Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 166, Chúa Nhật 11.03.2012


MỤC LỤC 

Lumen Gentium - Chương VI: Tu Sĩ                                                                             Vatican 2

THƯ MỤC VỤ MÙA CHAY 2012                                                      Gm. Micae Hoàng Đức Oanh

CHUYỆN LẠ CÓ THẬT : TRIỆT SẢN CÓ THƯỞNG                                                Vũ Hưu Dưỡng

Nhận định về Bản Thông Cáo Chung của Vatican - Việt Nam      Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

THÁNH GIUSE, CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.                                      Lm Giuse Hoàng Kim Toan

ĐI TÌM PHƯƠNG PHÁP RAO GIẢNG TIN MỪNG                                 Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

PHẬT TẠI TÂM, CHUÁ Ở TRONG LÒNG                                             Luật sư Đoàn Thanh Liêm

Phục hổ                                                                                                              Br. Huynhquảng

TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (6)                                 Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập

THAM GIA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC  LÀ CÁCH DUY TRÌ, NUÔI DƯỠNG VÀ CANH TÂN VIỆC TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ             Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

TRÁI TIM VÀ NHIẾP HỘ TUYẾN                                                        Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

ĂN TRỘM LN                                                                                           Sưu tầm của Gã Siêu


Tu Sĩ

 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội

Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương VI: Tu Sĩ 55*

 

43. Những lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội. Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa, đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, chính giáo quyền ân cần giải thích các lời khuyên của Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, như một cây đâm chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác nhau: đơn độc hay cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các chi thể của dòng cũng như toàn Thân Thể Chúa Kitô 1. Thực vậy, các dòng ấy mang lại cho các chi thể những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do được đức vâng lời củng cố; thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước trên con đường đức ái 2.

Xét theo thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết lập và có phẩm trật, thì bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân; thực vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội 3. 56*

 

44. Bản tính và tầm quan trọng của bậc tu trì. Người Kitô hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn 4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.

Những lời khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái 5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp các tu sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội. Bởi đó, đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tùy sức và ơn gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và bành trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế, Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc tính riêng biệt của các tu hội.

Việc khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu. Thực vậy, dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một thành trì mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng, bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội.

Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. 57*

 

45. Quyền bính Giáo Hội và bậc tu trì. Vì trong Giáo Hội, giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu (x. Ez 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên của Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức ái trọn hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân 6. Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn sau khi tu chỉnh. Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng tu ấy phát triển và sinh hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.

Ðàng khác, để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa, Ðức Giáo Hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thể Giáo Hội và để phục vụ ích chung, có thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của các Ðấng Bản Quyền và chỉ đặt dưới quyền duy nhất của ngài 7. Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu sĩ được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các Giáo Chủ. Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ 8.

Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống cung hiến cho Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các tu sĩ; qua lời kinh công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ, phó thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ, và kết hợp sự tận hiến của họ vào hy lễ tạ ơn. 58*

 

46. Sự cao cả củaviệc tận hiến. Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng đã sai Người đến 9.

Sau cùng, mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được quí trọng, sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi cho con người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã tình nguyện chấp nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần không ít vào việc thanh luyện tâm hồn và phát huy tự do thiêng liêng, và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt thành, nhất là có sức làm cho người Kitô hữu ngày càng nên giống đời sống trinh khiết và khó nghèo mà Chúa Kitô đã chọn và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, đã sống, như gương lành của bao đấng sáng lập dòng đã chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng, vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người và vô dụng đối với xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực tiếp phụ giúp người đồng thời với mình nhưng tu sĩ lại hiện diện cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và cộng tác một cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không luống công 10.

Vì thế, Thánh Công Ðồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng tấm lòng khiêm hạ và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức. 59*

 

47. Khuyến khích sự kiên tâm và thăng tiến. Vậy mỗi tu sĩ được gọi để tuyên khấn, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện của Giáo Hội thêm phong phú hơn và sự vinh hiển của Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả hơn. Trong và nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên ủy mọi sự thánh thiện. 60*

 


Chú Thích:

55* Việc chuẩn bị chủ đề để soạn thảo cho chương này khá sôi nổi. Trong lược đồ đầu tiên, tất cả chương VI đề cập đến tu sĩ. Khi lược đồ được làm lại và đưa lên để Công Ðồng nghị trình trong kỳ họp thứ hai, chương nói về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn chung về lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng gây nên nhiều bất tiện. Như vậy, chúng ta thấy có hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất đòi soạn thảo một chương đặc biệt về tu sĩ, khuynh hướng thứ hai cương quyết cứ để xen chung vào chủ đề về lời kêu gọi nên thánh. Sau nhiều cuộc bàn cãi, việc phân tách hai chương được chấp thuận, như chúng ta thấy trong bản văn chung quyết. Vị trí của chương này trong toàn thể Hiến Chế là do những quan sát thực tiễn. Ðặt nó liền sau chương nói về lời kêu gọi nên thánh là để bày tỏ giá trị và tầm quan trọng của đời tận hiến cho Giáo Hội để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của chương này đơn giản: sau khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức đời sống tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính đời sống tu trì (số 44), và sau đó xét đến vai trò của quyền bính Giáo Hội đối với tu sĩ (số 45) và nhiệm vụ của đời sống tu trì trong việc phát triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc trong đời sống Giáo Hội (số 46); sau cùng là đôi lời khuyên nhủ vắn tắt kết thúc cho chương này (số 47).

