Tu Sĩ |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VI: Tu
Sĩ
55*
43. Những
lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội. Những lời
khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về
đức nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng
gương lành của Chúa, đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các
tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy
là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và
luôn gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần,
chính giáo quyền ân cần giải thích các lời khuyên của Phúc Âm,
hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập những lối sống cố định
dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, như một cây đâm chồi nẩy
lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi trong cánh đồng
của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác nhau: đơn độc hay
cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần sản nghiệp dồi dào đem
lại lợi ích cho các chi thể của dòng cũng như toàn Thân Thể Chúa
Kitô
1. Thực vậy, các dòng ấy mang lại cho các chi thể
những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học
thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông
huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do được đức vâng
lời củng cố; thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành
gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước trên con đường đức ái
2.
Xét theo thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết
lập và có phẩm trật, thì bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo
sĩ và giáo dân; thực vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả
hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong
đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ mệnh
cứu độ của Giáo Hội
3.
56*
44. Bản tính
và tầm quan trọng của bậc tu trì. Người Kitô hữu
tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay
qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ
đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và
làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ
phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho
Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích
ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc
Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ
không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và
họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn
4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi
việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng
mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây
ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.
Những lời khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái
5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp các tu
sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội. Bởi đó,
đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn
thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tùy sức và ơn gọi của mình, bằng
kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho
Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và bành
trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế, Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc
tính riêng biệt của các tu hội.
Việc khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm
thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi
chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô
hữu. Thực vậy, dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở
đời này, nhưng đi tìm một thành trì mai sau. Bậc tu trì giải
thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách
hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay
dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô
đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự
phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc
sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục
trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người
xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà
Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng, bậc sống ấy
đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế
và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao; nó cũng cho mọi
người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Kitô Vua và
quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ
diệu trong Giáo Hội.
Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc
tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến
cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với
đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội.
57*
45. Quyền
bính Giáo Hội và bậc tu trì. Vì trong Giáo Hội,
giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân Chúa đến những
đồng cỏ phì nhiêu (x. Ez 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật
lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên
của Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức ái trọn
hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân
6. Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng
lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn sau khi tu
chỉnh. Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn
sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây
dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng tu ấy phát triển và sinh
hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.
Ðàng khác, để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu
cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa, Ðức Giáo Hoàng, vì có quyền
tối thượng trong toàn thể Giáo Hội và để phục vụ ích chung, có
thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của
các Ðấng Bản Quyền và chỉ đặt dưới quyền duy nhất của ngài
7. Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu sĩ
được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các Giáo Chủ.
Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của
mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo
giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong
Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong
việc tông đồ
8.
Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng
để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc
cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như
một bậc sống cung hiến cho Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban,
chính Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các tu sĩ; qua lời kinh
công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ, phó
thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ, và kết
hợp sự tận hiến của họ vào hy lễ tạ ơn.
58*
46. Sự cao
cả củaviệc tận hiến. Các tu sĩ phải đem hết tâm
lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương
Chúa Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như các
lương dân: biểu dương Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc
đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành
những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời
sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho
mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng
đã sai Người đến
9.
Sau cùng, mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn
giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm sự từ bỏ những của cải
mà dĩ nhiên phải được quí trọng, sẽ không làm ngăn trở việc phát
triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi
cho con người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã
tình nguyện chấp nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần không
ít vào việc thanh luyện tâm hồn và phát huy tự do thiêng liêng,
và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt thành, nhất là có sức
làm cho người Kitô hữu ngày càng nên giống đời sống trinh khiết
và khó nghèo mà Chúa Kitô đã chọn và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Người, đã sống, như gương lành của bao đấng sáng lập dòng đã
chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng, vì tận hiến như thế, các tu
sĩ trở nên xa lạ với mọi người và vô dụng đối với xã hội trần
thế. Vì dù đôi khi không trực tiếp phụ giúp người đồng thời với
mình nhưng tu sĩ lại hiện diện cùng họ cách sâu xa hơn trong
lòng Chúa Kitô và cộng tác một cách thiêng liêng với họ, để việc
xây dựng xã hội trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn
hướng về Người hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không
luống công
10.
Vì thế, Thánh Công Ðồng công nhận và khen
ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc
trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô
bằng tấm lòng khiêm hạ và kiên trung trong sự tận hiến và quảng
đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức.
59*
47. Khuyến
khích sự kiên tâm và thăng tiến. Vậy mỗi tu sĩ
được gọi để tuyên khấn, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn
thiên triệu Chúa đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho
sự thánh thiện của Giáo Hội thêm phong phú hơn và sự vinh hiển
của Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả hơn.
Trong và nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên ủy
mọi sự thánh thiện.
60*
Chú Thích:
55*
Việc chuẩn bị chủ đề để soạn thảo cho chương này khá sôi nổi.
Trong lược đồ đầu tiên, tất cả chương VI đề cập đến tu sĩ. Khi
lược đồ được làm lại và đưa lên để Công Ðồng nghị trình trong kỳ
họp thứ hai, chương nói về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn
chung về lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng gây
nên nhiều bất tiện. Như vậy, chúng ta thấy có hai khuynh hướng:
khuynh hướng thứ nhất đòi soạn thảo một chương đặc biệt về tu
sĩ, khuynh hướng thứ hai cương quyết cứ để xen chung vào chủ đề
về lời kêu gọi nên thánh. Sau nhiều cuộc bàn cãi, việc phân tách
hai chương được chấp thuận, như chúng ta thấy trong bản văn
chung quyết. Vị trí của chương này trong toàn thể Hiến Chế là do
những quan sát thực tiễn. Ðặt nó liền sau chương nói về lời kêu
gọi nên thánh là để bày tỏ giá trị và tầm quan trọng của đời tận
hiến cho Giáo Hội để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của chương
này đơn giản: sau khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các
hình thức đời sống tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính
đời sống tu trì (số 44), và sau đó xét đến vai trò của quyền
bính Giáo Hội đối với tu sĩ (số 45) và nhiệm vụ của đời sống tu
trì trong việc phát triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc trong
đời sống Giáo Hội (số 46); sau cùng là đôi lời khuyên nhủ vắn
tắt kết thúc cho chương này (số 47).
1
Xem Rosweydô, Vitae Patrum, Antwerpiae, 1628. Apophteymata
Patrum : PG 65. Palladiô, Hist. Lausiaca: PG 34, 995tt; x. b. C.
Butler, Cambridge 1898 (1904). Piô XI, Tông hiến Umbratilem,
8-7-1924 : AAS 16 (1924), trg 386-387. Piô XII, diễn từ Nous
sommes heureux, 11-4-1958: AAS 50 (1958), trg 283.
2
Xem Phaolô VI, diễn từ Magno gaudio, 23-5-1964 : AAS 56 (1964),
trg 566.
3
Xem Giáo luật, kh. 487 và 488, 4. Piô XII, diễn từ Annus sacer.,
8-12-1950: AAS 43 (1951), trg 27t. Piô XII, Tông hiến Provida
Mater, 2-2-1947: AAS 39 (1947), trg 120tt.
56*
Số 43: Nhập đề.
Công Ðồng mô tả nguồn gốc và sự tiến triển
của các hình thức tu trì, một trật cũng bày tỏ thánh ý Chúa và
vai trò của quyền bính Giáo Hội. Ðời sống tu trì là một hồng ân
Chúa Cha ban cho Giáo Hội, Giáo Hội phải trung thành gìn giữ và
hướng dẫn. Do lời giảng dạy và gương mẫu của Người, Chúa Kitô là
nền tảng các lời khuyên Phúc Âm. Công Ðồng còn minh định thêm
rằng đời sống tu trì không nằm trong hệ thống cơ cấu phẩm trật
(giáo sĩ - giáo dân), nhưng trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng. Dầu
các lời khuyên là do Chúa ban, và đời sống tu trì thực hành
những lời khuyên đó là thuộc phạm vi đoàn sủng, Giáo Hội cũng
phải thiết lập một hình thức định chế để thực hành đời sống ấy.
4
Xem Phaolô VI, n.v.t., trg 567.
5
Xem T. Tôma, Summa Theol., II-II, q. 184,a. 3 và q. 188, a.2. T.
Bonaventura, Opusc. XI, Apologia Pauperum, ch. 3,3: x.b. Opera,
Quaraechi, bộ 8, 1898, trg 245a.
57*
Số 44: Bản tính của đời sống tu trì.
Trước hết Công Ðồng thừa nhận trong đời
sống đó có một sự thánh hiến cho Thiên Chúa để hoàn bị sự thánh
hiến của bí tích Thánh Tẩy. Do lời khấn hay việc dấn thân tương
tự mà có việc dâng hiến, nhờ đó đời sống của tu sĩ và cả thế
giới được thần hóa nhiều hơn (x. số 31). Sự thánh hiến này hoàn
tất trong tình yêu trọn vẹn nhất: tình yêu ưu tiên dành cho
Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì chính yếu cũng là
phục vụ Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được bành trướng.
Nhưng vì là một sự thánh hiến nội tâm, nên việc phục vụ trước
hết là cộng tác vào việc mở mang nước Chúa bằng thái độ nhiệt
thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng hoạt động. Bởi thế,
việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông đồ bên ngoài.
Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời khuyên Phúc Âm phát
xuất từ sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu cánh chung của đời
sau và của hạnh phúc trên Trời, giá trị của sự cao trọng Nước
Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố đời sống tu trì không thể
tách lìa khỏi đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. Như vậy
chúng ta hiểu rằng, một đàng Giáo Hội cần được sự đóng góp của
đời sống tu trì nên phải cổ võ đến mức tối đa cho đời sống ấy,
đàng khác đời sống ấy nói lên sức mạnh của Giáo Hội. Cứ theo
những điểm vừa nói thì đời sống tu trì là một thực tại sống động
trong Giáo Hội.
6
Xem CÐ Vat. I, lược đồ De Ecclesia Christi, ch. XV, và chú giải
48: Mansi 51, 549t và 619t. Leô XIII, thu Au milieu des
consolations, 23-12-1900: ASS 33 (1900-01), trg 361. Piô XII,
Tông hiến Provida Mater, n.v.t., trg 114t.
7
Xem Leô XIII, Hiến chế Romanos Pontifices, 8-5-1881: ASS 13
(1880-81), trg 483. Piô XII, diễn từ Annus Sacer, 8-12-1950 :
AAS 43 (1951), trg 28t.
8
Xem Piô XII, n.v.t., trg 28. Piô XII, Tông hiến Sedes
sapientiae, 31-5-1956: AAS 48 (1956), trg 355. Phaolô VI, diễn
từ Magno gaudio, 3-5-1964: AAS 56 (1964), trg 570-571.
58*
Số 45: Giáo Hội và đời sống tu trì.
Vai trò quyền bính Giáo Hội nằm trong những
điều quy định tổng quát: lập luật để làm qui tắc hướng dẫn việc
thực hành các lời khuyên, chuẩn y các điều lệ, lưu ý đến sự
trung thành và tăng triển các hội dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập
đến những người nắm giữ quyền bính này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà
các hội dòng miễn trừ phải tùy thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục
là những người mà mọi tu sĩ phải kính trọng và tuân phục. Sự quả
quyết Giáo Hội góp phần trong phương diện phụng vụ và thiêng
liêng vào việc tuyên khấn cũng nói lên rằng những mối tương quan
với quyền bính không chỉ có tính cách pháp lý. Theo Hiến Chế, sự
đóng góp vào phụng vụ mặc ba hình thức: Giáo Hội dùng quyền bính
chấp nhận các lời khấn, dùng lời kinh công cộng xin Chúa ban ơn,
kết hợp sự tận hiến của người tuyên thệ vào hy lễ tạ ơn.
9
Xem Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg
241t.
10
Xem Piô XII, diễn từ Annus Sacer, n.v.t., trg 30. Diễn từ Sous
la maternelle protection, 9-12-1957: AAS 50 (1958), trg 39t.
59*
Số 46 : Vai trò của đời sống tu trì.
Sau khi khuyên nhủ tu sĩ
biết minh chứng Chúa Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng nhắc
nhở cho họ biết đời sống tu trì làm phát triển nhân cách con
người vì là một sự tự hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý
chí đi theo chiều hướng của ơn gọi cá nhân; đời sống ấy còn định
hướng nhân phẩm theo như điều mà chương trình của Chúa muốn dung
hợp, và như vậy làm cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn toàn. Công
Ðồng đề cập ba khía cạnh của việc nẩy nở đó: tự do thiêng liêng
trong tâm hồn trong sạch hoàn toàn, bác ái hăng say nhờ đó mà
nhân phẩm con người được phát triển đích thực, dung hợp với lối
sống mà chính Chúa Kitô đã theo, lối sống mà Mẹ Maria là gương
mẫu hoàn hảo. Công Ðồng cũng nhắc lại rằng đờisống tu trì còn
cộng tác một cách thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian.
Sự hiện diện tinh thần của tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện
diện hữu hình bên ngoài. Cố nhiên Công Ðồng không nói tu sĩ hiện
diện nơi người khác nhưng hiện diện trong trái tim Chúa Kitô. Do
sự kiện cộng tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian,
tu sĩ trở nên hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo
một thế giới xây dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên
bố công nhận và khen ngợi lối sống của tu sĩ.
60*
Số 47 : Kết luận.
Trong câu kết luận vắn tắt,
Công Ðồng khuyên nhủ tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong ơn gọi
để Giáo Hội được thánh thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ MỤC VỤ MÙA CHAY 2012
|
Nguồn:
http://giaophankontum.com/Tin-Tuc-274_Thu-muc-vu-Mua-Chay-2012-cua-Duc-Cha-Micae-Hoang-Duc-Oanh-Giam-muc-Giao-phan-Kon-Tum.aspx
Kon Tum, ngày 03 tháng 03 năm
2012
Anh chị em trong
gia đình Giáo phận Kon Tum thân mến,
Ngày 22.02, gia
đình Giáo phận Kon Tum bước vào Mùa Chay; qua ngày 23.02, Cha
Lu-Y Nguyễn Quang Hoa bị đánh trọng thương trên đường đi làm mục
vụ về. Cả Giáo phận đều bàng hoàng. Để tránh những bức xúc quá
đáng, chúng ta cần đón nhận biến cố này sao cho phù hợp với Mầu
Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu mà chúng ta đang sống ?
1. Sự việc ngày
23.02.2012.
Trưa ngày
23.02.2012 vừa qua, sau khi dâng lễ an táng cho Bà Y Kun ở làng
Turia Yốp (thôn 6, xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum) trở
về tới khúc đường qua vườn cao su gần hồ Kon Proh (thôn 9), Cha
Lu-Y Nguyễn Quang Hoa, phó xứ Kon Hring, đã bị 3 thanh niên lạ
mặt dùng cây sắt đánh trọng thương. Tạ ơn Chúa, dầu bị đánh
nhiều nhát chí tử, nhưng Chúa cho cha sức mạnh chịu đựng thật
đặc biệt. Nay sức khoẻ của Cha đang bình phục nhanh. Xin cám ơn
tất cả bà con xa gần đã thương gọi điện thoại hoặc đến thăm hỏi
ủi an, giúp đỡ và cầu nguyện.
Quãng đường từ chỗ
dâng lễ về tới Kon Hring chỉ vỏn vẹn độ 10 cây số. Hai bên đường
đều có dân sinh sống, chỉ trừ đoạn đường cao su dài độ hai cây
số là có vẻ vắng. Sao lại có thể xảy ra chuyện đáng tiếc nhanh
chóng và gọn nhẹ đến như thế giữa ban ngày? Nó gây đau thương
cho nhiều người, cách riêng gia đình thân nhân và Giáo phận. Làm
sứt mẻ tình cảm nhiều bên. Thêm lắm hiểu lầm. Sau nhiều phản ứng
theo tính loài người, nay đến lúc phải nhìn sự việc dưới ánh
sáng lòng tin vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu
Kitô, để có cách ứng xử cho phải phép và phải đạo.
Hằng ngày, hơn một
lần, người Công giáo tuyên xưng: Lạy Cha chúng con! Tuyên xưng
chỉ có một Thiên Chúa là CHA, mọi người là anh chị em con một
cha. Do đó 3 em đánh Cha Hoa cũng là con cháu, là anh em của Cha
Hoa, của mỗi chúng ta. Với cái nhìn đức tin đó, chúng ta dễ dàng
cảm thông và quảng đại với các em, lại càng thương hơn cùng nhìn
nhận ra phần trách nhiệm thiếu sót của mình. Phải chăng thiếu
sót nghiêm trọng này là đã không nghiêm chỉnh thi hành sứ mạng
được sai đi loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người trong đó
có ba thanh niên này? Lệnh Chúa truyền vẫn còn đó. Hằng ngày Mẹ
Hội Thánh vẫn nhắc lại lệnh truyền này sau mỗi thánh lễ! “Lễ
xong, chúc anh chị em ra đi bình an”. Ra đi xây dựng một xã hội
bình an, một xã hội biết nhìn nhận và thương yêu nhau như Chúa
yêu thương. Nếu 3 thanh niên hôm 23.02 đã được nghe Tin Mừng của
Chúa Giêsu, hẳn các em sẽ không hành xử cách đau thương như thế
và các em sẽ thuộc nằm lòng chân lý này: “Sự sống đời đời là
nhận biết Cha Thiên Chúa độc nhất và chân thật và Đấng Cha đã
sai, Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Chính bản thân chúng tôi phải
tự đấm ngực thưa: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Thật đúng
như lời Thánh Phaolô đã nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan
báo Tin Mừng!” yêu thương này. (1Cr 9,16).
2. Những suy
nghĩ tiếp.
Anh chị em thân
mến,
Chiều 29.02.2012,
chúng tôi đã đến thăm anh chị em giáo dân tại vùng Cha Lu-Y Hoa
bị đánh. Phần để an ủi và trấn an anh chị em; phần để tìm hiểu
thêm chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Chúng tôi cũng đã gặp anh em
công an Huyện. Tất cả chúng tôi đều cảm thông và trao đổi chân
thành với nhau về chuyện mới xảy ra, về chuyện đạo chuyện đời.
