫy, độc đáo, không
thua bất kỳ bộ trang-phu.c
của các quốc-gia nào khác
trên thế-giới.
Tại miền
quê Quảng-Nam, những người
buôn thúng bán bưng, mặc dầu
nghèo khổ, cũng luôn luôn
bận chiếc áo dài khi ra chợ.
Nếu áo rách, sờn vai thì
chắp vào chỗ rách một phần
vải mới, gọi là áo "vá
quàng". Dầu là áo rách, áo
vá quàng, vẫn tăng giá-trị:
Đố ai
kiếm được cái vảy con cá trê
vàng,
Cái gan con tép bạc, mấy
ngàn tôi cũng mua.
Chẳng thương cái cổ em có
hột xoàn,
Thương em mặc chiếc áo vá
quàng năm thân.
Áo may cái thuở anh mới
thương nàng,
Đến nay áo rách lại vá quàng
thay tay.
(Ca
dao)
Chiếc áo
dài, một đề-tài phong-phú đã
dành cho các thi-sĩ dệt thơ.
Trong bài "Áo Trắng" Huy-Cận
viết:
Áo
trắng đơn-sơ, mộng trắng
trong,
Hôm xưa em dến, mắt như
ḷng,
Nở bừng ánh sáng, em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa
hồng.
Nắng
thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa
ngoài.
Dịu
dàng áo trắng trong như
suối,
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng
bay.
(Huy-Cận)
Thi-sĩ
Đông-Hồ cũng đă tình-nguyện
bán thơ mình để "Mua Áo" cho
cô gái xuân, lời thơ
nhẹ-nhàng phơi-phới yêu
đương, có chiều lă -lơi mà
trong sạch, nũng-nịu đến dễ
thương:
Chiếc
áo năm xưa đă cũ rồi,
Em đâu còn áo mặc đi chơi.
Bán thơ nhân dịp anh ra chợ.
Đành gởi anh mua chiếc áo
thôi.
Hàng
bông mai biếc màu em thích,
Màu với hàng, em đă dặn rồi.
Còn thước tấc, quên! Em chưa
bảo:
Kích tùng bao rộng, vạt bao
dài?
Ô hay!
Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi
ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm
đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên
vai!
(Đông Hồ,
"Cô Gái Xuân")
Thi-sĩ
Phan Long cũng trải hồn ḿnh
qua bài cảm-tác "Chiếc Áo
Dài Tà Áo quê Hương" sau
đây:
Em yêu
mến chiếc áo dài,
Thướt tha duyên dáng đẹp
hoài thời-gian.
Ngày xuân nắng trải tơ vàng,
Khoe tà áo mới ngập tràn
tuổi thơ.
Lớn theo lứa tuổi học tṛ,
Tính che vạt trước gió lùa
vạt sau.
Những ngày đẹp măi bên nhau,
Vạt vui in dấu vạt sầu còn
vương.
Đẹp sao tà áo quê-hương,
Áo dài màu trắng nhớ thương
năm nào.
(Phan
Long)
Cái
tài-tình của chiếc áo dài
Việt-Nam qua cách cấu-trúc
chẳng những là một tác-phẩm
nghệ-thuật tuyệt-vời, nhưng
bên trong còn ẩn-tàng ý-nghĩa
dạy dỗ về đạo làm người.
Dân-tộc Việt-nam phải phấn
đấu không ngừng chống nạn
ngoại-xâm để trường-tồn, và
bảo vệ những giá-trị
truyền-thống về văn-hóa,
kỷ-cương gia đình.
Dầu muốn
hay không thì dân-tộc ta,
cũng như các dân-tộc Á-châu
khác đă chịu ảnh-hương sâu
đậm của Tam Giáo và
học-thuyết Khổng Mạnh. Gia
đình, xă-hội được xây dựng
trên nền tảng tam cương, ngũ
thường.
Tổ-tiên ta
răn dạy con cháu thật
chặt-chẻ về đạo làm người,
chẳng những trên sách vở, mà
còn phải luôn luôn mang nó
theo trên người. Phải chăng
đây là sự dạy dỗ sâu-sắc,
khéo-léo của tiền-nhân? Nếu
quả đúng như vậy thì chiếc
áo dài Việt-Nam là cái
gia-phả? vô cùng quí-giá
ẩn-tàng sự dạy dỗ con cháu
về đạo làm người. Ta phải
hănh diện, nâng-niu, bảo-vệ,
xem như một di-sản văn-hóa
do tổ-tiên truyền dạy. Ta
thử xem cách cấu-trúc của
chiếc áo dài xưa:
Phía trước
có hai tà (hay hai vạt),
phía sau hai tà, tượng-
trưng cho tứ thân phụ-mẫu
(cha mẹ chồng, cha mẹ vợ).
Một vạt
cụt, hay vạt chéo phía trước
có tác dụng như một cái yếm
che ngực, nằm phía bên trong
hai vạt lớn, tượng-trưng cho
cha mẹ ôm-ấp đứa con vào
lòng.
Năm hột
nút nằm cân-xứng trên năm
vị-trí cố định, giữ cho
chiếc áo được ngay thẳng,
kín đáo, tượng- trưng cho
năm đạo làm người: Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín.
Trong
chiếc áo tứ thân, người ta
thường buộc hai vạt trước
lại với nhau để giữ cho
chiếc áo cân đối,
tượng-trưng cho tình nghĩa
vợ chồng âu-yếm, quấn-quít
bên nhau.
Vinh
SaiGon
(trích
từ "Chiếc Áo Dài Việt-Nam và
Đạo Làm Người")