1 Xem Rosweydô, Vitae Patrum, Antwerpiae, 1628. Apophteymata Patrum : PG 65. Palladiô, Hist. Lausiaca: PG 34, 995tt; x. b. C. Butler, Cambridge 1898 (1904). Piô XI, Tông hiến Umbratilem, 8-7-1924 : AAS 16 (1924), trg 386-387. Piô XII, diễn từ Nous sommes heureux, 11-4-1958: AAS 50 (1958), trg 283.

2 Xem Phaolô VI, diễn từ Magno gaudio, 23-5-1964 : AAS 56 (1964), trg 566.

3 Xem Giáo luật, kh. 487 và 488, 4. Piô XII, diễn từ Annus sacer., 8-12-1950: AAS 43 (1951), trg 27t. Piô XII, Tông hiến Provida Mater, 2-2-1947: AAS 39 (1947), trg 120tt.

56* Số 43: Nhập đề.

Công Ðồng mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức tu trì, một trật cũng bày tỏ thánh ý Chúa và vai trò của quyền bính Giáo Hội. Ðời sống tu trì là một hồng ân Chúa Cha ban cho Giáo Hội, Giáo Hội phải trung thành gìn giữ và hướng dẫn. Do lời giảng dạy và gương mẫu của Người, Chúa Kitô là nền tảng các lời khuyên Phúc Âm. Công Ðồng còn minh định thêm rằng đời sống tu trì không nằm trong hệ thống cơ cấu phẩm trật (giáo sĩ - giáo dân), nhưng trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng. Dầu các lời khuyên là do Chúa ban, và đời sống tu trì thực hành những lời khuyên đó là thuộc phạm vi đoàn sủng, Giáo Hội cũng phải thiết lập một hình thức định chế để thực hành đời sống ấy.

4 Xem Phaolô VI, n.v.t., trg 567.

5 Xem T. Tôma, Summa Theol., II-II, q. 184,a. 3 và q. 188, a.2. T. Bonaventura, Opusc. XI, Apologia Pauperum, ch. 3,3: x.b. Opera, Quaraechi, bộ 8, 1898, trg 245a.

57* Số 44: Bản tính của đời sống tu trì.

Trước hết Công Ðồng thừa nhận trong đời sống đó có một sự thánh hiến cho Thiên Chúa để hoàn bị sự thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy. Do lời khấn hay việc dấn thân tương tự mà có việc dâng hiến, nhờ đó đời sống của tu sĩ và cả thế giới được thần hóa nhiều hơn (x. số 31). Sự thánh hiến này hoàn tất trong tình yêu trọn vẹn nhất: tình yêu ưu tiên dành cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì chính yếu cũng là phục vụ Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được bành trướng. Nhưng vì là một sự thánh hiến nội tâm, nên việc phục vụ trước hết là cộng tác vào việc mở mang nước Chúa bằng thái độ nhiệt thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng hoạt động. Bởi thế, việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông đồ bên ngoài. Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời khuyên Phúc Âm phát xuất từ sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu cánh chung của đời sau và của hạnh phúc trên Trời, giá trị của sự cao trọng Nước Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố đời sống tu trì không thể tách lìa khỏi đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. Như vậy chúng ta hiểu rằng, một đàng Giáo Hội cần được sự đóng góp của đời sống tu trì nên phải cổ võ đến mức tối đa cho đời sống ấy, đàng khác đời sống ấy nói lên sức mạnh của Giáo Hội. Cứ theo những điểm vừa nói thì đời sống tu trì là một thực tại sống động trong Giáo Hội.

6 Xem CÐ Vat. I, lược đồ De Ecclesia Christi, ch. XV, và chú giải 48: Mansi 51, 549t và 619t. Leô XIII, thu Au milieu des consolations, 23-12-1900: ASS 33 (1900-01), trg 361. Piô XII, Tông hiến Provida Mater, n.v.t., trg 114t.

7 Xem Leô XIII, Hiến chế Romanos Pontifices, 8-5-1881: ASS 13 (1880-81), trg 483. Piô XII, diễn từ Annus Sacer, 8-12-1950 : AAS 43 (1951), trg 28t.

8 Xem Piô XII, n.v.t., trg 28. Piô XII, Tông hiến Sedes sapientiae, 31-5-1956: AAS 48 (1956), trg 355. Phaolô VI, diễn từ Magno gaudio, 3-5-1964: AAS 56 (1964), trg 570-571.

58* Số 45: Giáo Hội và đời sống tu trì.

Vai trò quyền bính Giáo Hội nằm trong những điều quy định tổng quát: lập luật để làm qui tắc hướng dẫn việc thực hành các lời khuyên, chuẩn y các điều lệ, lưu ý đến sự trung thành và tăng triển các hội dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập đến những người nắm giữ quyền bính này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà các hội dòng miễn trừ phải tùy thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục là những người mà mọi tu sĩ phải kính trọng và tuân phục. Sự quả quyết Giáo Hội góp phần trong phương diện phụng vụ và thiêng liêng vào việc tuyên khấn cũng nói lên rằng những mối tương quan với quyền bính không chỉ có tính cách pháp lý. Theo Hiến Chế, sự đóng góp vào phụng vụ mặc ba hình thức: Giáo Hội dùng quyền bính chấp nhận các lời khấn, dùng lời kinh công cộng xin Chúa ban ơn, kết hợp sự tận hiến của người tuyên thệ vào hy lễ tạ ơn.