Chẳng ai muốn thế! Anh em công an đã nhiệt tình đón nhận và
khích lệ các ý kiến của chúng tôi. Tới đây chúng tôi thấy gì?
2.1. Về đời sống vật chất.
Dân vùng này còn
nghèo. Từ ăn mặc cho đến nhà cửa. Đường xá còn giới hạn. Cách
làm ăn còn thấp. Chuyện học hành của con cái còn chưa cao. Không
có sức bật đi lên. Mong được chính quyền quan tâm nhiều hơn.
Mong có nhiều nhà hảo tâm giúp những “phương tiện phát triển”
hơn là miếng cơm manh áo, đặc biệt giúp việc giáo dục đào tạo
con em nên những người có đầu có tim phát triển hài hòa, thống
nhất. Mong Giáo hội có điều kiện đóng góp phần mình.
2.2. Về đời sống tinh thần và
tâm linh.
Anh chị em ở đây đa
phần là Công giáo. Anh chị em ý thức sâu xa: “Con người không
chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời từ miệng Thiên Chúa
phán ra” (Mt 4,4). Mặc dầu vật chất còn thấp, nhưng niềm khát
khao được thể hiện niềm tin lại thật cao. Vì thế, anh chị em ở
đây vẫn cảm thấy “chưa có tự do tôn giáo”. Lý luận của anh chị
em thật đơn giản: vì “chưa có ba thứ” (1) chưa có nhà thờ, (2)
chưa có linh mục tu sĩ, (3) chưa có các sinh hoạt tôn giáo bình
thường. Dẫu vậy anh chị em vẫn một lòng gắn bó với Tin Mừng bác
ái yêu thương. Anh chị em vẫn có tâm hồn bình an và quảng đại,
cụ thể anh chị em đã đón nhận biến cố vừa xảy ra cách rất Tin
Mừng, mặc dầu không thoát khỏi cảnh đau xót! Được sống và thể
hiện niềm tin tôn giáo là một nhu cầu bức thiết của người tin,
cho nên họ tìm mọi cách để “được sống Đạo như được thở”. Cần xin
phép, người công giáo không quản ngại. Nhưng xin mãi không được,
thì phải “chui”. Cầu nguyện chui! Cử hành phụng vụ chui! In sách
đạo chui! Mua đất để làm nơi thờ phượng chui! Làm nhà thờ nhà
nguyện chui! Không chui như thế thì chết mất! Chui thì phải chấp
nhận thiệt thòi. Biến cố 23.02 tại Turia Yốp có đúng là câu trả
lời cho cái chuyện “chui” không? Có đúng như Văn Thư ký ngày
21.02.2012 của UBND Xã Đăk Hring gửi cho Tòa Giám Mục chúng ta
không? Chúng ta chưa dám tin như thế! Mong rằng ở những trường
hợp như vậy sẽ không ai chụp cho chúng ta cái mũ “phản động”,
“diễn tiến hòa bình” hay “chống đối chính quyền” .v.v…
2.3. Vài đề nghị thiết thực cụ
thể.
Để phần nào xoa dịu
nỗi đau của anh chị em cũng là của chính chúng tôi, chúng tôi có
một vài đề nghị cụ thể như sau.
* Tuần Thánh
và đại lễ Phục Sinh 2012.
Chúng tôi có ý đích
thân đến cử hành phụng vụ Tuần Thánh và đại lễ Phục Sinh 2012
ngay tại vùng này. Chương trình chi tiết cụ thể, các linh mục
tại địa sở Kon Hring sẽ trình bày với chính quyền huyện Đăk Hà
và xã Đăk Hring. Đây được coi như một nghĩa cử xoa dịu, an ủi
anh chị em Vùng Đăk Hring. Đây cũng được coi như một hình thức
thể hiện quyền sống đạo.
* Thăm
viếng, ủy lạo và giúp đỡ.
Nhân dịp này, chúng
tôi mong có nhiều tổ chức bác ái từ thiện – dĩ nhiên là cần được
chính quyền địa phương tạo mọi điều kiện dễ dàng – quan tâm và
giúp đỡ nâng cao cuộc sống của anh chị em, đặc biệt là việc học
hành của con em trong vùng, để không một em nào thất học, tất cả
đều được học đến nơi đến chốn, được tiếp nhận một nền giáo dục
phát triển toàn diện.
Anh chị em thân
mến,
Đây không còn là
lúc ngồi than trách ai, mà là sống. Sống mầu nhiệm mùa chay, mùa
sám hối và sống theo Tin Mừng yêu thương. Chỉ có Thánh Thần Chúa
soi sáng và đổi mới mỗi chúng ta thực sự trở nên những anh em
của nhau và với nhau, để ai nấy đều sống chan hoà yêu thương
nhau. Hãy chuyển biến cố hôm 23.02 tại Turia Yốp thành cơ hội
giúp mọi người bình tĩnh ngồi lại với nhau, nhìn nhận ra nhau
đều là con dân Việt, đều là anh em của nhau và mau chóng quên đi
những tiêu cực vừa xảy ra, để cùng nhau hợp lực xây dựng xã hội
ngày càng phát triển và tươi đẹp. Sống Mùa chay thiết thực như
thế cũng là sống yêu quê hương, yêu đất nước, yêu đồng bào thật
cụ thể và thiết thực. Với người Công giáo đích thực, yêu Chúa
yêu người yêu quê hương là một, bằng một tình yêu thống nhất và
hài hòa. Mong nhờ biến cố hôm 23.2, vùng này được công khai sinh
hoạt tôn giáo bình thường.
“Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, xin
hãy đến! Xin hãy đến canh tân bộ mặt trái đất và lòng trí chúng
con!”
+ Micae Hoàng Đức Oanh
Giám mục
Giáo phận Kontum |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHUYỆN LẠ CÓ THẬT : TRIỆT SẢN CÓ
THƯỞNG
|
Tôi không tin vào
mắt mình khi đọc bài viết của tác giả VS đăng trên báo dân trí : http://dantri.com.vn/c20/s20-571109/di-triet-san-se-duoc-thuong-1-trieu-dong.htm
.
Mở đầu bài, tác giả
viết : "UBND thành phố Hồ Chí Minh vừa có quyết định ban hành
chính sách về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2011 -
2015. Theo đó, người dân tại TPHCM đi triệt sản sẽ được “thưởng”
1 triệu đồng cùng với thẻ bảo hiểm y tế có thời hạn 2 năm.
Thống kê của Chi cục
Dân số cho thấy, tại TPHCM, bên cạnh 100 trẻ sinh ra thì có hơn
75 trẻ khác không có cơ hội được chào đời. Đây là hậu quả của
tình trạng mang thai ngoài ý muốn dẫn đến việc nạo phá thai.
Số liệu trên vừa
được công bố vào chiều ngày 2/3 trong buổi làm việc giữa đoàn
công tác của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình với lãnh
đạo Sở Y tế TPHCM và Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
thành phố về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Năm 2011
trên địa bàn thành phố có 68.640 trẻ được sinh ra, con số này
gần như không giảm so với năm 2010. Cán cân giới tính đã lệch vì
tỷ lệ trẻ nam trên trẻ nữ 106/100 ..."
Khả năng sinh nở hay
nói cách khác cái "ơn" được làm mẹ của mỗi người phụ nữ phải nói
đó là một huyền nhiệm. Bằng chứng là có những người nữ mong mỏi,
ước ao, nguyện cầu để có được một mụn con nhưng vì lý do nào đó
mãi mãi không được. Thử vào các bệnh viện phụ sản lớn ta sẽ thấy
hình ảnh nghịch lý của hai dòng người : Một dòng người chờ gọi
tên để được khám để chữa hiếm muộn và tìm cách chữa trị chứng
hiếm muộn đó, bên cạnh đó là dòng người cũng chờ gọi tên mà chờ
gọi tên để giết chính đứa con yêu trong bụng mình. Để có thai
trong ống nghiệm hay tác động của y khoa mất rất nhiều tiền, cả
trăm triệu nếu đồng ý y khoa can thiệp. Ngược lại, với cái giá
rẻ mạt người ta đi giết người. Chỉ cần vài ba trăm ngàn hay
triệu đồng thôi là đủ "khử" một con người ra khỏi trần đời này.
Và như vậy, ta thấy
rằng "ơn" làm mẹ không phải do con người mà do ơn trên mà có. Ơn
trên thì ai cũng biết nó rất là thiêng liêng. Ơn trên đó được
ban tự trời, con người nhỏ bé và là người đón nhận chứ không
phải là người ban ơn đó. Con người, dù tin hay không tin vẫn có
chút gì đó tương quan với "thiên". Thiên của con người có thể là
Ông Trời, là Chúa, là Phật ... Vậy mà ngày hôm nay người ta tước
đi cái quyền tự ơn trên ban xuống, người ta cổ võ cho cái chuyện
thật khó nghĩ.
Có những người thèm
có một đứa con nhưng chẳng bao giờ có, vậy mà người ta đi cổ võ
phong trào "triệt sản có thưởng". Chẳng hiểu luân thường đạo lý
của con người ngày hôm nay nó trôi về đâu cả. Chỉ biết rằng nó
có cái gì đó méo mó mà méo mó từ những người có trách nhiệm.
Người ta đổ cho cái
chuyện : "chất lượng dân số chưa ổn định tình hình nạo phá
thai do mang thai ngoài ý muốn đang ở mức rất cao. Thống kê cho
thấy, số thai nhi bị phá bỏ gần bằng 4/5 số trẻ chào đời, cao
gấp ba lần cả nước (ước tính cứ 100 trẻ em được sinh ra thì hơn
75 trẻ khác không có cơ hội chào đời). Trong số người phá thai
có 2% dưới tuổi vị thành niên, số còn lại tập trung ở lứa tuổi
từ 16 đến 49".
Dân số chưa ổn định,
mang thai ngoài ý muốn ... Tất cả nó nằm ở vấn đề chính đó là
luân thường đạo lý của con người. Và như vậy, chuyện quan trọng
là người ta phải giáo dục giới tính, giáo dục luân thường đạo
lý, giáo dục chuyện phá thai giết người là trọng tội.
Người ta không chú
tâm vào việc giáo dục một đứa trẻ rằng quan hệ trước hôn nhân
hay người lớn ngoài hôn nhân là cắn rứt lương tâm.
Một mặt thì kêu gạo
chuyện phá thai quá cao, một mặt thì số nhà nghỉ, nhà trọ và
khách sạn tiếp tay cho chuyện có thai ngày càng mọc lên như nấm.
Cổ võ cho chuyện
triệt sản hay nói cách khác là triệt sản có thưởng cũng chỉ là
giải quyết phần ngọn. Phần gốc của vấn đề là đạo đức của con
người người ta lại không chịu giải quyết. Giải quyết phần ngọn
hay loay hoay đùn đẩy trách nhiệm thì vấn nạn chẳng đi đến đâu.
Vấn đề lớn vẫn là giáo dục cho con trẻ sống đúng với đạo đức của
con người.
Không thể hiểu nỗi
khi người ta người ta cứ vá víu cho một nền đạo đức ngày càng vỡ
ra. Và, hình như càng vá thì càng rách. Chỉ khi nào người ta
nhận ra giá trị đạo đức thật của con người và giáo dục con người
sống đúng với luân thường đạo lý của con người thì những vấn nạn
của xã hội mới giải quyết được.
Vũ Hưu Dưỡng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHẬN ĐỊNH VỀ BẢN THÔNG CÁO CHUNG
CỦA VATICAN VÀ VIỆT NAM
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Ngày 28 tháng 2 năm 2012 Phòng Báo
Chí Tòa Thánh đã chính thức ra thông cáo chung vể kết quả cuộc
gặp gỡ lần 3 của nhóm làm việc chung giữa Viêt Nam và Vatican
tại Hanội trong 2 ngày 27 và 28-2-2012.
Nhìn chung kết quả cuộc họp quả là
khiêm nhường, không tương xứng với thời gian hai ngày họp, bởi
vì bản thông cáo chỉ đưa ra những điều chung chung mà ai cũng có
thể thấy đó là kết quả của bất cứ một cuộc họp nào dù ở tầm cỡ
quốc gia hay địa phương. Người đơn sơ thì cho là cuộc gặp gỡ
chẳng có gì là quan trọng. Nhưng nhìn kỹ thì nó không đơn giản
như vậy, bởi vì thứ nhất phải đợi gần 2 năm trời để có một cuộc
họp mà kết quả lại quá thường, thứ đến chủ đích cuộc họp này là
bàn về vấn đề liên lạc ngoại giao giữa Vatican và Việt Nam, một
vấn đề mà Tòa Thánh vẫn coi là rất cần thiết thì hiển nhiên cuộc
gặp gỡ 2 ngày không thể không quan trọng được. Như vậy phải
chăng là có những điều mà hai bên không muốn lộ ra cho dư luận.
Hoặc thỏa thuận hay bất đồng quan điểm giữa hai bên?
NHỮNG ĐIỀU HAI BÊN ĐÃ THỰC HIỆN VÀ CHƯA THỰC HIỆN
Nhưng phân tích kỹ bản thông cáo
thì chúng ta cũng có thể đọc được những hàm ý bên trong.
Bản thông cáo viết: Phái đoàn
Việt Nam nhấn mạnh rằng Nhà Nước Việt Nam đã luôn thực hiện và
còn tiếp tục cải tiến chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín
ngưỡng và tôn giáo của nhân dân. Nhà Nước khích lệ Giáo Hội Công
Giáo tại Việt Nam tích cực và thực sự tham gia vào tiến trình
hiện nay phát triển đất nước, kinh tế và xã hội”
Xem vậy thì Nhà Nước csVN từ hơn
nửa thế kỷ nay vẫn chưa tôn trọng, thực hiện và bảo đảm tự do
tín ngưỡng và tôn giáo của dân chúng, bởi vì họ nói họ còn tiếp
tục cải tiến chính sách tự do tôn giáo của họ. Họ công nhận họ
không tôn trọng tự do tôn giáo của nhân dân hoặc chính sách tự
do tôn giáo của họ khác với tự do tôn giáo mà thế giới và Liên
Hiệp Quốc qui định. Nhìn vào thực tế quả đúng như vậy. Xin đơn
cử một trường hợp thôi. Giám mục Kontum Hoàng đức Oanh vẫn không
được cử hành nghi thức tôn giáo như Lễ Giáng Sinh và những lễ
buộc quan trọng như ý muốn ở những nơi xa cách tòa giám mục,
Ngài phải ngủ đêm ở xe không được vào trú ngụ tại nhà giáo dân,
cha xứ đi làm mục vụ bị đánh đập, giáo dân bày tỏ niềm tin tín
ngưỡng, quyền tự do tôn giáo của mình thì bị ngăn cấm, theo dõi,
đe dọa, bắt bỏ tù hoặc đánh đập trọng thương, các hình ảnh thánh
thiêng bị đập phá, các cơ sở tôn giáo bị tịch thu, chiếm đoạt vô
tội vạ. Nhà nước vẫn can thiệp vào những vấn đề nội bộ của Công
Giáo như truyền chức linh mục, giám mục và thuyên chuyển xếp đặt
những địa vị quan trọng của các chức sắc tôn giáo, có khi lại
can thiệp cả vào nội dung chương trình huấn luyện các chủng
sinh. Tóm lại, các sắc lệnh về tự do tôn giáo và chính sách
XIN-CHO vẫn là chìa khóa khóa cửa vào tự do tôn giáo.
Nhà nước còn khích lệ GHCG-VN
tích cực thực sự tham gia vào tiến trình phát triển đất
nước, kinh tế, xã hội. Có lẽ người Công Giáo VN nên cám ơn
nhà cầm quyền VN về sự khuyến khích và thiện chí này bởi vì từ
lâu chúng ta vẫn chỉ mong được làm như vậy. Nhưng cũng xin nhà
cầm quyền, đảng csVN cho chúng tôi được tự do đi lại và thực thi
việc thiện và việc công ích hoặc trả lại chúng tôi phương tiện
là nhà thương, trường học, các cơ sở từ thiện của chúng tôi mà
quí vị đã và đang chiếm đoạt, tịch thu để chúng tôi làm phương
tiện hầu có thể phát triển đất nước. Muốn việc phát triển đất
nước được tốt đẹp và toàn diện thì phải giáo dục, tu luyện con
người trước cả về trí tuệ, luân lý đạo đức lẫn thể xác. Trên
khắp thế giới, GHCG vẫn luôn luôn đi tiên phong trong những vấn
đề phát triển đất nước kiểu như vậy. Chẳng lẽ chúng tôi chỉ có
bổn phận mang tiền của đưa cho nhà cầm quyền, đảng csVN độc tôn
phát triển hay sao?
Về phần Vatican, Phái Đoàn Tòa
Thánh đã ghi nhận những nhận xét đó và đánh giá cao sự quan tâm
của chính quyền dân sự đối với hoạt động của GHCG, đặc biệt năm
2010 trong việc cử hành Năm Thánh và nhân dịp các cuộc viếng
thăm mục vụ của Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại diện không thường
trú. Đây chỉ là những cái gọi là thành tích nổi, bề ngoài,
có tính khoa trương thì nhà cầm quyền để cho GHCG được dễ dàng.
Còn những gì là căn gốc, nền tảng của đạo như đem Chúa, đem Tin
Mừng đến cho những người nghèo khó, khốn khổ ở những nơi xa xôi,
vùng quê hẻo lánh hay núi đồi cao nguyên thì bị ngăn cấm, làm
khó dễ đối với cả giáo dân lẫn giáo quyền. Tình trạng tự do tôn
giáo không được áp dụng đồng nhất. Điạ phương này thì dễ, địa
phương kia thì khó khăn làm người dân có cảm tưởng chính quyền
dân sự trên biểu dưới không nghe hoặc trên đổ cho dưới, dưới đổ
cho trên, gây tình trạng hoang mang trong dân chúng, riết rồi
người ta cho là chính quyền nói dối, và đó là chủ trương của nhà
nước.