9 Xem Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 241t.

10 Xem Piô XII, diễn từ Annus Sacer, n.v.t., trg 30. Diễn từ Sous la maternelle protection, 9-12-1957: AAS 50 (1958), trg 39t.

59* Số 46 : Vai trò của đời sống tu trì.

Sau khi khuyên nhủ tu sĩ biết minh chứng Chúa Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng nhắc nhở cho họ biết đời sống tu trì làm phát triển nhân cách con người vì là một sự tự hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý chí đi theo chiều hướng của ơn gọi cá nhân; đời sống ấy còn định hướng nhân phẩm theo như điều mà chương trình của Chúa muốn dung hợp, và như vậy làm cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn toàn. Công Ðồng đề cập ba khía cạnh của việc nẩy nở đó: tự do thiêng liêng trong tâm hồn trong sạch hoàn toàn, bác ái hăng say nhờ đó mà nhân phẩm con người được phát triển đích thực, dung hợp với lối sống mà chính Chúa Kitô đã theo, lối sống mà Mẹ Maria là gương mẫu hoàn hảo. Công Ðồng cũng nhắc lại rằng đờisống tu trì còn cộng tác một cách thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian. Sự hiện diện tinh thần của tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện diện hữu hình bên ngoài. Cố nhiên Công Ðồng không nói tu sĩ hiện diện nơi người khác nhưng hiện diện trong trái tim Chúa Kitô. Do sự kiện cộng tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian, tu sĩ trở nên hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo một thế giới xây dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên bố công nhận và khen ngợi lối sống của tu sĩ.

60* Số 47 : Kết luận.

Trong câu kết luận vắn tắt, Công Ðồng khuyên nhủ tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong ơn gọi để Giáo Hội được thánh thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.

 
VỀ MỤC LỤC
THƯ MỤC VỤ MÙA CHAY 2012
  

Nguồn: http://giaophankontum.com/Tin-Tuc-274_Thu-muc-vu-Mua-Chay-2012-cua-Duc-Cha-Micae-Hoang-Duc-Oanh-Giam-muc-Giao-phan-Kon-Tum.aspx

 

Kon Tum, ngày 03 tháng 03 năm 2012

Anh chị em trong gia đình Giáo phận Kon Tum thân mến,

Ngày 22.02, gia đình Giáo phận Kon Tum bước vào Mùa Chay; qua ngày 23.02, Cha Lu-Y Nguyễn Quang Hoa bị đánh trọng thương trên đường đi làm mục vụ về. Cả Giáo phận đều bàng hoàng. Để tránh những bức xúc quá đáng, chúng ta cần đón nhận biến cố này sao cho phù hợp với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu mà chúng ta đang sống ?
 

1. Sự việc ngày 23.02.2012.

Trưa ngày 23.02.2012 vừa qua, sau khi dâng lễ an táng cho Bà Y Kun ở làng Turia Yốp (thôn 6, xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum) trở về tới khúc đường qua vườn cao su gần hồ Kon Proh (thôn 9), Cha Lu-Y Nguyễn Quang Hoa, phó xứ Kon Hring, đã bị 3 thanh niên lạ mặt dùng cây sắt đánh trọng thương. Tạ ơn Chúa, dầu bị đánh nhiều nhát chí tử, nhưng Chúa cho cha sức mạnh chịu đựng thật đặc biệt. Nay sức khoẻ của Cha đang bình phục nhanh. Xin cám ơn tất cả bà con xa gần đã thương gọi điện thoại hoặc đến thăm hỏi ủi an, giúp đỡ và cầu nguyện.

Quãng đường từ chỗ dâng lễ về tới Kon Hring chỉ vỏn vẹn độ 10 cây số. Hai bên đường đều có  dân sinh sống, chỉ trừ đoạn đường cao su dài độ hai cây số là có vẻ vắng. Sao lại có thể xảy ra chuyện đáng tiếc nhanh chóng và gọn nhẹ đến như thế giữa ban ngày? Nó gây đau thương cho nhiều người, cách riêng gia đình thân nhân và Giáo phận. Làm sứt mẻ tình cảm nhiều bên. Thêm lắm hiểu lầm. Sau nhiều phản ứng theo tính loài người, nay đến lúc phải nhìn sự việc dưới ánh sáng lòng tin vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, để có cách ứng xử cho phải phép và phải đạo.

Hằng ngày, hơn một lần, người Công giáo tuyên xưng: Lạy Cha chúng con! Tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa là CHA, mọi người là anh chị em con một cha. Do đó 3 em đánh Cha Hoa cũng là con cháu, là anh em của Cha Hoa, của mỗi chúng ta. Với cái nhìn đức tin đó, chúng ta dễ dàng cảm thông và quảng đại với các em, lại càng thương hơn cùng nhìn nhận ra phần trách nhiệm thiếu sót của mình. Phải chăng thiếu sót nghiêm trọng này là đã không nghiêm chỉnh thi hành sứ mạng được sai đi loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người trong đó có ba thanh niên này? Lệnh Chúa truyền vẫn còn đó. Hằng ngày Mẹ Hội Thánh vẫn nhắc lại lệnh truyền này sau mỗi thánh lễ! “Lễ xong, chúc anh chị em ra đi bình an”. Ra đi xây dựng một xã hội bình an, một xã hội biết nhìn nhận và thương yêu nhau như Chúa yêu thương. Nếu 3 thanh niên hôm 23.02 đã được nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu, hẳn các em sẽ không hành xử cách đau thương như thế và các em sẽ thuộc nằm lòng chân lý này: “Sự sống đời đời là nhận biết Cha Thiên Chúa độc nhất và chân thật và Đấng Cha đã sai, Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).  Chính bản thân chúng tôi phải tự đấm ngực thưa: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Thật đúng như lời Thánh Phaolô đã nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” yêu thương này. (1Cr 9,16).
 

2. Những suy nghĩ tiếp.

Anh chị em thân mến,

Chiều 29.02.2012, chúng tôi đã đến thăm anh chị em giáo dân tại vùng Cha Lu-Y Hoa bị đánh. Phần để an ủi và trấn an anh chị em; phần để tìm hiểu thêm chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Chúng tôi cũng đã gặp anh em công an Huyện. Tất cả chúng tôi đều cảm thông và trao đổi chân thành với nhau về chuyện mới xảy ra, về chuyện đạo chuyện đời. Chẳng ai muốn thế! Anh em công an đã nhiệt tình đón nhận và khích lệ các ý kiến của chúng tôi.  Tới đây chúng tôi thấy gì?
 

2.1. Về đời sống vật chất.

Dân vùng này còn nghèo. Từ ăn mặc cho đến nhà cửa. Đường xá còn giới hạn. Cách làm ăn còn thấp. Chuyện học hành của con cái còn chưa cao. Không có sức bật đi lên.  Mong được chính quyền quan tâm nhiều hơn. Mong có nhiều nhà hảo tâm giúp những “phương tiện phát triển” hơn là miếng cơm manh áo, đặc biệt giúp việc giáo dục đào tạo con em nên những người có đầu có tim phát triển hài hòa, thống nhất. Mong Giáo hội có điều kiện đóng góp phần mình.
 

2.2. Về đời sống tinh thần và tâm linh.

Anh chị em ở đây đa phần là Công giáo. Anh chị em ý thức sâu xa: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Mặc dầu vật chất còn thấp, nhưng niềm khát khao được thể hiện niềm tin lại thật cao. Vì thế, anh chị em ở đây vẫn cảm thấy “chưa có tự do tôn giáo”. Lý luận của anh chị em thật đơn giản: vì “chưa có ba thứ”  (1) chưa có nhà thờ, (2) chưa có linh mục tu sĩ, (3) chưa có các sinh hoạt tôn giáo bình thường.  Dẫu vậy anh chị em vẫn một lòng gắn bó với Tin Mừng bác ái yêu thương. Anh chị em vẫn có tâm hồn bình an và quảng đại, cụ thể anh chị em đã đón nhận biến cố vừa xảy ra cách rất Tin Mừng, mặc dầu không thoát khỏi cảnh đau xót! Được sống và thể hiện niềm tin tôn giáo là một nhu cầu bức thiết của người tin, cho nên họ tìm mọi cách để “được sống Đạo như được thở”. Cần xin phép, người công giáo không quản ngại. Nhưng xin mãi không được, thì phải “chui”. Cầu nguyện chui! Cử hành phụng vụ chui! In sách đạo chui! Mua đất để làm nơi thờ phượng chui! Làm nhà thờ nhà nguyện chui! Không chui như thế thì chết mất! Chui thì phải chấp nhận thiệt thòi. Biến cố 23.02 tại Turia Yốp có đúng là câu trả lời cho cái chuyện “chui” không? Có đúng như Văn Thư ký ngày 21.02.2012 của UBND Xã Đăk Hring gửi cho Tòa Giám Mục chúng ta không? Chúng ta chưa dám tin như thế! Mong rằng ở những trường hợp như vậy sẽ không ai chụp cho chúng ta cái mũ “phản động”, “diễn tiến hòa bình” hay “chống đối chính quyền” .v.v…

2.3. Vài đề nghị thiết thực cụ thể.

Để phần nào xoa dịu nỗi đau của anh chị em cũng là của chính chúng tôi, chúng tôi có một vài đề nghị cụ thể như sau.

* Tuần Thánh và đại lễ Phục Sinh 2012.

Chúng tôi có ý đích thân đến cử hành phụng vụ Tuần Thánh và đại lễ Phục Sinh 2012 ngay tại vùng này. Chương trình chi tiết cụ thể, các linh mục tại địa sở Kon Hring sẽ trình bày với chính quyền huyện Đăk Hà và xã Đăk Hring. Đây được coi như một nghĩa cử xoa dịu, an ủi anh chị em Vùng Đăk Hring. Đây cũng được coi như một hình thức thể hiện quyền sống đạo.

* Thăm viếng, ủy lạo và giúp đỡ.