Về vai trò của vị đại diện không
thường trú thì như thông cáo đưa ra, Tòa Thánh vẫn “mong ước
Ngài và sứ mạng của Ngài được tăng cường và mở rộng để củng cố
các quan hệ của hai bên tại Việt Nam cũng như ý hướng của VN và
Tòa Thánh về phát triển các mối quan hệ với nhau”. Như vậy
rõ ràng cho đến giờ phút này vai trò của Đức Khâm xứ không
thường trú vẫn chỉ là có tiếng mà không có miếng. Và kết quả vẫn
là lời hứa của VN sẽ để cho Đại Diện Tòa Thánh có điều kiện dễ
dàng hoạt động. Hãy chờ.
KẾT THÚC THÔNG CÁO: GIÁO DÂN TỐT, CÔNG DÂN TỐT
Bỏ đi những lời lẽ hình thức ngoại
giao, thì phần nhắc lại giáo huấn của ĐTC Biển Đức XVI về việc
sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước và những nhận xét của Ngài về
việc “là Tín hữu Công Giáo tốt và là một công dân tốt,
nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục có sự cộng tác giữa GHCG và
Chính quyền dân sự, để thực thi một cách cụ thể và thực tế,
những giáo huấn ấy trong tất cả mọi hoạt động.”
Người viết coi phần này như là kết
thúc của bản thông cáo chung, là điều kiện để cho những đòi hỏi
ở trên được thi hành nghiêm chỉnh. Chúng ta coi đây như là một
đòi hỏi đồng đều và nghiêm chỉnh của cả hai bên để cho cuộc họp
mang lại kết quả mong muốn trong tương lai.
Phía nhà nước muốn phía Công Giáo
“Không được tổ chức thắp nến cầu nguyện” hay có “những
sinh hoạt nào mà nhà nước nghi ngại hoặc không thích, không bằng
lòng”hay một đòi hỏi nào đó quá sức mà thông báo không tiện
nói ra. Dĩ nhiên là nhà nước có lý do của nhà nước nhưng những
hành động của Công Giáo lại là những quyền tự do của cá nhân con
người và của tập thể, khi mà những quyền tự do đó bị cướp đoạt
hoặc bị trà đạp, mặc dù Hòa Bình vẫn luôn luôn là chủ trương
chính và căn bản của Công Giáo.
Từ ý thức về con người tự do, Giáo
Hội luôn luôn chủ trương sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc/đất
nước, luôn luôn hợp tác với nhà nước, lấy Bác Ái, Yêu Thương,
Hòa Bình, Công Bằng, Công Lý và Tự Do làm căn bản. Do đó Giáo
Dân Tốt thì Công Dân Tốt. Nhưng chính quyền dân sự ở Việt Nam,
nhà cầm quyền Việt Nam có cùng một quan niệm như vậy không? Đó
là cả một vấn đề. Chúng tôi thi hành lời Chúa truyền, giáo huấn
của Giáo Hội dạy để trở thành người Tín Hữu Tốt thì có khi lại
không là Công Dân Tốt của đất nước xã hội chủ nghĩa VN, bởi vì
người dân đã được đảng csVN dạy “Yêu nước là yêu xã hội chủ
nghĩa”. Yêu nước theo kiểu của đảng csVN, của chính quyền dân sự
ở VN là người dân không được làm bất cứ cái gì mà đảng csVN
không muốn. Vì vậy là giáo hữu tốt đôi khi không thể là công dân
tốt theo kiểu của đảng csVN và ngược lại là Công Dân Tốt đôi khi
không thể là Giáo Dân Tốt theo giáo lý Công Giáo và Tin Mừng của
Đức Giêsu Kitô. Hai vế Giáo Dân Tốt, Công Dân Tốt chỉ có thể đi
song hành, ăn nhịp với nhau khi mà tự do và nhân quyền được
chính quyền dân sự và nhà nước thực sự tôn trọng mà thôi.
Hy vọng đảng csVN, phái đoàn VN
không dùng 2 vế câu đối Giáo Dân Tốt, Công Dân Tốt để
đánh lừa hay mê hoặc, khuyến dụ những người kém hiểu biết, nhẹ
dạ, cả tin, như họ đã từng dùng trong quá khứ câu đối Tốt
Đời, Đẹp Đạo, đã trở thành nhàm chán và bị lộ tẩy.
Fleming Island, Florida
Mars 2, 2012
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH GIUSE, CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.
|
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô
hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt
tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3). Nên thánh theo con đường của
Thánh Giuse, một con đường cho nhiều người.
Dấn thân trong
nghề nghiệp:
Nên thánh trong chức nghiệp là một
yếu tố quan trọng để xây dựng hòa bình trên trái đất. Có thể
chúng ta rất ngạc nhiên về điều này, nhưng chính việc ý thức nên
thánh trong chức nghiệp mà mỗi người theo bổn phận mình sẽ làm
tăng trưởng phẩm giá con người và phát triển hài hòa với tự
nhiên.
Đi vào cụ thể hơn, chúng ta nghe,
người đồng thời nói về Thánh Giuse rất trìu mến: “bác thợ mộc”.
Một tên gọi rất thường nhưng lại bao hàm lòng yêu mến con người
thợ mộc ấy. Dĩ nhiên, phải có điều gì đó con người thợ mộc kia
đã gây được thiện cảm và lòng trìu mến của nhiều người. Ngày
nay, chúng ta thử nhìn, có bao nhiêu người chức nọ, chức kia;
học vị, địa vị, giàu có; nhưng khi nói về họ, nhiều người rủa
thầm: tên này, tên nọ, thằng này, thằng kia, tay này, tay nọ...
Chẳng thấy trong câu nói một tý trìu mến, hay đáng trọng nào. Để
được tôn trọng trước tiên người đó cần có lòng tự trọng. Công
việc mỗi ngày bộc lộ tính tự trọng trong đó, người có lòng tự
trọng sẽ làm công việc cẩn thận, có trách nhiệm, liêm khiết,
công bằng, hợp tác, thân tình...
Vì chủ đích
kiếm tiền công việc làm của mỗi người trở nên nặng nhọc, gánh
nặng và có khi gian dối, lường gạt. Trong phim “thương đạo”, Mãn
Thương lấy triết lý: “Kinh doanh vì tìm kiếm con người” là chủ
đạo, nên sẵn sàng hy sinh vật chất của cải để cứu con người.
Kinh doanh đi đôi với lòng nhân từ. Bài học này để đạt được đã
trả giá rất nhiều khó khăn, nhưng nó lại là bài học thành công
trong việc kinh doanh, gầy dựng luật cơ bản trong “Đạo Đức Kinh
Doanh”. Bang chủ Mãn Thương nói sau lần thất bại nhân sâm: "Ta
chẳng sợ bản thân bị phá sản, nhưng không nỡ thấy những người
gắn bó với ta bao năm không có cơm ăn áo mặc".
Nên thánh
trong công việc, đó là thực hành đời sống nghề nghiệp của mình
cách tận tụy và quảng đại, chuyên môn và hiểu biết. Công việc
làm trở nên như của lễ, làm việc như cách cử hành trân trọng, và
kết quả của công việc như một ân ban. Thánh Giuse nên thánh
trong nghề nghiệp của mình và cũng là Thánh bổn mạng của những
người lao động.
Người cha trong
gia đình.
Vai trò người
cha trong xã hội truyền thống công nghiệp xưa kia, người cha là
người lao động trực tiếp nuôi sống gia đình; người mẹ ở nhà lo
chăm sóc gia đình, giáo dục con cái. Hoàn cảnh gia đình nông
nghiệp xưa, vừa trồng trọt vừa chăn nuôi, cả gia đình đều chia
sẻ công việc chung, việc giáo dục và dưỡng nuôi đều do cha mẹ
góp công góp sức.Thánh Giuse cộng tác với Đức Maria để xây dựng
gia đình Thánh Gia mà chúng thấy qua các sự kiện: Đón nhận Đức
Maria về nhà – Đưa Đức Maria về quê quán khai sổ bộ - Tìm nhà
trọ - Sinh hạ Chúa – Qua bên Ai Cập – Trở về Nazaret – Dâng con
trong Đền Thờ - Đi tìm con khi lạc mất... Một chuỗi các sự kiện
như bao nhiêu gia đình khác, đầy những khó khăn. Chu toàn bổn
phận gia đình cũng là một ơn gọi nên thánh cơ bản của nhiều
người.
Thánh Giuse
là “bác thợ mộc”, theo truyền thống của gia đình người Do Thái,
người cha có bổn phận dạy cho con mình một nghề để sinh sống,
chắc chắn Chúa Giêsu cũng thọ giáo nghề nghiệp từ nơi cha mình.
Ngày nay, cha mẹ lo cho các con ăn học rất vất vả mới chu toàn
được một phần tại học đường. Một trường học khác tại gia, cha mẹ
làm gương, dạy con đường nhân đức, huấn luyện con nên người
Thánh. Một nhiệm vụ trọng đại và cũng là triều thiên vinh quang
của cha mẹ.
Ngày nay một
số người cho rằng không cần người cha trong gia đình để thụ
thai, sinh con, chăm sóc, giáo dục những đứa con. Vì thấy trong
cuộc sống vợ chồng có quá nhiều khó khăn, bất đồng chia rẽ, hoặc
theo lối sống đồng tính. Theo bác sĩ Robert Moradi: "Trẻ con
được người cha góp phần săn sóc ít trở thành bạo động hơn; có
chỉ số thông minh cao hơn, biết tự kiềm chế hơn, thích ứng xã
hội tốt hơn, tất cả mọi yếu tố về sức khỏe tâm thần đều tốt
hơn". Một xã hội bạo lực nhiều hơn cho thấy những giá trị cơ bản
gia đình đang mất đi. Cứu lấy gia đình bằng ơn gọi hôn nhân là
cứu xã hội, cứu thế giới khỏi những bạo loạn.
Một người con
như Chúa Giêsu có lần người ta cũng thắc mắc: "Bởi đâu ông ta
được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không
phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà
Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê,
Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? (Mt 13, 54 -55). Một phần theo lẽ
tự nhiên, Chúa Giêsu cũng hấp thụ nơi người cha mình những điều
tốt đẹp và thụ hưởng những đức tính tốt lành.
Là một người
cha tốt lành, người mẹ nhân ái, đó là con đường nên thánh cho ơn
gọi hôn nhân. Người ta nói: “thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ,
thứ ba tu chùa”, con đường tu nhà là con đường cho nhiều người
và cũng là điều cơ bản để có những người con trưởng thành ở đời
và là mầm mống cho ơn gọi thánh hiến. Không có thánh nhân tại
gia thì cũng khó có những thánh nhân ở đời.
Vâng phục để
Thánh ý Chúa nên trọn.
Không quan
trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay
tầm thường. Trước mặt Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có
giá trị. Điều quan trọng, thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng
Ngài mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân
tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có
khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Cái phi thường ở
trong cái tầm thường của mỗi con người là một viên ngọc quý tiềm
ẩn, giống như dụ ngôn người đi tìm ngọc quý, tìm được anh về bán
tất cả của cải để tậu được thửa ruộng có viên ngọc quý ấy. Người
ta nói “Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, Cũng thành vô dụng cũng
hoài ngọc đi !”. Con người trau dồi nơi mình nhân đức, rèn
luyện, học hỏi là tự thân; thế nhưng còn nhờ đến người khác bồi
bổ, hướng dẫn, nâng đỡ, khích lệ ... đặc biệt rập khuôn đời mình
trong Thánh ý Chúa. Những nỗ lực đó đang từng ngày biến đổi cái
tầm thường trở nên phi thường. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con
người sống an vui và nên thánh trong địa vị mình. Hãy đến cùng
Giuse!
Thánh Giuse
mẫu gương cho mọi người nên thánh trong cuộc sống này. Trên
đường nên Thánh đó Thánh Giuse cũng là thầy dậy về các nhân đức
để thu phục nhân tâm, biến đổi cái tầm thường trở nên phi thường
và sống niềm vui trong cuộc sống.
Lm Giuse
Hoàng Kim Toan
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐI TÌM PHƯƠNG
PHÁP RAO GIẢNG TIN MỪNG |
Thánh Phaolo bảo :"Hãy rao giảng
Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ,với tất cả lòng nhẫn
nại và chủ tâm dạy dỗ" (2Tm 4, 2).
Lập trường của giáo hội là không
buông xuôi, thất vọng nơi cộng đoàn có những con người, phe nhóm
chai lì, tổ chức bất hợp pháp, đêm ngày chìm trong tệ đoan, mặc
dù biết chắc nguy hại đến tính mạng, khi dám lên tiếng bênh vực
sự thật. Đó là sứ mệnh của hội thánh và mỗi kitô hữu. Thomas
Mann nói : “Sự thật có hại còn quý hơn là sự lừa dối hữu ích”.
Thế giới đang bôi nhọ những giá
trị căn bản của con người, bỏ qua giá trị đạo đức, tấn công bằng
những đủ mọi cách, xem ra họ thắng thế. Đôi khi làm chúng ta
nhụt ý chí, muốn đầu hàng hoặc đồng loã buông theo chiều gió.
Chủ tịch Fidel Castro có lý khi
viết : "Thực ra, điều chúng tôi cổ vũ là sự cự tuyệt, sự từ
khước, sự thù ghét hệ thống, thù ghét bất công. Chúng tôi không
cổ vũ sự thù ghét giữa người với người, vì thực ra con người là
nạn nhân của hệ thống. Nếu phải chiến đấu chống hệ thống, ta hãy
chiến đấu chống hệ thống. Nếu phải chiến đấu chống những con
người đại diện cho hệ thống ta thù ghét, ta phải chống những con
người đại diện cho hệ thống ta thù ghét . Tôi tin rằng ở đây
không có sự mâu thuẫn với giáo lý của Thiên Chúa giáo" (Fidel và
tôn giáo, CGDT, số 582 tr.7). Như quan điểm của Chúa Giêsu :
ghét tội chứ không ghét người có tội. Ngài cũng khiển trách cơ
chế, lề luật và giới lãnh đạo Do thái giáo giả hình, lì lợm
trong nếp cũ của tội lỗi mà lại che đậy bằng những hình thức giả
tạo bề ngoài giống mồ mả tô vôi. Quả vậy, con người đã tạo nên
những phe nhóm đóng kín, bao bọc bằng những hàng rào thể lý, văn
hoá và tâm lý. Mỗi nhóm đều tự phụ có nền văn hoá, ngôn ngữ và
tôn giáo riêng của mình. Nhưng làm thế nào có thể đạp đổ những
bức tường đã dựng lên bao bọc những trái tim, những gia đình,
những dòng tộc và dân tộc? Những bức tường này còn vững chắc hơn
cả bêtông, xây trên nền sợ hãi....
“Paul Claudel là một người vô thần
và sống bê tha. Chiều ngày lễ giáng sinh năm ấy, tình cờ ông
bước vào nhà thờ Đức Bà thành phố Paris. Tiếng hát của ca đòan
qua bài Mangificat trong buổi kinh chiều đã thực sự làm cho ông
xúc động, rồi từ đó ông đã ăn năn sám hối quay về cùng Chúa và
trở nên một nhà văn công giáo nổi tiếng” (Thánh nhạc ngày nay,
số 1, tr. 15). Hay đại văn hào Don. Dostoievski (Liên xô cũ)
lúc sinh thời ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tăm tối ; cuối đời
ông đã sám hối và nói với vợ : “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy
đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn Tin mừng”. Giáo hội vẫn
khẳng định : khoa học và đức tin không phản nhau. Khoa học phục
vụ cho đức tin, và đức tin mở đường cho khoa học. Newton đã nói:
“tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng”. Nhiều nhà
khoa học hàng đầu thế giới là người có đức tin như Newton,
Ampère,…
Vì vậy cần phải có nghệ thuật gieo
rắc. Nghệ thuật đó là yêu thương. ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận nói :
“Nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Đức Giêsu. Nghệ
thuật yêu thương đó là yêu thương như Mẹ Maria”. Và Mẹ Têrêxa
Calcutta phát biểu : “Để yêu mến một người cần phải tiến tới gần
người đó…Tôi không bao giờ săn sóc các đám đông mà chỉ săn sóc
các con người cụ thể thôi” (Chúa mang cho con tình yêu, Roma
1979, tr.48). Yêu thương là cách loan báo Tin mừng tốt nhất. Đạo
chúng ta là đạo yêu thương, bác ái. Hơn nữa, cũng cần phải nhìn
trong viễn tựơng con người ngày càng tự do, tôn giáo ngày càng
mở rộng, sợ tương lai không còn đoàn chiên cho mục tử coi sóc,
yêu thương gần gũi hay chỉ còn những đoàn chiên, con chiên lạc
lõng. Khi ấy con chiên lạc, người tội lỗi lại là ‘động vật quý
hiếm’; mảnh đất hoang vu, cằn cỗi lại là những kho báu?!
Kiên nhẫn gieo rắc những hạt giống
yêu thương nhỏ mọn hằng ngày cho mọi người ở mọi môi trường mặc
dù hôm nay chưa thấy kết quả gì cả, đó là việc cần làm ngay. Hạt
giống ấy phải tốt thực sự và thể hiện một cách phong phú qua
từng lời nói, hành vi cử chỉ của chúng ta. Luther King nói :
"chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước,
nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em". "Ai ghét anh em
mình là kẻ sát nhân" (1Ga 3, 15).
Không phải điều hay điều tốt
chỉ nghiêng về tập thể, cộng đoàn, gia đình của tôi, anh chị em
con cháu nhà mình,... cũng như hạt giống tốt mà chất đống lại nó
sẽ thối mà phải được gieo vãi khắp nơi. Nên việc loại trừ đầu óc
cục bộ, phe nhóm, quan điểm lập trường cá nhân bảo thủ, độc tài,
độc đoán, độc tôn, độc địa là điều cần làm ngay trước khi gieo
giống. Đấy là khâu dọn đất. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng
‘phát triển không bền vững’. Những phe nhóm, giáo phái, tôn giáo
bắt ép Thiên Chúa thuộc về cá
nhân, tập thể, vùng đất mình để tiêu diệt người khác không
đồng quan điểm, tư tưởng, giáo lý với mình, cho nên có đấu
tranh, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh nóng, cuộc chiến tranh
lạnh...