Nhân dịp này, chúng tôi mong có nhiều tổ chức bác ái từ thiện – dĩ nhiên là cần được chính quyền địa phương tạo mọi điều kiện dễ dàng – quan tâm và giúp đỡ nâng cao cuộc sống của anh chị em, đặc biệt là việc học hành của con em trong vùng, để không một em nào thất học, tất cả đều được học đến nơi đến chốn, được tiếp nhận một nền giáo dục phát triển toàn diện.
 

Anh chị em thân mến,

Đây không còn là lúc ngồi than trách ai, mà là sống. Sống mầu nhiệm mùa chay, mùa sám hối và sống theo Tin Mừng yêu thương. Chỉ có Thánh Thần Chúa soi sáng và đổi mới mỗi chúng ta thực sự trở nên những anh em của nhau và với nhau, để ai nấy đều sống chan hoà yêu thương nhau. Hãy chuyển biến cố hôm 23.02  tại Turia Yốp thành cơ hội giúp mọi người bình tĩnh ngồi lại với nhau, nhìn nhận ra nhau đều là con dân Việt, đều là anh em của nhau và mau chóng quên đi những tiêu cực vừa xảy ra, để cùng nhau hợp lực xây dựng xã hội ngày càng phát triển và tươi đẹp. Sống Mùa chay thiết thực như thế cũng là sống yêu quê hương, yêu đất nước, yêu đồng bào thật cụ thể và thiết thực. Với người Công giáo đích thực, yêu Chúa yêu người yêu quê hương là một, bằng một tình yêu thống nhất và hài hòa. Mong nhờ biến cố hôm 23.2, vùng này được công khai sinh hoạt tôn giáo bình thường.

“Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, xin hãy đến! Xin hãy đến canh tân bộ mặt trái đất và lòng trí chúng con!”
 

+ Micae Hoàng Đức Oanh

Giám mục Giáo phận Kontum

VỀ MỤC LỤC
CHUYỆN LẠ CÓ THẬT : TRIỆT SẢN CÓ THƯỞNG
 

Tôi không tin vào mắt mình khi đọc bài viết của tác giả VS đăng trên báo dân trí : http://dantri.com.vn/c20/s20-571109/di-triet-san-se-duoc-thuong-1-trieu-dong.htm .

Mở đầu bài, tác giả viết : "UBND thành phố Hồ Chí Minh vừa có quyết định ban hành chính sách về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2011 - 2015. Theo đó, người dân tại TPHCM đi triệt sản sẽ được “thưởng” 1 triệu đồng cùng với thẻ bảo hiểm y tế có thời hạn 2 năm.

Thống kê của Chi cục Dân số cho thấy, tại TPHCM, bên cạnh 100 trẻ sinh ra thì có hơn 75 trẻ khác không có cơ hội được chào đời. Đây là hậu quả của tình trạng mang thai ngoài ý muốn dẫn đến việc nạo phá thai.

Số liệu trên vừa được công bố vào chiều ngày 2/3 trong buổi làm việc giữa đoàn công tác của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình với lãnh đạo Sở Y tế TPHCM và Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thành phố về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Năm 2011 trên địa bàn thành phố có 68.640 trẻ được sinh ra, con số này gần như không giảm so với năm 2010. Cán cân giới tính đã lệch vì tỷ lệ trẻ nam trên trẻ nữ 106/100 ..."

Khả năng sinh nở hay nói cách khác cái "ơn" được làm mẹ của mỗi người phụ nữ phải nói đó là một huyền nhiệm. Bằng chứng là có những người nữ mong mỏi, ước ao, nguyện cầu để có được một mụn con nhưng vì lý do nào đó mãi mãi không được. Thử vào các bệnh viện phụ sản lớn ta sẽ thấy hình ảnh nghịch lý của hai dòng người : Một dòng người chờ gọi tên để được khám để chữa hiếm muộn và tìm cách chữa trị chứng hiếm muộn đó, bên cạnh đó là dòng người cũng chờ gọi tên mà chờ gọi tên để giết chính đứa con yêu trong bụng mình. Để có thai trong ống nghiệm hay tác động của y khoa mất rất nhiều tiền, cả trăm triệu nếu đồng ý y khoa can thiệp. Ngược lại, với cái giá rẻ mạt người ta đi giết người. Chỉ cần vài ba trăm ngàn hay triệu đồng thôi là đủ "khử" một con người ra khỏi trần đời này.

Và như vậy, ta thấy rằng "ơn" làm mẹ không phải do con người mà do ơn trên mà có. Ơn trên thì ai cũng biết nó rất là thiêng liêng. Ơn trên đó được ban tự trời, con người nhỏ bé và là người đón nhận chứ không phải là người ban ơn đó. Con người, dù tin hay không tin vẫn có chút gì đó tương quan với "thiên". Thiên của con người có thể là Ông Trời, là Chúa, là Phật ... Vậy mà ngày hôm nay người ta tước đi cái quyền tự ơn trên ban xuống, người ta cổ võ cho cái chuyện thật khó nghĩ.

Có những người thèm có một đứa con nhưng chẳng bao giờ có, vậy mà người ta đi cổ võ phong trào "triệt sản có thưởng". Chẳng hiểu luân thường đạo lý của con người ngày hôm nay nó trôi về đâu cả. Chỉ biết rằng nó có cái gì đó méo mó mà méo mó từ những người có trách nhiệm.

Người ta đổ cho cái chuyện : "chất lượng dân số chưa ổn định tình hình nạo phá thai do mang thai ngoài ý muốn đang ở mức rất cao. Thống kê cho thấy, số thai nhi bị phá bỏ gần bằng 4/5 số trẻ chào đời, cao gấp ba lần cả nước (ước tính cứ 100 trẻ em được sinh ra thì hơn 75 trẻ khác không có cơ hội chào đời). Trong số người phá thai có 2% dưới tuổi vị thành niên, số còn lại tập trung ở lứa tuổi từ 16 đến 49".

Dân số chưa ổn định, mang thai ngoài ý muốn ... Tất cả nó nằm ở vấn đề chính đó là luân thường đạo lý của con người. Và như vậy, chuyện quan trọng là người ta phải giáo dục giới tính, giáo dục luân thường đạo lý, giáo dục chuyện phá thai giết người là trọng tội.

Người ta không chú tâm vào việc giáo dục một đứa trẻ rằng quan hệ trước hôn nhân hay người lớn ngoài hôn nhân là cắn rứt lương tâm.

Một mặt thì kêu gạo chuyện phá thai quá cao, một mặt thì số nhà nghỉ, nhà trọ và khách sạn tiếp tay cho chuyện có thai ngày càng mọc lên như nấm.

Cổ võ cho chuyện triệt sản hay nói cách khác là triệt sản có thưởng cũng chỉ là giải quyết phần ngọn. Phần gốc của vấn đề là đạo đức của con người người ta lại không chịu giải quyết. Giải quyết phần ngọn hay loay hoay đùn đẩy trách nhiệm thì vấn nạn chẳng đi đến đâu. Vấn đề lớn vẫn là giáo dục cho con trẻ sống đúng với đạo đức của con người.

Không thể hiểu nỗi khi người ta người ta cứ vá víu cho một nền đạo đức ngày càng vỡ ra. Và, hình như càng vá thì càng rách. Chỉ khi nào người ta nhận ra giá trị đạo đức thật của con người và giáo dục con người sống đúng với luân thường đạo lý của con người thì những vấn nạn của xã hội mới giải quyết được.

Vũ Hưu Dưỡng

 
VỀ MỤC LỤC
NHẬN ĐỊNH VỀ BẢN THÔNG CÁO CHUNG CỦA VATICAN VÀ VIỆT NAM

 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Ngày 28 tháng 2 năm 2012 Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã chính thức ra thông cáo chung vể kết quả cuộc gặp gỡ lần 3 của nhóm làm việc chung giữa Viêt Nam và Vatican  tại Hanội trong 2 ngày 27 và 28-2-2012.

Nhìn chung kết quả cuộc họp quả là khiêm nhường, không tương xứng với thời gian hai ngày họp, bởi vì bản thông cáo chỉ đưa ra những điều chung chung mà ai cũng có thể thấy đó là kết quả của bất cứ một cuộc họp nào dù ở tầm cỡ quốc gia hay địa phương. Người đơn sơ thì cho là cuộc gặp gỡ chẳng có gì là quan trọng. Nhưng nhìn kỹ thì nó không đơn giản như vậy, bởi vì thứ nhất phải đợi gần 2 năm trời để có một cuộc họp mà kết quả lại quá thường, thứ đến chủ đích cuộc họp này là bàn về vấn đề liên lạc ngoại giao giữa Vatican và Việt Nam, một vấn đề mà Tòa Thánh vẫn coi là rất cần thiết thì hiển nhiên cuộc gặp gỡ 2 ngày không thể không quan trọng được. Như vậy phải chăng là có những điều mà hai bên không muốn lộ ra cho dư luận. Hoặc thỏa thuận hay bất đồng quan điểm giữa hai bên?

  

NHỮNG ĐIỀU HAI BÊN ĐÃ THỰC HIỆN VÀ CHƯA THỰC HIỆN

Nhưng phân tích kỹ bản thông cáo thì chúng ta cũng có thể đọc được những hàm ý bên trong.

Bản thông cáo viết: Phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh rằng Nhà Nước Việt Nam đã luôn thực hiện và còn tiếp tục cải tiến chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng và tôn giáo của nhân dân. Nhà Nước khích lệ Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực và thực sự tham gia vào tiến trình hiện nay phát triển đất nước, kinh tế và xã hội”