Nhiều khi chúng ta chỉ lo bảo vệ
‘công trình’, ‘lương thực’, ‘thuốc men’...mà không thông truyền,
loan báo những thứ đó cho ai thậm chí còn ngăn cản, gây khó
khăn cho người khác. Hoặc nếu có thì dè dặt, bất đắc dĩ....vì sợ
mất uy tín, danh dự, tiền bạc, sức khỏe, thời gian. Đó là hình
thức làm cho hạt giống bị co cụm lại rồi bị bóp chẹt, chết yểu.
Thực tế, giáo hội có thể bị tiếng bảo thủ, độc tài qua những con
người để rồi không chấp nhận những cú đột phá, bứt phá ngọan mục
trong cách diễn tả, biểu cảm, sáng tạo phát minh, qua mô mình và
ngôn ngữ. Lịch sử giáo hội đã xảy ra, nhiều khi thì ra vạ rồi
lại giải vạ; kết án rồi lại xin lỗi, trả lại danh dự cho người
ta, (như nhà bác học Galilêô, như chuyện linh mục nổi tiếng
Frate Savonarole là tu viện trưởng dòng Đaminh tại Florence (
người Ý) đã bị lột áo dòng rồi bị treo cổ và vứt vào dàn hỏa
thiêu ngày 23/5/1498 vì bi kịch cá nhân với giáo hòang Alexandre
VI mà sau hơn 500 năm, giáo hội làm hồ sơ phong thánh cho ngài
(x. Cỏ dại ven đừơng V, Lm. Thiện Cẩm, tr. 170) hay vụ cha
Anthony Mello (tu sĩ dòng Tên, Ấn độ) bị tòa thánh lên án vì tư
tửơng Đông – Tây khác nhau; và các thần học gia mới đây cũng
vậy, sau này giáo hội đã nhận ra sai lầm của mình chỉ vì bảo
thủ, độc tài.
Từ lâu rồi, nhà đạo mình vấp phải
quan niệm ‘giữ đạo’ nên Lời Chúa chỉ quanh quẩn trong môi
trường giáo hội, phạm vi giáo xứ, cộng đòan mình không cho đi
vào các lãnh vực trần thế, đó là điều mà Công Đồng Vatican II đã
ước ao hơn 40 năm nay chưa đạt lắm. Con đường mòn ấy vẫn còn
thấy có bóng dáng người đi gieo giống tiếp tục lảng vảng. Lệnh
truyền của Đức Kitô : Hãy loan báo Tin Mừng khắp thế gian,…cho
mọi lòai thọ tạo vì nó cũng ‘đang quằn quại mong chờ ngày được
giải thóat cùng với con cái Thiên Chúa’ xem ra vẫn còn là lý
tưởng, sách vở nhiều hơn.
Vô tình hay cố ý chúng ta trở
thành kẻ cản trở, bưng bít Lời Chúa thay vì khai thông bế tắc,
mở đường, tạo thuận lợi cho người khác. Isaia có đọan viết lạ
lùng “Hỡi những người có phận sự nhắc nhở Đức Chúa, anh em đừng
nghỉ ngơi. Cũng đừng để Đức Chúa nghỉ ngơi” (Is 62, 7). Kinh
nghiệm thấy, rất tiếc có những hạt giống của Lời làm mất đi
những con người, tập thể, phái đòan, khiến họ bức xúc, tức tối,
sẵn sàng trả đũa người gieo hạt! Kể cả những lời trong giao tiếp
làm tổn thương, xúc phạm, hay hàm ý xấu. Chỉ cần một chút ảnh
hưởng của Lời Chúa cũng đủ làm cho người ta thay đổi cuộc sống.
Lời Chúa thật phong phú. Lời Chúa mà cạn kiệt không khai thác
được nữa thì không phải là lời hằng sống. Bên cạnh đó, Lời Chúa
còn có thể đi vào ‘phần cứng’ của mọi lãnh vực trần thế, như :
thơ ca, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc, khiêu vũ, kịch nghệ và các
phương diện mỹ thuật khác. Tìm được người ‘tiếp thị’,
‘marketing' cho Lời Chúa để nó được thông truyền nhanh chóng
hiệu quả, chính xác quả là hiếm. Một số hiệu sách ngoài đời bày
bán sách Kinh thánh, truyện cuộc đời Đức Giêsu, phim tôn giáo,
vv…Một cách nào đấy cộng tác vào việc hội nhập, gieo rắc Lời
Chúa và giáo lý. Tất cả không ngoài ý Chúa. Thiên Chúa đang dùng
họ làm người 'tiếp thị'. Tiếc là có những điều họ không nắm vững
về đạo. Vậy nếu có những người am hiểu cùng tham gia, để len lỏi
hướng dẫn họ gieo trong vùng đất ấy những hạt giống tốt trong
ngành nghề : in ấn, đạo diễn, biên tập, phát ngôn viên, cố vấn
....có lẽ sẽ hiệu quả hơn nhiều. Vì “hạt giống gieo vào mảnh đất
màu mỡ, sinh hoa kết quả dồi dào gấp trăm” (Tv 64).
Nhận biết được sứ mệnh cao cả của
mình là người được đặt lên để trở thành phát ngôn viên của Lời
Chúa trong mọi môi trường, mọi tình huống với tha nhân, nên
người tông đồ phải đem lại bình an và động viên người ta yêu mến
Chúa và yêu thương tha nhân dù lời ấy được nói trong tương quan
xã giao bình thường, được gieo ở bất cứ đâu, với bất cứ ai. Cũng
không được phân biệt hạng người để rồi đối xử với người ta theo
kiểu quá cách biệt.
“Thật vậy, Nước Thiên Chúa không
cốt ở tài ăn nói, nhưng ở quyền năng Thần Khí” (1Cr 4, 20). Xác
tín cơ bản ấy dẫn dắt cuộc đời người tông đồ trên hành trình
gieo hạt giống. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói : “Thiên Chúa
cần một tâm hồn tông đồ chứ không cần việc tông đồ”. Còn Mẹ
Têrêxa Calcutta trong lá gửi thư cho ĐHY Px.Nguyễn văn Thuận có
viết: “điều quan trọng không phải là công tác đã thực hiện nhưng
là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công tác”.
Vì vậy, cần phát hiện xem lọai
‘virus’ nào đáng sợ nhất đang phá huỷ âm thầm, phá hủy nhanh
chóng tất cả mọi sự ta đầu tư tích trữ, xây dựng bấy lâu nay của
ta. Nói kiểu tu đức là tìm ra nết xấu cầm đầu. Và cũng giúp cho
cộng đòan mình phát hiện, như Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn nói :
“Thế nhưng trên thửa đất màu mỡ gia đình (cộng đòan, xã hội...)
hôm nay, xuất hiện nhiều loại sâu rầy đe doạ sự tồn tại của
những hạt giống ơn Chúa đó là các tệ nạn xã hội, nạn phá thai,
bạo hành và li dị mỗi ngày phổ biến hơn. Tiến bước trên con
đường của Chúa Kitô, gia đình không những trở nên thửa đất màu
mỡ cho Chúa gieo trồng các hạt giống ơn cứu độ, song gia đình
còn trở nên thành trì kiên cố bảo vệ các hạt giống đó khỏi sự
tàn phá của sâu rầy, của văn hoá sự chết" (Gia đình sống đạo,
CGDT số 1582, tr. 20). Đó là sứ mệnh của người tông đồ phải rao
giảng cho người ta biết.
Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn |
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẬT TẠI TÂM, CHUÁ Ở
TRONG LÒNG
|
Từ
mấy năm gần đây, tôi đã viết nhiều bài liên quan đến vấn đề tôn
giáo dấn thân nhập cuộc với xã hội, điển hình như các bài
“Tôn giáo và lòng Nhân ái vị tha”, “Tôn giáo dậy chúng ta
sự khiêm cung”, “Tôn giáo và Xã hội Dân sự”
v.v...Trong các bài viết này, tôi chú trọng đến khiá cạnh tích
cực trong vai trò cuả tôn giáo đối với đời sống con người trong
xã hội hiện đại. Tuyệt nhiên tôi tránh lối chỉ trích mạt sát,
chế diễu những sai lầm nơi bất kỳ các tổ chức tôn giáo nào khác
với tôn giáo cuả mình. Như dân gian thường nói : “Tin đạo, chứ
không nên nhắm
mắt tin người có đạo”, tôi xác tín rằng tôn giáo nào cũng chủ
yếu là một con đường dẫn đưa con người tới neỏ Chân, Thiện, Mỹ
mà thôi, danh từ Đạo có nghiã là con đường mà! Nhưng vì là con
người vốn luôn luôn có những sai sót, bất toàn, cho nên bất kỳ
mỗi tín đồ cuả một tôn giáo nào, thì đều có thể phạm những lổi
lầm vô tình hay cố ý, phát xuất từ sự yếu đuối thường tình cuả
con người sống trên thế gian vốn đày dãy những cạm bãy cám dỗ
này. Do vậy mà ta không nên “vơ đuã cả nắm” để mà xác quyết được
rằng tôn giáo này, tôn giáo kia chỉ là một thứ xằng bậy, là thứ
phản tiến bộ, lạc hậu, hoặc như người cộng sản quá khích cực
đoan, vốn xưa nay vẫn coi “tôn giáo là thứ á phiện làm mê hoặc
quần chúng”, nên họ đã thẳng tay triệt hạ các tổ chức tôn giáo -
mà không hề có đôi chút xót thương luyến tiếc.
1 - Chúng ta đều biết rằng
trong lịch sử cuả nhiều dân tộc trên thế giới đã xảy ra những
cuộc chiến tranh tàn khốc phát xuất vì lý do tôn giáo. Và chỉ
trong vài thế kỷ gần đây, nhân loại đã rút ra được một bài học
khôn ngoan là phải đề cao sự bao dung, chấp nhận sự khác biệt
cuả con người trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Ngày nay con người
đã hiểu biết và thông cảm với nhau nhiều hơn, nên đã thể hiện
được tình trạng “Đa
dạng Đa nguyên về Văn hóa, về Tôn giáo“
(cultural, religious diversity/pluralism).
Cụ
thể điển hình là Liên Hiệp Quốc đã phát động cả một chương trình
hành động nhằm ngăn cản và chấm dứt “sự bất bao dung, nạn kỳ
thị về tôn giáo” (Religious Intolerance / Discrimination ). Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ban hành năm 1948 cũng đã xác
định trong điều 18 rằng : “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng,
tự do lương tâm và tự do tôn giáo...” Đó là một sự tiến bộ
dứt khoát và rõ ràng cuả nhân loại từ giưã thế kỷ XX cho đến đầu
thế kỷ XXI cuả chúng ta hiện nay.
2 - Là người có một niềm
tin tôn giáo sâu sắc thừa hưởng được từ truyền thống gia đình
ngay từ tuổi ấu thơ, rồi sau này khi trưởng thành, tôi lại có
duyên được sát cánh gần gũi thân thương với nhiều vị tu sĩ và
tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau, thông qua những công tác từ
thiện nhân đạo, nên tôi tiếp thu được một tinh thần bao dung,
thông thoáng cởi mở trong các sinh hoạt văn hoá xã hội và tâm
linh cuả các cộng đồng tôn giáo ở Việt nam cũng như ở ngoại
quốc. Cụ thể, vào các năm 1972-74 tôi đã được mời cộng tác với
Hội đồng Tôn giáo Thế giới (WCC = World Council of Churches) có
trụ sở chính tại Geneva, Thuỵ sĩ. Và nhất là trong mười năm gần
đây, tôi luôn sát cánh với Viện Xây dựng Hoà bình Muà hè thuộc
trường Đại học Eastern Mennonite University tại Virginia (Summer
Peacebuilding Institute SPI/ EMU). Cũng như tham gia sinh hoạt
thường xuyên với các nhóm tôn giáo dấn thân hoạt động cho Hoà
bình tại thành phố Knoxville tiểu bang Tennessee trong khuôn khổ
cuả tổ chức Viện Xây dựng Hoà bình Miền Đông Tennessee
(Peacebuilding Institute of East Tennessee PIET). Có thể nói các
tổ chức xây dựng Hoà bình này là kết quả cuả sự hợp tác chặt chẽ
giưã giới lãnh đạo Tôn giáo và giới Đại học Hàn lâm (Cooperation
between Churches and Academy) trong ý hướng góp phần vào công
cuộc giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn cuả con người tại
khắp nơi trong xã hội ngày nay.
3 - Nhưng cái kinh nghiệm
sâu sắc và bền bỉ nhất cuả tôi sau nhiều năm tháng tiếp cận và
làm việc chung với môi trường tôn giáo nhập cuộc với xã hội như
đã ghi sơ lược ở trên, thì chính là chiều sâu tâm linh trong đời
sống (spiritual life) cuả những vị hoạt động tích cực
nhất nơi những tổ chức này. Họ đều có một lối sống thanh thoát,
không chút bận tâm đến những chuyện nhỏ nhen, tầm thường cuả thế
gian thường tình. Tâm hồn họ như bay bổng lâng lâng trong tình
yêu thương gắn bó với mọi người trong cõi nhân sinh, và luôn sẵn
sàng hy sinh để tạo dựng hạnh phúc cho đồng loại. Rõ ràng là họ
đối xử với mọi người như là anh chị em ruột thịt, vì quan niệm
rằng tất cả đều cùng là con cuả một người cha chung, một Thượng
Đế vốn hết lòng yêu thương loài người. Họ vừa có trí tuệ sáng
suốt, vừa có tâm hồn nhân hậu, sống và làm việc với lý tưởng
thanh cao, nhiệt thành. Cái ngọn lửa yêu thương trong sâu thẳm
tâm hồn cuả họ luôn tỏa chiếu lan rộng ra nơi môi trường xunh
quanh họ (transfer of the flame), và có sức chuyển giao đến tâm
hồn cuả quần chúng mà có duyên tiếp cận với họ. Vì thế, tôi có
thể nói được rằng những vị này rõ ràng là đã đạt tới được “
Cái Tâm Bồ Tát” theo ngôn ngữ cuả Phật giáo. Mà theo ngôn
ngữ cuả Thiên chuá giáo, thì họ đang ấp ủ “Chúa ở trong lòng
mình”.
Đó
là lý do tại sao tôi đã chọn nhan đề cho bài viết “Phật tại
tâm – Chúa ở trong lòng” này được khởi thảo từ cuối năm 2009
và được bổ túc vào đầu năm 2012 hiện nay, nhằm giãi bày tâm sự
cuả một người đã tham gia lâu năm với loại “Họat động xã hội
dựa vào niềm tin” (faith-based social action) cùng chung với
nhiều tín đồ thuộc các khuynh hướng tôn giáo khác nhau.
4 - Nói về chữ Tâm, thì dân
gian ta từ xa xưa vẫn trao đổi truyền khẩu với nhau qua mấy từ
ngữ đã thành ước lệ (conventional language) như : “ cái tâm
thiện hảo”, “ cái tâm trong sáng”, “cái tâm thanh cao “ v.v...
Ngược lại là các chữ : “cái tâm đen tối”, “cái dã tâm”, “cái tâm
điạ độc ác” v.v... Văn hào Nguyễn Du đã phát biểu trong câu thơ
ở đoạn kết cuả tác phẩm bất hủ Truyện Kiều như sau :
“Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài “.
Đây
quả là một lời khuyến thiện tuyệt diệu và có tác dụng hết sức
sâu sắc, mà lâu dài đối với quảng đại quần chúng, mà ngay cả các
vị tu hành lâu năm cũng không thể nào kêu gọi tín đồ hay hơn như
thế được. Chính vì chú trọng đến cái phần cao quý trong nhân
cách cuả mỗi người như vậy, cho nên cha ông ta mới thường hay
nhắc nhủ con cháu là phải cố gắng miệt mài “Rèn Tâm Luyện
Chí”, để sau này trở thành con người hưũ dụng cho xã hội,
làm rạng danh cho dòng giống nhà mình (ích nhà, lợi nước) vậy.
5
- Tại miền Nam Việt nam, ngay từ thập niên 1950 các
ấn phẩm trong tủ sách “Học làm người” rất được công chúng tìm
đọc, và một trong những tác giả loại sách này mà được nhiều
người mến chuộng, đó chính là học giả Nguyễn Hiến Lê. Cụ là
người tinh thông cả cổ học lẫn tân học, nên văn phong cuả cụ rất
đơn giản sáng suả, mà về nội dung thì lại rất phong phú đề cao
sự rèn luyện nhân cách, khai mở trí tuệ. Cụ tham khảo chọn lọc
những sách nổi danh ở Âu Mỹ và tìm cách dịch ra Việt ngữ để phổ
biến sâu rộng cho số đông độc giả có trình độ học vấn phổ thông.
Sau
năm 1975, tôi có duyên được gần gũi tiếp cận khá thường xuyên
với cụ và được cụ tâm sự nhắn nhủ với tôi nhiều chuyện, mà tôi
xin ghi lại ở đây một điều cốt yếu như sau : “ Tôi đã cố gắng
đóng góp hết sức mình vào việc ”Nâng cao Dân trí“ qua
những sách báo tôi viết suốt mấy chục năm nay. Nhưng cái việc
“Chấn hưng Dân khí” như cụ Phan Châu Trinh kêu gọi, thì còn
phải trông chờ nơi nhiều người khác cùng tiếp tay vào nưã, thì
mới thực hiện được. Đó là làm sao chuyền được cái ngọn lưả cho
thế hệ tương lai con cháu mình, cho nên vấn đề là chính chúng ta
phải có được cái ngọn lưả nồng nàn trong tâm hồn cuả mình, thì
mới có thể lan truyền sức nóng ấy sang cho thế hệ sau kế tiếp
được. Tuổi trẻ cuả các ông còn có nhiều cơ hội để mà làm được
cái việc “Dĩ tâm truyền tâm“ như thế đó ...”