Xem vậy thì Nhà Nước csVN từ hơn nửa thế kỷ nay vẫn chưa tôn trọng, thực hiện và bảo đảm tự do tín ngưỡng và tôn giáo của dân chúng, bởi vì họ nói họ còn tiếp tục cải tiến chính sách tự do tôn giáo của họ. Họ công nhận họ không tôn trọng tự do tôn giáo của nhân dân hoặc chính sách tự do tôn giáo của họ khác với tự do tôn giáo mà thế giới và Liên Hiệp Quốc qui định. Nhìn vào thực tế quả đúng như vậy. Xin đơn cử một trường hợp thôi. Giám mục Kontum Hoàng đức Oanh vẫn không được cử hành nghi thức tôn giáo như Lễ Giáng Sinh và những lễ buộc quan trọng như ý muốn ở những nơi xa cách tòa giám mục, Ngài phải ngủ đêm ở xe không được vào trú ngụ tại nhà giáo dân, cha xứ đi làm mục vụ bị đánh đập, giáo dân bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo của mình thì bị ngăn cấm, theo dõi, đe dọa, bắt bỏ tù hoặc đánh đập trọng thương, các hình ảnh thánh thiêng bị đập phá, các cơ sở tôn giáo bị tịch thu, chiếm đoạt vô tội vạ. Nhà nước vẫn can thiệp vào những vấn đề nội bộ của Công Giáo như truyền chức linh mục, giám mục và thuyên chuyển xếp đặt những địa vị quan trọng của các chức sắc tôn giáo, có khi lại can thiệp cả vào nội dung chương trình huấn luyện các chủng sinh. Tóm lại, các sắc lệnh về tự do tôn giáo và chính sách XIN-CHO vẫn là chìa khóa khóa cửa vào tự do tôn giáo.

Nhà nước còn khích lệ GHCG-VN tích cực thực sự tham gia vào tiến trình phát triển đất nước, kinh tế, xã hội. Có lẽ người Công Giáo VN nên cám ơn nhà cầm quyền VN về sự khuyến khích và thiện chí này bởi vì từ lâu chúng ta vẫn chỉ mong được làm như vậy. Nhưng cũng xin nhà cầm quyền, đảng csVN cho chúng tôi được tự do đi lại và thực thi việc thiện và việc công ích hoặc trả lại chúng tôi phương tiện là nhà thương, trường học, các cơ sở từ thiện của chúng tôi mà quí vị đã và đang chiếm đoạt, tịch thu để chúng tôi làm phương tiện hầu có thể phát triển đất nước. Muốn việc phát triển đất nước được tốt đẹp và toàn diện thì phải giáo dục, tu luyện con người trước cả về trí tuệ, luân lý đạo đức lẫn thể xác. Trên khắp thế giới, GHCG vẫn luôn luôn đi tiên phong trong những vấn đề phát triển đất nước kiểu như vậy. Chẳng lẽ chúng tôi chỉ có bổn phận mang tiền của đưa cho nhà cầm quyền, đảng csVN độc tôn phát triển hay sao?

Về phần Vatican, Phái Đoàn Tòa Thánh đã ghi nhận những nhận xét đó và đánh giá cao sự quan tâm của chính quyền dân sự đối với hoạt động của GHCG, đặc biệt năm 2010 trong việc cử hành Năm Thánh và nhân dịp các cuộc viếng thăm mục vụ của Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại diện không thường trú. Đây chỉ là những cái gọi là thành tích nổi, bề ngoài, có tính khoa trương thì nhà cầm quyền để cho GHCG được dễ dàng. Còn những gì là căn gốc, nền tảng của đạo như đem Chúa, đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khó, khốn khổ ở những nơi xa xôi, vùng quê hẻo lánh hay núi đồi cao nguyên thì bị ngăn cấm, làm khó dễ đối với cả giáo dân lẫn giáo quyền. Tình trạng tự do tôn giáo không được áp dụng đồng nhất. Điạ phương này thì dễ, địa phương kia thì khó khăn làm người dân có cảm tưởng chính quyền dân sự trên biểu dưới không nghe hoặc trên đổ cho dưới, dưới đổ cho trên, gây tình trạng hoang mang trong dân chúng, riết rồi người ta cho là chính quyền nói dối, và đó là chủ trương của nhà nước.

Về vai trò của vị đại diện không thường trú thì như thông cáo đưa ra, Tòa Thánh vẫn “mong ước Ngài và sứ mạng của Ngài được tăng cường và mở rộng để củng cố các quan hệ của hai bên tại Việt Nam cũng như ý hướng của VN và Tòa Thánh về phát triển các mối quan hệ với nhau”. Như vậy rõ ràng cho đến giờ phút này vai trò của Đức Khâm xứ không thường trú vẫn chỉ là có tiếng mà không có miếng. Và kết quả vẫn là lời hứa của VN sẽ để cho Đại Diện Tòa Thánh có điều kiện dễ dàng hoạt động. Hãy chờ.

 

KẾT THÚC THÔNG CÁO: GIÁO DÂN TỐT, CÔNG DÂN TỐT

Bỏ đi những lời lẽ hình thức ngoại giao, thì phần nhắc lại giáo huấn của ĐTC Biển Đức XVI về việc sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước và những nhận xét của Ngài về việc “là Tín hữu Công Giáo tốt và là một công dân tốt, nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục có sự cộng tác giữa GHCG và Chính quyền dân sự, để thực thi một cách cụ thể và thực tế, những giáo huấn ấy trong tất cả mọi hoạt động.”

Người viết coi phần này như là kết thúc của bản thông cáo chung, là điều kiện để cho những đòi hỏi ở trên được thi hành nghiêm chỉnh. Chúng ta coi đây như là một đòi hỏi đồng đều và nghiêm chỉnh của cả hai bên để cho cuộc họp mang lại kết quả mong muốn trong tương lai.