*Bài
viết đến đây kể đã dài rồi, tôi xin chỉ ghi thêm một vài dòng
thật ngắn ngủi nữa, đó là thế hệ chúng ta cần phải chú trọng hơn
nữa đến việc phục hồi lại cái truyền thông nhân ái và nhân bản
của cha ông ta ngày xưa đã xây dựng được và truyền lại cho con
cháu ngày nay. Dĩ nhiên là chúng ta cũng cần phải biết tiếp thu
những cái hay, cái đẹp của những nền văn hóa khác nữa – mà ngày
nay nhờ sự giao lưu phổ cập dễ dàng trên thế giới chúng ta đều
có thể tiếp cận được – để bồi bổ cho cái sản nghiệp tinh thần
của dân tộc mình. Có như vậy, thì cuộc sống của dân tộc Việt nam
chúng ta ở thế kỷ XXI này mới có cơ trở thành phong phú, thấm
đượm “tinh thần dân tộc, nhân bản và
khai phóng” – như các bậc thức giả từ
lâu đã từng kêu gọi vậy./
California, tháng Hai năm 2012
Đoàn Thanh Liêm
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHỤC HỔ |
Thuở
xa xưa lắm rồi tại Ấn Độ, bốn thầy Hindu cùng nhau tiến vào kinh
thành để thi thố tài năng hầu để được vua trọng thưởng. Một thầy
Hindu bảo, “Chúng ta đã học sâu hiểu rộng, với kiến thức này sẽ
có nhiều trọng thưởng, và chúng ta sẽ chia đều phần thưởng cho
nhau.” “Không được” một thầy lên tiếng, “không thể chia đồng đều
được vì chỉ có ba người trong chúng ta có kiến thức và học vị,
còn thầy không có kiến thức khoa bảng không thể nhận phần thưởng
bằng như chúng ta.” Nói xong, cả ba vị có học vị nhìn nhau mĩm
cười, còn vị thứ tư cúi mặt ngẫm nghĩ thưa, “Đúng vậy, quí vị có
kiến thức từ sách vở, nhưng tôi có kiến thức từ những điều bình
thường trong cuộc sống.” Một trong ba vị cãi lại, “Ông nên đi
học thêm, vì chỉ có kiến thức của ba người chúng tôi mới có thể
được nhà vua trọng thưởng.” Vị thứ tư cúi mặt đáp, “Có lẽ ông
nói đúng.”
Họ
vẫn tiếp tục đi về hướng cung điện nhà vua. Khi đi ngang qua một
khu rừng, họ gặp thấy bộ xương khô nằm bên vệ đường. Để chứng tỏ
tài năng của mình, một vị Hindu nói, “Với kiến thức của tôi, tôi
biết cách sắp xếp lại toàn bộ xương khô này trong trật tự của
con vật.” Vị thứ hai đáp, “Với kiến thức của tôi, tôi biết làm
cho con vật này có da thịt để bao phủ bộ xương của nó.” Nghe
vậy, vị thứ ba lên tiếng, “Kiến thức của tôi hơn tất cả quí vị ở
đây. Tôi đã học phép thuật cải tử hoàn sinh; tôi sẽ làm cho con
vật này sống lại. Vị thứ tư cũng góp phần, “Với tôi, tôi không
có tài năng uyên thâm như quí vị, nhưng với kiến thức thông
thường của tôi, tôi biết bộ xương này là bộ xương hổ. Nó sẽ rất
nguy hiểm nếu quí vị làm cho nó sống lại trong nơi rừng vắng
này.” Cả ba vị kia đều đáp trả, “Đồ ngu, hãy coi tài năng của
chúng tôi đây.” Nghe xong, thầy Hindu thứ tư nói, “Nếu quí vị
nhất quyết muốn làm cho con hổ sống lại, tôi sẽ leo lên cây cao
ngồi xem.” Nói xong, ông tìm cây cao leo lên dù phải chấp nhận
sự cười nhạo của ba vị kia.
Quả đúng
như tài năng của mỗi thầy Hindu. Thầy thứ nhất ráp xương lại
ngay ngắn; thầy thứ hai làm cho bộ xương có da thịt đầy đặn; và
thầy thứ ba làm cho con hổ sống lại. Con hổ rống lên một tiếng
thật to, ngay lập tức nó tấn công và ăn thịt cả ba thầy Hindu.
Thầy thứ tư an toàn trên cây cao nhưng lòng đau xót cho các bạn
của mình vì họ quá nông nỗi háu thắng mà mất mạng giữa đường.
* *
*
Chúng ta đã cùng nhau học hỏi những đề tài khác nhau trong mục
Sống Sao Cho Đẹp. Hôm nay mục Sống Sao Cho Đẹp
cùng mời bạn học hỏi về chủ đề khiêm tốn. Với hy vọng rằng, suy
niệm và học hỏi đức tính khiêm tốn sẽ giúp mỗi chúng ta thêm
trưởng thành hơn, khôn ngoan hơn, và bình an trong những ngày
sắp tới của đời mình.
Theo tự điển
Merriam-Webster, từ “khiêm tốn” trong tiếng Anh (humility) được
bắt nguồn từ tiếng Latin, “humilis” nghĩa là “thấp;” “humus”
nghĩa là “đất.” Như thế, khiêm tốn (humility) tức là nhận ra
tình trạng thật của mình – vốn dĩ là đất bụi.
Trong trang đầu
sách Kinh Thánh cũng diễn đạt ý tương tự, tổ tông của loài người
có tên gọi Adam. Danh từ “Adam” được xuất phát từ danh từ
“adamah” (ădāmâ) (Gn 2:7; 3:19), theo tiếng Hebrew, nghĩa
là “đất.” Nói tóm lại, con người dù có thông minh tài trí tới
đâu, vốn dĩ mình cũng chỉ là cát bụi. Thêm nữa, theo triết lý
nhà Phật, “Khiêm tốn là hạ mình xuống…Khiêm tốn là hạnh người tu
phải học suốt đời.”
Theo
ông William Temple, “Khiêm tốn không có
nghĩa là cho mình thấp hèn hơn người khác, và cũng không có
nghĩa là hạ thấp những tài năng của chính mình. Nhưng khiêm tốn
là sống tự do như chính mình là và cũng nghĩ về người khác với
sự tự do mình đang hưởng vậy.” [3]
Thực vậy, chúng ta
được mời gọi sống khiêm tốn, không phải vì nhờ danh từ khiêm tốn
mà làm cho chúng ta thêm hay, thêm đẹp. Nhưng thực ra khi chúng
ta tập và thực hành sống khiêm tốn, ta tìm lại chính giá trị
thật của con người; chính khi tìm ra giá trị thật của con người
mình, con người ta trở nên đẹp, nên hay, và nên người hơn. Đúng
như ông William Temple định nghĩa về đức khiêm tốn, khiêm tốn
không có chuẩn để so sánh. Khiêm tốn không có nghĩa là tôi phải
khiêm tốn “hơn” người kia, hay ngược lại người kia phải khiêm
tốn “hơn-thua” ai đó. Nếu còn dựa theo chuẩn “hơn – thua” để học
hỏi về khiêm tốn, thì chừng đó ta vẫn chưa thực sự hiểu về khiêm
tốn. Khiêm tốn mời gọi ta nhận thức đúng về chính ta – ta như ta
là. Câu hỏi được đặt ra: ta là ai mà nói như ta là? Khởi đầu của
sự khiêm tốn chính là đặt câu hỏi về cội nguồn của chính mình.
Càng đi ngược lại và sâu hơn về con người mình, mình sẽ dần dần
sẽ nhận ra mình là ai – mình thực sự là ai!
Câu chuyện Phục
hổ cho ta thấy, nếu mình biết mình là ai, khả năng tới đâu,
giới hạn những gì, ta sẽ ít “hơn thua” với nhau hơn, ta sẽ khôn
ngoan hơn, và ta sẽ tránh những phiền phức không đáng xảy đến
cho ta hơn.
Mời bạn cùng tôi
tập sống khiêm tốn bằng việc nhìn lại cội nguồn của mình ngay
hôm nay nhé!
Br. Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO
HỘI (6)
|
NGUYỄN HỌC TẬP
1 - Những hiểu biết mới của Công Đồng
Vatican II.
Những hiểu biết mới về
tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II là những lý chứng
quyết định về phương diện thần học cho phương hướng mới Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội, trước những biến chuyển sâu đậm của xã hội
đang đòi hỏi.
Công Đồng Vatican II đạt đến những hiểu biết thần học mới về vai
trò của người tín hữu giáo dân và đặc tính tự lập của các thực
tại trần thế, mà trong Thông Điệp Rerum Novarum ( 1891)
chỉ mới được thoáng thấy như là mầm mống và dần dần mỗi ngày
càng tăng trưởng lên qua các giai đoạn " Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội ".
Thật vậy Công Đồng
Vatican II đã vượt qua quan niệm " Giáo Hội phẩm trật " (
Église cléricale), trong đó người tín hữu giáo dân không có
bất cứ một quyền gì,
- ngoài ra "
quyền phải để cho mình
được dẫn dắt và dễ dạy như đoàn chiên, đi theo các mục tử của
mình " ( ĐTC Pio X, Vehementer (11.02.1906), in Tutte le
encicliche dei sommi Pontefici ( cit., 561).
Tức là người tín hữu
giáo dân phải thụ động tuân theo các chỉ thị của giáo quyền ngay
cả trong lãnh vực xã hội, bởi lẽ họ được coi như là
- "
những thành phần trợ lực phụ giúp
của Giáo Hội " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo anno ( 15.05.1931), n.
152, in CERAS, 113).
Sau khi xác nhận trách
nhiệm và đặc tính tự lập của người tín hữu giáo dân trong cuộc
sống chuyên cần dấn thân giữa trần thế, trong Thông Điệp
Mater et magistra (1961), ĐTC Gioan XXIII đề cập đến sự kiện
" phải bước đến hành động ", là
- "
bổn phận nhứt là của các con cái
giáo dân ( ...) bởi đặc tính cuộc sống của họ " ( ĐTC Gioan
XXIII, Maer et magistra (15.05.1961), n. 240, in CERAS, 273).
Bởi đó, ĐTC tiếp theo,
bởi đó người tín hữu giáo dân không những chỉ phải là những
người có thẩm quyền khả năng ( competenti ) trong nghề
nghiệp của mình, nhưng
- " họ còn phải
tác động trong các lãnh vực trần thế theo lề luật liên hệ đến
bản tính nội tại của các sự việc đó, để đạt đến một cách hữu
hiệu mục đích nhằm đến " ( id., n.241, in CERAS, 273), trong
khi hành động hợp với lương tâm được giáo dục đúng đắn và với
Giáo Huấn của Giáo Hội.
Bởi đó, người tín hữu
giáo dân, đối với các lãnh vực trần thế, phải tôn trọng đặc tính
trần thế của các sự viêc mà trong đó mình phải tác động.
Ba năm sau, trong
Thông Điệp Pacem in terris ( 1963), ĐTC Gioan XXIII xác
nhận tính cách tự lập chính đáng của người tín hữu giáo dân
trong các chuyên cần động tác xã hội, đến độ cần phải ủy thác
cho phán đoán của lương tâm họ về việc nên hay không nên cộng
tác với những ai không tin hay ai có hay theo khuynh hường quan
niệm sai lạc về lịch sử:
- " Quyết định đó
- Thông Điệp Pacem in terris nhấn mạnh - trưóc tiên thuộc
về thẩm quyền của những ai sống và hành động trong những lãnh
vực cá biệt của cuộc sống chung, trong đó phát sinh ra những vấn
đề ", dĩ nhiên là luôn luôn phải trung thành và ngoan ngoản vâng
theo lời huấn dạy của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan XXIII, Pacem in
terris ( 11.04.1963), n. 160, in CERAS, 328).
Đến đây thì ĐTC Gioan
XXIII thiết định một nguyên tắc quan trọng về việc " đối
thoại " phổ quát mà Giáo Hội và mọi Ki Tô hữu được mời gọi
hãy thực hiện
- " Chúng ta đừng nên
lầm lẫn giữa sự sai lạc và người lầm lỗi, ngay cả khi có liên
quan đến việc sai lạc hay sự hiểu biết không đầy đủ về chân lý
trong lãnh vực luân lý và tôn giáo ( ...) nói đùng hơn, những
cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau, trong những lãnh vực trần thế
khác nhau, giữa người tín hữu và người không tin hay người tin
một cách không đúng đắn, bởi vì họ tuân theo những điều sai
trái, những cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau đó có thể là những cơ
hội để khám phá ra đâu là chân lý và làm vinh danh cho chân lý "
( id., n 158, in CERAS, 327).
Đức Thánh Cha kế tiếp
sẽ làm cho các lời dẫn nhập thần học và mục vụ nầy của
ĐTC Gioan XXIII trở thành nền tảng của sự đối thoại giữa
Giáo Hội và thế giới đương thời.
ĐTC Gioan XXIII mở
đường, ĐTC Phaolồ VI dành Thông Điệp đầu tiên của triều
đại ngài, Ecclesiam suam (1964), cho việc đối thoại.
Công Đồng Vatican II xác
nhận một cách long trọng việc lựa chọn đó trong Hiến Chế Gaudium
et spes ( 1965).
Và ĐTC Phaolồ VI tuyên
bố:
- "
Giáo Hôi phải gặp gỡ đối thoại với
thế giới, mà trong đó mình đang sống. Giáo Hội nói lên tiếng nói
của mình, Giáo Hội loan truyền sứ điệp của mình, Giáo Hội trở
thành chủ thể đối thoại " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam (
06.08.1962), in EV 11/192).
Và Công Đồng Vatican II
lập lại như là tiếng dội, những gì ĐTC Phaolồ VI đã xác nhận
trong Thông Điệp:
- "
Giáo Hội không thể nào chứng minh
hùng hồn hơn được bằng tình liên đới, lòng kính trọng và tình
yêu thương đối với cả gia đình nhân loại, mà trong đó Giáo Hội
được hội nhập, hơn là thiết lập nên một sự đối thoại với gia
đình nhân loại đó " ( Gaudium et spes, n. 3, in EV 1/1322).
ĐTC Phaolồ VI còn nhấn
mạnh thêm:
- "
Giáo Hội phải sẵn sàng để trợ lực
sự đối thoại với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, trong
cũng như ngoài lãnh vực của Giáo Hội. Không ai là người xa lạ
đối với tình yêu thương của Giáo Hội. Không ai là người vô
thưởng vô phạt đối với sứ mạng của Giáo Hội. Không ai là kẻ thù
của Giáo Hội, mà không phải chính họ muốn như vậy ( ...) Nhu vậy
chính con người đang tìm hiểu về chính mình và thế giới, chúng
ta có thể thông giao với họ " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam (
06.08.1962), in EV II/200).
Đó chính là tư tưởng tạo
nên tiếng dội có uy tín trong Công Đồng Vatican II:
-" Đối với chúng
tôi, lòng ao ước thiết lập nên sự đối thoại, được lòng yêu mến
chân lý gợi ý ( ...) không loại trừ bất cứ một ai; cả đối với
những ai tôn trọng những giá trị cao cả của con người, mặc dầu
họ vẫn chưa nhận thức được những giá trị đó, ngay cả đối với
những ai chống lại Giáo Hội và bách hại Giáo Hội với nhiều
phương thức khác nhau " ( Gaudium et spes, n. 92, in EV I/1642).
ĐTC Phaolồ VI không ngần
ngại nhận biết rằng trong thế giới hiện đại có những giá trị
chính đáng, phổ quát, không xa lạ gì đối với Phúc Âm
- " Chúng ta cùng
có chung với cả nhân loại thiên nhiên, nghĩa là đời sống với tất
cả các ơn sủng của nó, với tất cả những ván đề của nó " ( ĐTC
Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV II/201).
Tư tưởng vừa kể cũng tạo
nên tiếng dội trong Công Đồng Vatican II:
- " Giáo Hội không
khước từ những gì mình đã nhận được từ lịch sử và tiến bộ của
nhân loại, Giáo Hội có thể thu nhận những điều đó làm kho tàng
gia sản của mình, và Giáo Hội thực hiện như vậy. Giáo Hội thu
nhận làm kho tàng gia sản của mình sự phát triển đời sống xã
hội. Hành xử như vậy, không phải vì Giáo Hội tự bản thể của mình
thiếu thốn đi một cái gì đó không được Chúa Ki tô ban cho, nhưng
là thu nhận để hiểu biết được sâu đậm hơn, để diễn giải một cách
sâu đậm hơn những gì được Chúa cho tự bản thể và áp dụng có hiệu
quả hơn cho các thời đại chúng ta " ( Gaudium et spes, n. 44, in
EV I/1462).
2 - Ý nghĩa mới về Xã Hội của Giáo Hội.
Qua những gì chúng ta đề
cập ở trên, chúng ta có thể hiểu được phương thức mới của Giáo
Hội được áp dụng cho Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
Mặc dầu ĐTC Gioan XXIII
vẫn còn dùng cách phát biểu " huấn dụ xã hội của Giáo Hội
", nhưng không còn cùng một ý nghĩa như những vị tiền nhiệm
ngài.
Thông Điệp Mater et
magistra
rõ ràng đưa ra một thể
thức khác để đề cập đến " vấn đề xã hội ", bởi lẽ vấn đề
đã thay đổi sâu đậm.
Tiến trình thành hình
những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phát sinh từ phương
thức diễn dịch ( deduttivo ) nữa, tức là dựa trên những
nguyên tắc thượng đẳng về luật tự nhiên và mạc khải, qua phương
thức diễn dịch để rút ra một khuôn mẫu " xã hội Ki tô giáo
", như là " con đường thứ ba " thay thể cho khuôn mẫu
các ý thức hệ khác.
Đức Thánh Cha Gioan
XXIII bắt đầu dùng phương thức quy nạp ( induttivo ),
trong đó tiến trình cấu trúc huấn dụ gồm ba giai đoạn:
- khám phá ra những
hoàn cảnh, hiện trạng mới,
- xác định giá trị
những biến cố đó trong ánh sáng các nguyên tắc Phúc Âm và theo
những định hướng của giáo quyền,
- tìm kiếm và xác
nhận những gì có thể và phải làm.
Nói một cách ngắn gọn,
đó là cần phải :
- " nhận thức,
phán đoán và hành động " ( ĐTC Gioan XXIII, Mater et magistra (
15.05.1961), n. 236, in CERAS, 272).
Hai năm sau, Thông
Điệp Pacem in terris là văn kiện đầu tiên về xã hội áp dụng
phương thức mới, phương thức quy nạp.
Khởi điểm của
Thông Điệp không được cấu tạo nên bằng những nguyên tắc lý
thuyết về quyền tự nhiên và mạc khải, mà được khởi điểm từ những
gì Giáo Hội nhận thấy từ "
các dấu chỉ thời đại " ( signa temporis).
Dĩ nhiên lời Chúa và các
lời huấn dạy của Giáo Hội vẫn luôn luôn là định điểm quy chiếu
đê " giải thích " các thách thức cho đức tin, được gây ra
bởi những thay đổi xã hội và để soi sáng cho các việc lựa chọn
chính đáng cần phải thực hiện.
Như vậy tiến trình để
kiến tạo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phải theo phương
thức diễn dịch nữa, mà là áp dụng tiến trình quy nạp:
nhìn thấy, phán đoán và hành động.
Phương thức quy nạp vừa
kể cũng được Công Đồng Vatican II áp dụng trong lãnh vực xã hội,
trong tiến trình soạn thảo Hiến Chương Mục Vụ Gaudium et spes
( 1965), và cũng được ĐTC Phaolồ VI dùng đến trong
Thông Điệp Populorum progressio ( 1967).
Một vài năm sau đó,
trong Thông Điệp Octogesima adveniens ( 1971), được viết
lên nhân dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp xã hội đầu tiên Rerum
novarum ( 1891), ĐTC Phaolồ VI quy định một cách rõ ràng
phương thức quy nạp trong lãnh vực huấn dạy về vấn đề xã hội của
Giáo Hội, sau Công Đồng Vatican II:
- " Các cộng đồng
Ki Tô giáo có bổn phận
* phân tích
một cách khách quan hoàn cảnh xứ sở của họ,
* làm sáng tỏ
các hoàn cảnh đó trong ánh sáng bất di dịch của Phúc Âm, múc lấy
các nguyên tắc suy tư , tiêu chuẩn để phán đoán và định hướng để
hành động trong lời huấn dạy xã hội của Giáo Hội ( ...)
* xác định,
với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, cùng thông hiệp với các Giám
Mục đặc trách, và trong việc đối thoại với các anh em Ki tô hữu
khác và với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, đâu là những
điều phải lựa chọn và chuyên cần dấn thân để tác động chuyển hoá
xã hội, chính trị và kinh tế " ( ĐTC Phaolồ VI, Octogesima
adveniens ( 14.05.1971), n.4, in EV IV/ 717 ).
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolồ II cũng dùng từ ngữ " huấn dụ xã hội của Giáo Hội
", nhưng không ai có thể nghi ngờ về ý nghĩa mà ngài hiểu đối
với cách phát biểu đó, hoàn toàn tiếp nối với định nghĩa được
ĐTC Phaolồ VI nói lên, mà chúng ta vừa trích dẫn.
Thật vậy, trong Thông
Điệp Sollecitudo rei socialis ( 1987), ĐTC Gioan Phaolồ II
xác nhận
- "
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội "
không phải là " con đường thứ ba" giữa tư bản tự do và tập thể
mác xít và cũng không thể là phương thức để thay thế cho những
giải pháp ít cực đoan hơn đồi nghịch nhau. Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội là một phương thức tự lập riêng biệt " ( ĐTC Gioan
Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 41, in EV
X/ 2669).
Như vậy định nghĩa của
ngài về Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng là huấn dụ theo phương
thức quy nạp, đã được ĐTC Gioan XXIII nêu lên trước đó, được
Công đồng Vatican II áp dụng và được ĐTC Phaolồ VI định nghĩa rõ
như chúng ta vừa thấy ở trên.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội, Thông Điệp Sollecitudo rei socialis nói tiếp, gồm
trước tiên là khám phá ra " các dấu chỉ thời đại ", hay "
nhận thức được " nói như ĐTC Gioan XXIII. Đó là
- " diễn tả ra một
cách cẩn thận các kết quả một việc suy tư có cân nhắc về các
thực trạng phức tạp cuộc sống con người, trong xã hội và trong
bối cảnh quốc tế, dưới ánh sáng đức tin và truyền thống Giáo Hội
";
- kế đến, Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội gồm ở việc " phán đoán ".
Thật vậy, " mục đích
chính của thái độ chuẩn định phán đoán đó, đó là giải thích các
thực tại vừa kể, duyệt xét xem những thực tại đó thích hợp hay
không thích hợp với các đường hướng huấn dạy của Phúc Âm về con
người và về ơn gọi trần thế và thiêng liêng của con người ";
-
sau cùng là " hành
động ". Thật vậy, quan sát để hiểu biết các " dấu chỉ
thời đại " dưới ánh sáng Phúc Âm và lời huấn dạy của Giáo
Hội, để " định hướng tác động " các công đồng Ki Tô hữu.
Điều đó được ĐTC Gioan Phaolồ II giải thích, bởi vì chúng ta có
thể nói rằng
- " Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội thuộc về (...) không phải lãnh vực ý thức hệ, mà là
thuộc lãnh vực thần học và nhứt là thần học luân lý " ( id.).
Như vậy, chúng ta hiểu
được đã đến lúc đề cập đến một loại Huấn Dụ Xã Hội mới của Giáo
Hội,
- sau khi các ý thức
hệ đã sụp đổ,
- cũng như với hiện
trạng toàn cầu hoá đang tiến trình trong thời đại chúng ta,
- và với những hiểu
biết quan trọng mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican
II.
Như vậy, trong những
thập niên sau cùng của thế kỷ chúng ta, thời kỳ đối thoại giữa
Giáo Hội và thế giới đương thời đã bắt đầu.
Thời điểm tách rời, đóng
kín, gảy đổ, gián đoạn, " dứt phép thông công " đã chấm
dứt, cũng như ký ức về một " Ki Tô giáo bị mất đi " cũng
không còn.
Từ nay Giáo Hội đang
hướng về sứ mạng Phúc Âm hoá ngàn năm thứ ba .
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THAM GIA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC LÀ CÁCH DUY TRÌ, NUÔI DƯỠNG VÀ
CANH TÂN VIỆC TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG SÁU
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC
VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI
LINH MỤC
(kết
thúc tác phẩm)
G. THAM GIA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC LÀ
CÁCH DUY TRÌ, NUÔI DƯỠNG VÀ CANH TÂN VIỆC TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ
G.1 Yêu sách của Huấn quyền về thường huấn linh mục
Các thẩm quyền Giáo Hội rất đặt nặng việc đào
tạo và tự đào tạo thường xuyên này, chẳng hạn:
-
Sứ Vụ và Đời sống Linh Mục
dành trọn chương III, số 69-92, để nói về việc đào tạo
thường xuyên này như “một bổn phận và quyền lợi chính
đáng của linh mục… và của Hội Thánh”, phù hợp với “mục
đích cơ bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng,”
mà “không ai có thể thay thế được linh mục trong việc
canh chừng chính mình” (x. 1 Tm 4, 16).
-
Trong khi đó Tông Huấn Pastores Dabo
Vobis cũng dành trọn chương VI, số 70-82, để nói về việc
đào tạo thường xuyên này của linh mục, như “sự tiếp tục
tự nhiên và tuyệt đối cần thiết của tiến trình xây dựng nhân
cách của linh mục, vốn đã được khởi sự và phát triển từ
trong chủng viện.”
-
Còn Optatam Totius khuyến cáo rằng “việc
đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện
đại, cần phải được tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã
hoàn tất chương trình đào tạo trong chủng viện.”
-
Ngoài ra, Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis số 100-101 mô tả việc đào tạo
hậu chủng viện, “cách riêng trong những năm đầu tiên sau
khi chịu chức… để các linh mục mới ra trường có thể được
trang bị tốt hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện
các bổn phận của người tông đồ.
-
Và Tông Huấn Ecclesia in Asia mở ra
một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Đức Kitô,
các Giám mục và linh mục cần một sự đào tạo chắc chắn và
thường xuyên, có thể cung ứng những cơ hội khả dĩ cho một
cuộc canh tân thiêng liêng và mục vụ”
-
Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực hiện
lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề
“đào tạo tiếp tục cho các linh mục Á Châu.”
-
Chỉ Nam Cho Thừa tác vụ và Đời sống linh
mục 1994 của Bộ Giáo sĩ dành cả
chương III để bàn về việc huấn luyện thường xuyên các linh
mục, trong mọi phương diện tuổi tác, khả năng, hoàn cảnh
sống và phận vụ mục vụ.
G.2 Những năm đầu đời linh mục
Đây là giai đoạn cho người mới chịu chức linh
mục dần dần đi vào đời sống linh mục thực sự, hay nói
cách khác là sống linh mục: Càng sống đời linh mục
càng trở nên linh mục hơn. Việc chịu chức linh mục khép lại
giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo ở chủng viện, nhưng lại mở
ra một giai đoạn mới, giai đoạn đào tạo và tự đào tạo thường
xuyên kéo dài suốt đời của linh mục: “Việc huấn luyện không
bao giờ được xem như chấm dứt, cả về phía Giáo Hội trao ban lẫn
về phía thừa tác viên nhận lãnh.”
Các linh mục trẻ tự trắc nghiệm mình giữa cái học có tính cách
lý thuyết hàn lâm và sự thực hành trong các thực tại của đời
sống sứ vụ của họ.
Giai đoạn đào tạo và tự đào tạo này nhằm mục
đích giúp các linh mục trẻ chu toàn cách trung thành và vui tươi
sứ vụ của họ trong những hoàn cảnh khác nhau, chấp nhận và vượt
thắng những chiến đấu và cám dỗ cả bên trong lẫn bên ngoài.
Những mối tương quan tốt lành, hài hoà, quân bình và trưởng
thành được điều chỉnh và thăng tiến mỗi ngày, với chính mình,
với thiên nhiên, với tha nhân, nhất là với những người khác
phái, là những phương tiện nhân loại. Tương quan thân mật với
Thiên Chúa, sự trung thành với cam kết của mình khi chịu chức,
với đời sống cầu nguyện và với sứ vụ, lòng tôn sùng kiên trì và
nhiệt thành với Chúa Giêsu Thánh Thể, Thánh giá và Mẹ Maria là
những phương tiện siêu nhiên. Những phương tiện tự nhiên và siêu
nhiên này sẽ thực sự bảo đảm cho sự thành công và lòng trung
thành của linh mục.
Các linh mục trẻ sẽ thi hành sứ vụ trong một thế
giới đang thay đổi của nền văn minh khoa học kỹ thuật, của chủ
nghĩa tục hoá và hưởng thụ, của thần học giải phóng, của việc đề
cao phẩm giá phụ nữ. Vì thế, việc đào tạo và tự đào tạo thường
xuyên phải được nhấn mạnh và thực hành nhiều hơn; nó sẽ giúp họ
được trưởng thành trong suy nghĩ, trong việc tự mình quyết định
và hành động, cũng như trong mọi lãnh vực đời sống. Họ cũng phải
làm việc trong sự hợp tác với mọi người trong Giáo Hội cũng như
ngoài xã hội. Vì thế, họ cần được đào tạo thích hợp và phải tự
mình điều chỉnh và thăng tiến các mối tương quan hài hoà, quân
bình và trưởng thành với Thiên Chúa, với chính mình, với thiên
nhiên và với người khác, nam cũng như nữ, giáo dân hay tu sĩ.
Do đó, “việc huấn luyện này phải bao gồm và
hòa hợp mọi khía cạnh, nghĩa là nó phải nhằm giúp linh mục phát
triển nhân cách con người đã chín mùi trong tinh thần phục vụ kẻ
khác, dầu đang nắm chức vụ gì; giúp linh mục được đào tạo về mặt
trí thức, cả trong các khoa học tự nhiên lẫn trong các khoa học
nhân văn, trong mức độ liên quan đến thừa tác vụ của mình, ngõ
hầu linh mục chu toàn phận vụ làm chứng đức tin một cách hữu
hiệu hơn; giúp linh mục có được một đời sống thiêng liêng sâu
xa, được nuôi dưỡng bằng tình thân mật với Đức Giêsu Kitô và
bằng tình yêu Giáo Hội; giúp linh mục chu toàn thừa tác vụ mục
vụ với nhiệt tình và nhiệt tâm.”
Các đề tài bàn luận như Thần học cơ bản, Tín lý,
Luân lý, Thánh Kinh, Phụng vụ, Giáo luật, Đại kết... không được
mang tính tranh luận, thuần túy lý thuyết hoặc thông tin, nhưng
phải khuyến khích một sự huấn luyện đích thực, nghĩa là khuyến
khích cầu nguyện, hiệp thông và làm việc mục vụ... liệu sao cho
các văn kiện của huấn quyền được đào sâu chung với nhau dưới sự
hướng dẫn của một nhân vật có thẩm quyền, để đưa tới sự thống
nhất giải thích và thống nhất chương trình hành động mục vụ
trong giáo phận.
G.3 Những năm về sau cao tuổi cuộc đời linh mục
Các linh mục sau nhiều năm thi hành thừa tác vụ
cần được khuyến khích, đề cao giá trị vai trò và đào sâu hơn
việc huấn luyện mình trong mọi chiều kích để duyệt xét lại chính
mình và công việc mình làm, hầu làm sống dậy các động lực của
thừa tác vụ thánh... Các vị nầy cần đến sự hiệp thông linh mục
và tình bạn của Giám mục để lướt thắng những kinh nghiệm mệt
mỏi, thất vọng, cô đơn... hầu tìm lại được những nguồn mạch sâu
thẳm của linh đạo linh mục.
Các linh mục cao niên tìm “xác nhận lại một
cách thư thái và ôn hòa vai trò mà các ngài còn được mời gọi nắm
giữ trong linh mục đoàn... để tự thấy mình còn hữu dụng như làm
cha giải tội kinh nghiệm, linh hướng, chia sẻ kinh nghiệm, khích
lệ, đón tiếp, lắng nghe và trấn tĩnh anh em đồng sự.”
Các linh mục ở vào một hoàn cảnh suy yếu thể lý
hay mệt mỏi tinh thần, cô đơn, thất vọng cần được khích lệ tiếp
tục phục vụ Giáo Hội một cách bình thản và can trường, nêu chứng
từ ghi dấu thánh giá, cam chịu trong hy vọng và niềm vui Vượt
Qua (x. Col 1,24).
Trách nhiệm của Giám mục và linh mục đoàn là phải tránh sự cô
đơn nảy sinh do sự chểnh mảng tình hiệp thông linh mục đối với
các anh em đó.
G.4 Hoạt động tương tác giữa các thành phần liên
hệ
Trong lãnh vực được đào tạo và tự đào tạo thường
xuyên này, chúng ta có thể mở rộng có hiệu quả hơn nữa việc
tương trợ tinh thần, thăm viếng động viên, góp ý chỉ bảo và đào
tạo, trong đó có các nguồn lực kiến hiệu này:
-
Các cha giáo Đại Chủng Viện được phân phối
đến thăm các linh mục cựu sinh viên tại môi trường mục vụ để
nâng đỡ, thúc đẩy, phối hợp và điều chỉnh cái học lý thuyết
trong chủng viện và cái thực tiễn trong sứ vụ mục vụ giáo
xứ;
-
Các linh mục cựu sinh viên lớn tuổi và hưu
trí có rất nhiều kinh nghiệm mục vụ giáo xứ cũng như những
từng trải trường đời chia sẻ, hướng dẫn, cảnh báo, đào tạo
và nâng đỡ đàn em, không những khi đàn em tới chỗ mình, mà
cả khi các ngài về thăm chủng viện hoặc Bề trên chủng viện
mời đến chia sẻ với các em chủng sinh những kinh nghiệm thực
tiễn tích cực lẫn tiêu cực. Chính những kinh nghiệm thành
công nhờ đâu và những thất bại do đâu và tại sao đó là những
bài học qúy báu trong công cuộc đào tạo và tự đào tạo của
đàn em;
-
Chính những hoạt động tình nghĩa này của các
cha giáo và các cha đàn anh cựu sinh viên xuất thân cùng
chủng viện đã để lại nhiều dấu ấn và tình cảm sâu xa không
những nơi các đàn em, mà còn nơi lòng của một số đông các
giáo phẩm và giáo sĩ khác.
-
Các thành viên giáo dân trình độ và trưởng
thành vốn là nhưng cựu chủng sinh sẽ thẳng thắn mạnh dạn nói
lên những điều tai nghe mắt thấy và lòng cảm nhận, những
kiểm chứng dư luận chung quanh để giúp các thành viên linh
mục phát huy điều tốt, chỉnh đốn điều chưa tốt; cũng như
những góp ý tích cực và các hoạt động đa dạng của họ.
-
Không phải bất cứ ai vào Đại chủng viện đều
nhất thiết phải làm linh mục, vì Chúa gọi nhiều nhưng chọn
ít. Điều quan trọng là cần tôn trọng và coi những người ra
đi là không thích hợp với chức linh mục vì Chúa có chương
trình khác của Ngài cho họ, chứ không phải bị đuổi, bị loại
vì lỗi lầm xấu xa nào đó làm tổn thương tình cảm và danh dự
của họ. Chính các cựu chủng sinh này là một vốn rất quí của
Giáo Hội trong sứ mệnh tông đồ giáo dân. Khi cầu nguyện cho
nhau và gặp gỡ sinh hoạt, chia sẻ cùng nhau các biến cố vui
buồn của nhau: các gia đình giáo dân cựu chủng sinh này giúp
nhau trong công việc làm ăn và sống Đạo, tạo cơ hội cho con
cái quen biết nhau, cổ võ ơn gọi tu trì và ơn gọi hôn nhân,
làm tiếp nối và mở rộng tinh thần gia đình Chủng viện và
Giáo phận, có thể hỗ trợ tài chánh cho cả việc đào tạo chủng
sinh và các công trình khác của Giáo Hội: “Dập dìu kẻ
trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung.”
-
Các chủng sinh trong các kỳ nghỉ dài đến ở
với các đàn anh linh mục để học hỏi kinh nghiệm mục vụ và
phục vụ các ngài, đồng thời được các ngài bảo ban dạy dỗ và
giúp đỡ, vừa tinh thần vừa vật chất cần thiết trong thời
gian tu học (tôi nhớ lại kinh nghiệm này với lòng biết ơn
sâu xa các cha đàn anh ngày tôi còn là chủng sinh).
Như vậy, chúng ta có thể nói vượt lên khủng
hoảng và tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục là một bạo
lực ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục quá khứ trong con
người mình, để cuối cùng được sinh ra trong con người tu: “Anh
em hãy mặc lấy con người mới đã được Đức Kitô Phục Sinh biến đổi”
- “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã
qua đi và cái mới đã có đây rồi”
Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô
là chủ đạo: thay đổi con tim, thay đổi tâm thức, thay đổi lối
sống và cuộc sống: “từ đây chúng tôi không còn biết một ai
theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức
Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn
biết Người như vậy nữa.”
Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và
mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng
những thay đổi quyết định. Và đó là tiến trình lâu dài của một
công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân
loại theo hướng biện chứng pháp. Biện chứng pháp dẫn ta từ đối
chọi chính đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Chúng ta
sẽ không dừng lại ở hợp đề ấy, mà biến nó trở thành một chính đề
mới đòi hỏi một phản đề mới tương ứng; sự cọ xát này sẽ phát
sinh một hợp đề mới. Từ hợp đề mới này, chúng ta lại có một biện
chứng mới, và cứ như thế chúng ta sẽ có tiến bộ và trở thành mới
luôn. Cũng thế, mỗi một đổ vỡ hay khủng hoảng lại mở ra một khởi
đầu mới: bắt đầu, lại bắt đầu...
Muốn cho việc tái định hướng đời sống và sứ vụ
này thành công, chúng ta cần kết hiệp mật thiết với Chúa và luôn
khẩn cầu Chúa ở lại với chúng ta, ngõ hầu được như thánh Phaolô
khẳng định: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi nữa, mà là
Đức Kitô sống trong tôi”
Chúng ta phải nhìn vượt qua bên kia, phía sau
những sai lầm thiếu sót, để thấy được lòng nhân hậu thương xót
cũng như kế hoạch cứu độ của Chúa, Đấng có thể biến cải điều xấu
thành điều tốt, có thể rút ra cái tốt từ cái xấu: mỗi vị
thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai,
như ĐGH Alexander nói: “Bản chất con người là lầm lỗi và
bản chất Thiên Chúa là tha thứ.” Tận dụng ơn Chúa để vượt
lên khủng hoảng, tái định hướng lại đời sống và sứ vụ linh mục
của mình, tin tưởng rằng nhờ ơn thanh tẩy của Chúa, mình lại
kiên trì làm chứng tá đức tin và đức ái mạnh mẽ hơn nữa trước
mặt mọi người:
Đây linh mục, những con người thánh hiến
Suốt cuộc đời làm chủ tế trung kiên
Đem tình thương người mục tử nhân hiền
Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.
Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt
Lãnh nhận rồi phân phát cả cho dân
Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần
Chờ đợi chủ tay cầm đèn sáng rực.
Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức
Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya
Miễn làm sao kịp khi Chủ trở về
Mở ngay cửa nghêng đón Người vội vã.
Vinh tụng Chúa Cha vua trời cao cả
Cùng Chúa Con đấng chuộc tội cứu đời
Và Thánh Thần lửa yêu mến sáng soi
Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi.
Thánh Thi Kinh Sáng
Thánh Mục Tử.
Chúng ta hạnh phúc cám ơn Chúa vì thời đại chúng
ta đang sống đã có một năm thánh đặc biệt, năm cầu nguyện của
linh mục, cầu nguyện với linh mục và cầu nguyện cho linh mục. Là
linh mục hiện thể hay năng thể, chúng ta đều luôn biết ơn Chúa,
biết ơn Giáo Hội, biết ơn các Bề Trên trong Giáo Hội về những
năm tháng dài chúng ta được đào tạo, về hồng ân thiên chức linh
mục, về tình huynh đệ bí tích linh mục, về đời sống và sứ vụ
linh mục mà chúng ta đã, đang và sẽ nhận lãnh, và dù giữa bao
nhiêu thăng trầm khó khăn, yếu đuối của phận người, chúng ta sẽ
luôn cố gắng sống tốt, nghĩa là chúng ta nhìn nhận Giáo Hội đã
làm cho chúng ta quá nhiều, nếu không muốn nói là tất cả, và
chúng ta có bổn phận đền đáp bằng chứng tá đời sống và sứ vụ
linh mục của chúng ta để nhiều người được cứu độ và Danh Chúa
được cả sáng hơn.
Tạ ơn và kính dâng Đức Mẹ Lavang
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁI TIM VÀ NHIẾP HỘ TUYẾN
|
“Một Triệu
Trái Tim”
Mỗi
6 giây đồng hồ, một người ở đâu đó trên trái đất trút hơi thở
cuối cùng vì Đột quỵ. Trong khi đó tại Hoa Kỳ cừ 40 giây có một
người bị Đột quỵ và hàng năm có khoảng 137,000 tử vong.
Trung tuần
tháng 10 vừa qua, Cơ quan CDC Hoa Kỳ đã phát động chiến dịch “Million
Hearts” với mục đích phòng ngừa Một Triệu trường hợp
Heart Attack và Stroke trong 5 năm tới. Chiến dịch được sự tiếp
tay của chính quyền liên bang, các tổ chức y tế tư nhân, cộng
đồng và bất vụ lợi và được thực hiện tại cơ sở y tế hoặc cộng
đồng.
Theo CDC và
các nhà chuyên môn bệnh Tim Mạch, phương thức căn bản hiện nay
đã có sẵn và rất công hiệu để cứu sống 1 triệu trái tim
là áp dụng triệt để 4 “Mẫu Tự Vàng” ABCS sau đây:
A
là Aspirin: mọi người có nguy cơ bệnh tim mạch cần uống một viên
nhỏ aspirin viên mỗi ngày, thường thường là 81 mg.
B
là Blood Pressure: Nếu đang bị cao huyết áp cần điều trị để duy
trì huyết áp ở mức độ bình thường, dưới 120/80 mg/Hg
C
là Cholesterol: duy trì cholesterol ở mức độ chấp nhận được là
dưới 200mg/dL.
S
là Smoking: ngưng hoặc không hút thuốc lá.
Aspirin ngăn
cản tiểu cầu kết tụ, giảm nguy cơ đóng máu cục, giảm tắc nghẽn
máu lưu thông và ngừa lưỡng sát thủ Đột quỵ, Cơn Đau Tim.
Cao Huyết áp
và cao Cholesterol là 2 rủi ro hàng đầu đưa tới lưỡng sát thủ
này.
Và nếu đang
hút thuốc là mà ngưng ngay thì rủi ro bị Lưỡng sát thủ viếng
thăm giảm tới 45%.
Theo thống
kê, tại Hoa Kỳ:
- Có tới hơn
50% người đang bị nhồi máu cơ tim, một rủi ro đưa tới Stroke
mà không uống Aspirin để ngừa bệnh.
- Cũng quá
50% người bị cao huyết áp mà không điều trị tới bến;
- Chỉ có 1/3
người cao cholesterol uống thuốc để giảm chất béo; và
- Chỉ có 1/4
tổng số người hút thuốc lá cố gắng ngừng hút.
Do đó, có cả
trên 100 triệu người Mỹ, tức là quá nửa người trưởng thành, đang
mang những rủi ro có thể đưa tới hai bệnh hiểm nghèo stroke và
heart attack. Hậu quả là những bán thân bất toại, những suy tim
tử vong.
Giảm tiêu thụ
muối, không hút thuốc lá, không tiêu thụ chất transfatty acid
trong món ăn chiên rán sẽ giảm cao huyết áp và bệnh tim mạch.
Lưu ý là muối có nhiều trong thực phẩm làm sẵn như khoai chiên
hơn là khi ta tự làm lấy.
Dể dàng quá,
quý vị nhỉ!.
Vậy thì xin
hãy hỏi bác sĩ gia đình để được hướng dẫn thêm về cách dùng
aspirin cho việc phòng ngừa này.
Lại nói về
PSA
PSA ,
viết tắt của Prostate Surface Antigen là xét nghiệm
máu để ước định tình trạng lành hay dữ của Tuyến Tiền Liệt.
Kết quả của
xét nghiệm này đã gây ra nhiều thắc mắc cho bệnh nhân và vẫn
đang là đề tài tranh luận của giới y khoa. Bệnh nhân thắc mắc vì
mỗi bác sĩ giải thích kết quả một cách khác nhau. Và giới y khoa
tranh luận về lợi hại của thử nghiệm.
Được tìm ra
vào cuối thập niên 1980, PSA với mục đích theo dõi bệnh Ung thư
Nhiếp tuyến và đã được áp dụng rộng rãi để sàng lọc bệnh. PSA
cao được coi như là chỉ dấu của ung thư tuyến này, nhưng mức độ
bình thường cũng chưa loại bỏ chẩn đoán ung thư. Mức độ trung
bình là 4ng/mL.
PSA là men
của nhiếp tuyến. Tuy nhiên không phải chỉ ung thư tuyến này mà
PSA mới lên cao. PSA còn tăng trong trường hợp có u lành tính
nhiếp tuyến, viêm nhiếp tuyến, viêm bọng đái, lúc xuất tinh, khi
có chấn thương vùng xương chậu hoặc thương tích gây ra khi khám
hệ tiết niệu với dụng cụ y khoa.
Thường
thường, khi PSA lên cao và khi khám hậu môn thấy nhiếp tuyến
sưng to thì bác sĩ sẽ làm biopsy tức là lấy một chút tế bào của
tuyến, phân tích coi có tế bào ung thư hay không. Biopsy đôi khi
có thể gây ra nhiễm trùng, chẩy máu, đau và nhiều người vẫn lo
sợ bị ung thư, mặc dù kết quả biopsy âm tính.
Tranh luận
của y giới tập trung vào mấy điểm như sau:
- Với sự ra
đời của thử nghiệm PSA, số người được chẩn đoán ung thư nhiếp
tuyến tăng gấp đôi;
- Một tỷ lệ
đáng kể số người được kết luận bị ung thư vì PSA lên cao đều
được chẩn đoán quá mức over diagnosis vì bệnh không gây khó khăn
gì cho bệnh nhân;
- Khi PSA
cao, bệnh nhân sẽ được điều trị với giải phẫu, hóa trị hoặc xạ
trị. Các trị liệu này có thể gây ra các rối loạn đại tiểu tiện,
tình dục ảnh hưởng tới nếp sống của người bệnh.
Hiện nay,
không phải tất cả các nhà chuyên môn đều đồng ý là xét nghiệm
sàng lọc ung thư nhiếp tuyến có thể cứu mạng sống người bệnh.
Đồng thời, cũng chưa có bằng chứng để kết luận là lợi điểm của
sàng lọc có giá trị hơn điểm bất lợi. Lợi là sớm tìm ra ung thư
và điều trị sẽ có nhiều kết quả khi bệnh mới tìm ra. Bất lợi như
khi kết quả PAS cho là có ung thư nhưng thực ra không có, bệnh
nhân sẽ phải làm thêm xét nghiệm khác, khiến họ hoang mang. Rồi
lại còn có thể điều trị mà thực ra không cần thiết hoặc có nhiều
biến chứng như kể trên.
Thành ra, khi
có kết quả PSA không bình thường, bệnh nhân cần tích cực tìm
hiểu thêm ý nghĩa của kết quả, thảo luận kỹ càng với bác sĩ và
bác sĩ cũng cần phải giải thích cho bệnh nhân lợi hại của xét
nghiệm.
Nói chung là
chính y giới không hoàn toàn đồng ý với nhau, cho nên họ “đấm
bùn sang ao”, đùn trách nhiệm cho sự phán xét quyết định của
bệnh nhân. Rõ chán mớ đời.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức
Arlington-Texas
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
ĂN TRỘM LỢN
Sưu tầm của Gã Siêu |
Mỗi khi tết đến, gã lại nghe rộn rã :
- Thị mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
Người Việt Nam ăn tết không thể thiếu món
thịt lợn, nhất là đối với những người sống ở nông thôn ngày xưa.
Lúc bấy giờ, cuộc sống còn nhiều lam lũ và thiếu thốn, có khi cả
năm trời mới được một vài lần ăn thịt mà thôi, thành thử vào dịp
tết, người ta thường “đánh đụng” với nhau, để có tí thịt cho gia
đình. Vì thế, ông thầy bói đoán chẳng sai :
- Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.
Hơn thế nữa, năm nay lại là năm Đinh Hợi,
cầm tinh con lợn, gã cảm thấy cần phải tán hươu tán vượn về con
vật thân thương này. Rất may, trong một dịp về Saigon đi tìm
sách cũ, gã mua được cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm” của
Toan Ánh. Trong đó có một vài mẩu chuyện liên quan tới việc ăn
trộm lợn, gã xin phép được mượn tạm và ghi lại nơi đây, để bàn
dân thiên hạ cùng đọc trong những ngày đầu xuân năm mới.
ĐƠM LỢN
Bắt một con gà giữa đàn gà là một sự khó,
nhưng vẫn không khó bằng bắt một con lợn ở ngay trong chuồng mà
con lợn đó không kêu.
Nghệ thuật bắt lợn tài tình như vậy, trong
làng đào ngạch gọi là…đơm lợn.
Bọn trộm có một phương pháp đơm lợn rất
khéo, ai nghe qua cũng phải chịu là giỏi.
Chắc các bạn thừa biết lợn là một giống vật
khi đòi ăn thì ủn ỉn, nhưng hễ ai hơi động tới người là chúng
kêu lên eng éc, và có khi chỉ trông thấy bóng người, chúng đã
hồng hộc lên rồi. Ấy vậy mà khi chú chích đã muốn bắt lợn, thì
chú bắt cứ ngon ơ, lợn không kêu và chủ nhân cũng không bao giờ
biết được.
Thường thường trộm hay đơm lợn của những
nhà giàu. Chúng nói :
- Nhà nghèo nuôi được con lợn khó khăn,
mình lấy của người ta hóa ra vô nhân đạo hay sao ?
Sự thật không phải là thế ! Mạ không thương
người ốm thì trộm cũng không thương người nghèo. Nhà nghèo họ
giữ lợn cẩn thận hơn, con lợn có khi là một phần gia tài của
họ, cho nên nuôi lợn họ thường làm chuồng ở sát ngay vào cạnh
vách nhà, để vừa tiện trông nom, lại vùa tiện giữ gìn. Còn nhà
giàu họ vệ sinh, họ sạch sẽ nên chuồng lợn thường đặt xa nhà ở :
có khi ở vườn, có khi ở cuối sân.
Cái khó trong việc đơm lợn là làm sao vào
được chuồng lợn. Lợn thấy bóng người thường hồng hộc lên, tuy
chúng không kêu. Chuồng lợn ở sát nhà thì tiếng hồng hộc có thể
đánh thức chủ nhà. Bởi vậy, tâm lý của bọn đơm lợn là tránh
những chuồng lợn ở sát ngay vách nhà ở. Chẳng kiếm ăn đám này
thì kiếm ăn đám khác, lợn ở nhà quê thiếu gì, chẳng anh ăn trộm
nào lại dại đột đi đơm lợn của nhà nghèo, làm chuồng kề ngay bên
nhà.
Dụng cụ dùng để đơm lợn giản dị lắm, có thể
nói là chẳng có gì cả. Chỉ cần một cái giỏ đựng cám, và chỉ có
thế thôi.
Nhự trên đã nói, vào được chuồng lợn khó,
còn đơm lợn dễ. Đã vào được chuồng lợn, tức là đã thoát được sự
đề phòng của chủ nhân và tránh được sự sợ hãi của lợn rồi.
Vì vào được chuồng lợn khó, cho nên bọn đơm
lợn mới tìm những chuồng lợn cách xa nhà ở. Khi vào được chuồng
lợn rồi, muốn tránh sự hồng hộc của lợn, thì phải cho chúng ăn.
Chỉ có cái ăn mới nhử được chúng. Lợn thường khi thấy có người
nhảy vào chuồng, không những hồng hộc mà còn sùng sục chạy
quanh. Phải làm thế nào cho lợn không chạy mới đơm xong lợn chứ.
Phải cho chúng ăn. Ai cũng rõ lợn là giống
tham ăn, thấy ăn là chúng quên cả sợ hãi, quên cả sùng sục chạy
quanh. Người đi đơm lợn cần có giỏ cám chính là bởi vậy.
Vào được chuồng lợn, người đó chìa giỏ cám
cho lợn ăn. Lợn mải ăn không sợ người nữa. Người chỉ việc lùa
cho lợn đút đầu vào chiếc giỏ, chịt chặt giỏ lại. Lợn sẽ không
kêu được tiếng nào vì mồm còn đầy cám. Lợn muốn giẫy dụa thì cái
giỏ đã thít chặt lấy đầu lợn rồi. Thế là anh chàng ăn trộm chỉ
việc cõng lợn đi êm ru không ai biết. Cứ kể cũng không khó khăn
lắm.
Đơm lợn xong, kẻ trộm thường phải tiêu thụ
lợn ngay, mà phải tiêu thụ ở làng khác, vì ở nhà quê trong làng
có người nào thành tích bất hảo, người ta đều biết.. Người mất
lợn ngay ngày hôm sau tới trình làng và xin khám xét ngay nhà
những người đó. Nếu để lợn ở trong nhà, tức là tự tố cáo mình
vậy.
Cũng có những con lợn đơm bị đem đi làm
thịt ngay, nhưng cũng có con tiêu thụ chưa kịp, được gửi gấm ở
một nơi. Đã có những chủ lợn, khi mất lợn không đi trình báo gì,
mà chỉ đi tìm mấy tay tổ đơm lợn để xin chuộc lại.
Hành động như vậy có nhiều kết qủa hơn, vì
số tiền chuộc lợn chẳng đáng bao nhiêu, chỉ đáng giá một phần tư
con lợn là nhiều. Chủ lợn đã xin chuộc, thì kẻ đơm lợn cho
chuộc, nhưng tất nhiên phải có sự cam kết không trình báo gì của
chủ lợn và người đơm lợn cũng cam kết về sau sẽ không đến đơm
lợn chủ nhân nữa. Tuy nhiên, người đơm lợn bao giờ cũng có một
sự đề phòng tối thiểu, để tránh mọi sự lôi thôi với pháp luật.
Thường thường chủ lợn trao tiền chuộc lợn trước cho người đơm
lợn, còn lợn sẽ được mang trả lại chủ lợn sau, mà không có hẹn
trước. Như thế có khi chủ nhân về tới nhà đã thấy sẵn rọ lợn ở
sân nhà rồi, hoặc cũng có khi qua đêm, sáng hôm sau, con lợn đã
ở trong chuồng với sự bình yên, như không hề xảy ra chuyện gì
bao giờ.
Đơm lợn đã tài tình, nhưng đem trả lợn cũng
không phải là kém vậy.
ĐƠM LỢN VỀ GẶP NGƯỜI
Đây là câu chuyện do anh Cả Trường Xuân Vũ
thuật lại :
Đêm đó, anh đi đơm lợn ở một làng bên về.
Con lợn đầu bị đút trong một chiếc giỏ đầy cám, được anh cõng
trên lưng như một đứa trẻ, hai chân trước quàng qua vai anh.
Còn lợn này khá to, nên anh thấy hơi nặng.
Anh đang cố rảo cẳng đi cho chóng tới nơi tàng trữ để gửi con
lợn.
Đang đi, bỗng anh thấy mé đằng trước có một
người đi lại, người đó đã nhìn thấy anh, anh muốn tránh cũng
không kịp. Anh đành phải cứ ung dung đi.
Hôm đó trời không có trăng, nên gặp nhau
không ai nhận ra ai ngay, chỉ trông thấy bóng đen.
Người kia gặp anh Cả liền hỏi :
- Ai đó, đêm hôm khuya khoắt mang cái gì đi
đâu thế ?
Bắt buộc anh Cả phải trả lời, nhưng anh sợ
người kia nhận ra tiếng anh, nên anh trả lời qua giọng khịt mũi
:
- Thưa ông, thằng cháu nhà tôi nó lên tốt
(lên đậu) bị chết, tôi phải mang chôn, sợ mai ban ngày ban mặt
lại phải khai báo lôi thôi.
Câu nói của anh Cả khiến cho người kia phải
bước mau hơn để tránh cái thây ma lên đậu. Ở nhà quê, người ta
rất sợ bệnh lên đậu, nên câu nói của anh Cả đã khiến cho người
kia không hỏi han gì thêm nữa.]
Anh Cả tiếp tục ung dung cõng lợn về.
GẶP NHAU TRƯỚC CHUỒNG
LỢN
Có một anh chuyên môn đi đơm lợn. Một lần
kia sau khi đã rình mò và điều tra kỹ về một chuồng lợn của nhà
giàu, anh định đêm hôm đó tới đơm lợn.
Chuồng lợn của nhà này làm cách xa nhà ở,
tận cuối vườn cây, vườn cây ở chân đồi, xa xa khỏi quãng đồi là
rừng thưa, rồi đến rừng rậm, vì nơi xảy ra chuyện này thuộc một
tỉnh ở trung du, nghĩa là ở một nơi tuy có ruộng nương, nhưng có
cả đồi núi và rừng rậm nữa. Từ chuồng lợn đến nhà ở cách vào
khoảng trăm thước. Chung quanh vườn có hàng rào cây, và đôi chỗ
có rào tre xanh mọc.
Anh trộm lần đi từ ngoài rừng, len qua hàng
rào cây, rồi nhẹ nhẹ tiến tới phía chuồng lợn.
Trời hôm đó không tối lắm, nhưng cũng đủ
tối để anh trộm dễ lẩn tránh nếu chẳng may bị chủ nhà bắt gặp.
Anh tiến dần đến mé chuồng lợn, trong tay
lăm lăm giỏ cám. Không một tiếng động ở trong nhà, không một
tiếng chó sủa ở trong xóm. Anh mừng thầm và tin rằng thế nào anh
cũng thành công.
Anh tới gần cửa chuồng lợn rồi. Anh nắm
chặt giỏ cám và bước nhè nhẹ hơn. Bỗng anh ngừng lại : anh thấy
lù lù ngồi trên bờ chuồng lợn dưới mái tranh một cái bóng. Chắc
là một anh chính cược khác cũng đang rình đơm lợn. Anh trộm rón
rén đi tới chỗ bóng đen. Bóng đen vẫn ngồi yên, không biết có
người ở đằng sau đi tới. Khi tới gần bóng đen, anh trộm đưa tay
lên, vỗ vai bóng đen và nói :
- Con lợn này tớ rình đã mấy bữa nay, đằng
ấy định phỗng tay trên hay sao ?
Bị vỗ vai bất thần, bóng đen gầm lên một
tiếng “Hừm” và nhảy vọt rất xa để chạy thẳng vào rừng. Thì ra
đấy là một chú cọp đang rình bắt lợn, sắp vồ mồi, bị vỗ vai bất
thần, chú ta hoảng sợ, chuồn thẳng.
Và anh trộm, thấy bóng đen là chú cọp, cũng
hoảng sợ, vứt cả giỏ cám, chạy trối chết.
Chỉ chủ nhân là may, lợn không bị cọp vồ và
cũng không bị trộm đơm, vì sau bữa đó lẽ tất nhiên họ phải đề
phòng cả trộm lẫn cọp.
CON LỢN VÀ TRĂM BẠC
HAY MƯỜI ROI
Tới đây, tôi xin kể một câu chuyện về anh
Cả Trường Xuân Vũ. Các bạn đã biết tài anh Cả, thì bây giờ mời
các bạn thưởng thức thêm một lần nữa tài nghệ của anh.
Trong câu chuyện thách đố dưới đây, anh Cả
đã là người thắng cuộc và anh đã thắng một cách vẻ vang, khiến
cho người nghe chuyện cũng thấy thêm hào hứng. Kể ra thách đố
với kẻ trộm đại tài là một điều dại, nhưng ở đời nhiều khi người
ta biết dại mà vẫn cứ làm, như ông Bá hộ trong câu chuyện
này chẳng hạn.
Trong làng anh Cả có một ông Bá hộ giàu có,
xưa nay nhà cửa vẫn kín cổng cao tường, trộm đạo vào được nhà
ông thật cũng khó khăn.
Anh Cả chưa từng lấy của ông Bá cái gì,
không phải là anh không vào nổi nhà ông Bá, nhưng chính vì anh
Cả không muốn lấy trộm của người làng, vì tình làng nước cũng
có, mà cũng chính vì thành thích bất hảo sợ họ trình báo thêm
phiền.
Ông Bá không cho là thế. Ông tin vì nhà ông
kín đáo, lại có đề phòng, nên anh Cả chịu không dám mon men tới.
Ông vẫn định bụng hôm nào gặp anh Cả sẽ nói khích chơi.
Bấy giờ vào hồi gần Tết. Trong một đám giỗ,
ông Bá gặp anh Cả. Trước mặt đông đủ mọi khách ăn giỗ, ông Bá
bảo anh Cả :
- Tôi nghe nói anh trèo tường khoét vách
vào bậc nhất nhì trong thiên hạ, nhưng chính tôi, tôi chưa thấy
tài anh ở chỗ nào cả. Anh phải làm thế nào trổ tài cho tôi trông
thấy hai năm rõ mười, tôi mới chịu phục.
Anh Cả đáp và phân bua với mọi người :
- Trên thưa các cụ và các ông, tôi tuy tài
hèn nghề mọn, nhưng nếu ông Bá muốn tôi cho biết rõ tài nghệ,
tôi xin vui lòng chiều theo ý muốn của ông Bá. Vậy ông Bá đặt
cuộc cái gì để tôi lấy làm chuẩn đích.
Ông Bá lúc ấy rượu đang ngà ngà say, liền
hách dịch bảo anh Cả :
- Nhà tôi có con lợn để ăn tết, nếu anh lấy
được con lợn của tôi, tôi cam đoan sẽ không trình báo gì và
thưởng thêm cho anh trăm bạc nữa, nhưng nếu anh không lấy nổi
con lợn thì sao ?
Thời ấy trăm bạc là một số tiền lớn, nên
anh Cả nghe lời ông Bá nói như vậy thì mừng lắm. Anh lại phân
bua cùng đám giỗ:
- Xin các cụ và các ông chứng hộ. Tôi là bề
dưới, tôi chỉ sợ rồi không những không được trăm bạc, mà ông Bá
lại đi trình quan thôi.
Nghe anh Cả phân bua, ông Bá trợn mắt đáp :
- Anh coi tôi là hạng người thế nào ? tôi
đã nói một lời như đao chém đá, anh cứ yên tâm. Nhưng còn anh,
anh định sao ?
Mọi người trong đám giỗ đều nhận lời làm
chứng cho cuộc đố này, anh Cả bây giờ mới nói :
- Tôi nghèo nàn, không có gì, nhưng nếu
thua cuộc chỉ xin đến để ông Bá đét mười roi vào đít.
Nghe anh Cả nói, ông Bá cười ha hả, đắc trí
bảo :
- Ừ nhé, tôi cũng chỉ cần đét cho anh mười
roi, để từ sau anh đỡ khoác lác đi thôi. Các cụ làm chứng hộ lời
nói của anh Cả nhé.
Thế là cuộc đố bắt đầu. Hôm ấy là 17 tháng
chạp, chỉ còn 13 hôm nữa đã Tết rồi. Anh Cả phải làm thế nào lấy
cho được con lợn trước Tết, thì vừa có lợn ăn Tết, lại vừa có
tiền tiêu tết. Về phần ông Bá, ông phải lo giữ thế nào cho đến
ngày mổ lợn, con lợn không bị mất là ông được cuộc , nghĩa là
ông được đét mười roi vào đít tên trộm đại tài. Ông giữ được lợn
lại khỏi mất trăm bạc.
Lẽ tất nhiên, ông đã tổ chức canh phòng
chuồng lợn rất cẩn mật. Anh Cả cũng thừa biết vậy, nên anh chẳng
buồn đến rình mò nhà ông Bá làm gì.
Có ai hỏi anh bao giờ lấy được lợn nhà ông
Bá, thì anh chỉ cười đáp lửng lơ :
- Để còn xem đã chứ. Ông Bá ông ấy canh
phòng kỹ lưỡng lắm. Không khéo đến bị ông ấy đét mười roi mất.
Ngày này qua ngày khác, con lợn của ông Bá
vẫn là con lợn của ông Bá. Thấm thoát đã 25 tháng Chạp. Ông Bá
đã hơi mừng, vì còn bốn hôm nữa, sáng 30 Tết, ông sẽ làm thịt
lợn, là anh Cả hết đường mon men tới.
26, 27, rồi 28 cho đến 29 tháng Chạp, anh
Cả vẫn chưa làm gì nổi được con lợn ông Bá. Và đến sáng 30 Tết,
một mũi dao nhọn đã hóa kiếp cho con lợn. Lúc người nhà chọc
tiết con lợn, ông Bá bảo :
- Xem nào, chuyến này thằng đại bợm có thua
ta không ? Để ta phải cho gọi nó đến,
đét cho nó mười roi cho sướng tay.
Một tên người nhà nói :
- Thật là kẻ cắp gặp tay bà già. Phải tay
ông mới trị nổi anh Cả.
Ông Bá hả dạ lắm. Ông sai người đi tìm anh
Cả tới và nói với bọn người nhà :
- Vị tất anh Cả đã dám lại. Lời nói có bao
nhiêu người làm chứng còn chối vào đâu. Nếu hắn lấy được lợn có
phải ta mất thêm trăm bạc với hắn không. Các anh làm lợn cho
sạch sẽ rồi lát nữa hắn tới, ta cho phép tất cả các anh và người
nhà lên xem ta đét hắn.
Bọn người nhà thích lắm, chỉ mong anh Cả
tới để xem anh bị ông Bá đét. Họ làm vội làm vàng cho xong con
lợn. Vừa cạo lông lợn, họ vừa bàn tán cùng nhau. Kẻ bảo anh Cả
sẽ đến, người bảo không.
Thì ra anh Cả đến. Một tay trộm đại tài có
bao giờ hèn mà sợ mười roi đòn. Anh Cả đến với khăn áo rất chỉnh
tề. Thấy anh, ông Bá nói :
- Tôi tưởng anh không đến. Nguyên hôm nay
là 30 Tết, nhà tôi đã mổ thịt con lợn rồi. Nhớ tới lời nói hôm
ăn giỗ, tôi cho mời anh lại.
Anh Cả đáp :
- Vâng tôi cũng rõ, nên hôm nay đến đây
chịu đón của ông Bá.
Ông Bá khen anh :
- Thế thì anh thật anh hùng lắm ! Tôi khen
đấy !
Ông gọi người nhà :
- Nào bây đâu, lên cả đây, ta cho chứng
kiến việc này.
Lũ người nhà đổ xô cả lên nhà trên. Ông Bá
tay cầm chiếc roi mây chỉ chiếc phản gỗ, bảo anh Cả :
- Quả thật anh không sợ đòn, thì mời anh
nằm xuống kia cho lão đét.
Lũ người nhà cùng nhau cuời khúc khích. Ông
Bá mỉm cười một cách tự đắc.
Anh Cả nói :
- Tôi vui lòng nằm chịu đòn, nhưng thưa ông
Bá, phải có người làm chứng chứ, kẻo ông Bá đánh tôi xong, ông
Bá lại bảo chưa đánh, rồi tôi lại phải đòn lần nữa, tôi cãi vào
đâu. Vậy sẵn người nhà đây, xin ông Bá cho đi mời mấy cụ có mặt
tại đám giỗ lại, để chứng kiến vụ tôi chịu đòn !
- Tưởng gì thì khó, chứ thế thì dễ lắm !
Chính ông Bá cũng muốn như vậy để có kẻ nọ
người kia trông thấy công việc anh hùng của ông. Ông liền sai
người nhà đi mời năm sáu cụ có mặt tại đám giỗ hôm trước lại.
Trong lúc chờ đợi, ông sai rót nước mời anh Cả xơi và ông để ý
nhìn kỹ nét mặt anh Cả, xem anh có thẹn thùng sợ hãi không. Ông
thấy anh thật ung dung thản nhiên.
Anh Cả khen ông Bá :
- Nhà ông Bá kín cổng cao tường thật. Chúng
tôi rình hơn mười đêm không sao vào được. Chó nhà ông Bá dữ quá,
ông Bá lại rất thính ngủ.
Ông Bá vuốt râu cười với chiếc điếu ống hút
điếu thuốc lào, thở ra làn khói trắng ra vẻ khoan khoái lắm. Ông
bảo anh Cả :
- Anh biết tay tôi như thế là phải lắm, chứ
không những hôm ấy mà anh chờn vờn vào nhà tôi thì chỉ có què.
Trong lúc đôi bên đối thoại, lũ người nhà
vẫn thập thò ngoài hiên để chờ xem cuộc tên bợm đại tài chịu
đòn.
Một lúc sau, bốn năm cụ tới. Ông Bá đon đả
mời các cụ và nói :
- Hôm nay nhà tôi mổ thịt con lợn. Anh Cả
thua cuộc đến chịu đòn, muốn mời các cụ lại chứng kiến.
Ông Bá vừa dứt lời, thì anh Cả nói tiếp :
- Thưa các cụ không phải thế ạ ! Đấy là ông
Bá muốn mời các cụ lại làm chứng để ông Bá thưởng cho tôi thêm
một trăm bạc như lời đã hứa, vì con lợn của ông Bá, tôi đã mạn
phép lấy và cho người nhà mang đi rồi !
Kỳ lạ chưa ? Lời nói của anh Cả làm ông Bá
giật mình. Ông Bá cãi :
- Anh nói láo ! Đâu có chuyện ấy ! Con lợn
sáng ngày tôi đã cho làm thịt rồi còn gì nữa 1
Anh Cả ung dung thưa :
- Thưa ông Bá, tôi vừa mới lấy lúc nãy
xong. Không tin ông Bá thử cho người nhà ra vại nước xem có còn
con lợn không ?
Thật là sét đánh ngang tai. Ông Bá vội gọi
lũ người nhà lúc ấy đang thập thò cả ra ngoài mái hiên để chờ
xem cuộc đánh đòn, bảo đi xem lại con lợn. Một tên người nhà
chạy vội ra vại nước rồi hốt hoảng chạy vào thưa :
- Bẩm ông, con lợn ai khiêng đi mất rồi ạ.
Họ lấy cả chậu tiết lẫn cỗ lòng. Chỉ còn đống lông ngoài ấy !
Anh Cả bảo ông Bá :
- Tôi có dám nói sai đâu. Vậy xin ông Bá
trăm bạc để về còn sắm Tết. May năm nay không có trăm bạc của
ông Bá, nhà tôi chẳng có gì là Tết !
Tức đến điên ruột, nhưng ông Bá cũng đành
làm mặt đàn anh, đưa cho anh Cả trăm bạc và quay mắng lũ người
nhà :
- Chỉ tại lũ chúng mày vô ý.
Lũ người nhà len lén sợ hãi, vội vàng rút
chuồn cả xuống nhà dưới.
Anh Cả lại nói :
- Thưa các cụ và ông Bá, đáng lẽ chúng tôi
xin con lợn từ mấy hôm trước, nhưng vì dạm bán không ai mua, họ
đều sợ phép ông Bá, mà muốn để ăn tết, thì nhà chúng tôi neo
người, không có người làm, nên đành phải chờ đến hôm nay, nhờ
ông Bá cho làm lông hộ sạch sẽ. Mang về chỉ việc xả ra là xong.
Xin chào các cụ và cám ơn ông Bá lắm.
Nói xong anh Cả đi thẳng. Các cụ đến làm
chứng muốn cười mà không dám cười. Ông Bá hết sức bực mình. Thật
là bợm già mắc bẫy cò ke.
Chắc các bạn cũng thừa rõ là trong lúc tất
cả người nhà ông Bá đều lên trên nhà để chực xem ông Bá đánh đòn
tên đại bợm, thì người nhà tên đại bợm đã lẻn vào bằng lối trèo
tường, chuyển con lợn đi một cách êm nhẹ.
Năm ấy nhà anh Cả ăn Tết rất sang ! Và câu
chuyện ông Bá mất lợn đã thành một thiên giai thoại lý thú.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|