Phía nhà nước muốn phía Công Giáo “Không được tổ chức thắp nến cầu nguyện” hay có “những sinh hoạt nào mà nhà nước nghi ngại hoặc không thích, không bằng lòng”hay một đòi hỏi nào đó quá sức mà thông báo không tiện nói ra. Dĩ nhiên là nhà nước có lý do của nhà nước nhưng những hành động của Công Giáo lại là những quyền tự do của cá nhân con người và của tập thể, khi mà những quyền tự do đó bị cướp đoạt hoặc bị trà đạp, mặc dù Hòa Bình vẫn luôn luôn là chủ trương chính và căn bản của Công Giáo.

Từ ý thức về con người tự do, Giáo Hội luôn luôn chủ trương sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc/đất nước, luôn luôn hợp tác với nhà nước, lấy Bác Ái, Yêu Thương, Hòa Bình, Công Bằng, Công Lý và Tự Do làm căn bản. Do đó Giáo Dân Tốt thì Công Dân Tốt. Nhưng chính quyền dân sự ở Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam có cùng một quan niệm như vậy không? Đó là cả một vấn đề. Chúng tôi thi hành lời Chúa truyền, giáo huấn của Giáo Hội dạy để trở thành người Tín Hữu Tốt thì có khi lại không là Công Dân Tốt của đất nước xã hội chủ nghĩa VN, bởi vì người dân đã được đảng csVN dạy “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Yêu nước theo kiểu của đảng csVN, của chính quyền dân sự ở VN là người dân không được làm bất cứ cái gì mà đảng csVN không muốn. Vì vậy là giáo hữu tốt đôi khi không thể là công dân tốt theo kiểu của đảng csVN và ngược lại là Công Dân Tốt đôi khi không thể là Giáo Dân Tốt theo giáo lý Công Giáo và Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Hai vế Giáo Dân Tốt, Công Dân Tốt chỉ có thể đi song hành, ăn nhịp với nhau khi mà tự do và nhân quyền được chính quyền dân sự và nhà nước thực sự tôn trọng mà thôi.

Hy vọng đảng csVN, phái đoàn VN không dùng 2 vế câu đối Giáo Dân Tốt, Công Dân Tốt để đánh lừa hay mê hoặc, khuyến dụ những người kém hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin, như họ đã từng dùng trong quá khứ câu đối Tốt Đời, Đẹp Đạo, đã trở thành nhàm chán và bị lộ tẩy. 

Fleming Island, Florida

Mars 2, 2012

NTC

 
VỀ MỤC LỤC
THÁNH GIUSE, CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.
  

Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người» (GH 11§3). Nên thánh theo con đường của Thánh Giuse, một con đường cho nhiều người.

 

Dấn thân trong nghề nghiệp:

Nên thánh trong chức nghiệp là một yếu tố quan trọng để xây dựng hòa bình trên trái đất. Có thể chúng ta rất ngạc nhiên về điều này, nhưng chính việc ý thức nên thánh trong chức nghiệp mà mỗi người theo bổn phận mình sẽ làm tăng trưởng phẩm giá con người và phát triển hài hòa với tự nhiên.

Đi vào cụ thể hơn, chúng ta nghe, người đồng thời nói về Thánh Giuse rất trìu mến: “bác thợ mộc”. Một tên gọi rất thường nhưng lại bao hàm lòng yêu mến con người thợ mộc ấy. Dĩ nhiên, phải có điều gì đó con người thợ mộc kia đã gây được thiện cảm và lòng trìu mến của nhiều người. Ngày nay, chúng ta thử nhìn, có bao nhiêu người chức nọ, chức kia; học vị, địa vị, giàu có; nhưng khi nói về họ, nhiều người rủa thầm: tên này, tên nọ, thằng này, thằng kia, tay này, tay nọ... Chẳng thấy trong câu nói một tý trìu mến, hay đáng trọng nào. Để được tôn trọng trước tiên người đó cần có lòng tự trọng. Công việc mỗi ngày bộc lộ tính tự trọng trong đó, người có lòng tự trọng sẽ làm công việc cẩn thận, có trách nhiệm, liêm khiết, công bằng, hợp tác, thân tình...

Vì chủ đích kiếm tiền công việc làm của mỗi người trở nên nặng nhọc, gánh nặng và có khi gian dối, lường gạt. Trong phim “thương đạo”, Mãn Thương lấy triết lý: “Kinh doanh vì tìm kiếm con người” là chủ đạo, nên sẵn sàng hy sinh vật chất của cải để cứu con người. Kinh doanh đi đôi với lòng nhân từ. Bài học này để đạt được đã trả giá rất nhiều khó khăn, nhưng nó lại là bài học thành công trong việc kinh doanh, gầy dựng luật cơ bản trong “Đạo Đức Kinh Doanh”. Bang chủ Mãn Thương nói sau lần thất bại nhân sâm: "Ta chẳng sợ bản thân bị phá sản, nhưng không nỡ thấy những người gắn bó với ta bao năm không có cơm ăn áo mặc".

Nên thánh trong công việc, đó là thực hành đời sống nghề nghiệp của mình cách tận tụy và quảng đại, chuyên môn và hiểu biết. Công việc làm trở nên như của lễ, làm việc như cách cử hành trân trọng, và kết quả của công việc như một ân ban. Thánh Giuse nên thánh trong nghề nghiệp của mình và cũng là Thánh bổn mạng của những người lao động.

 

Người cha trong gia đình.

Vai trò người cha trong xã hội truyền thống công nghiệp xưa kia, người cha là người lao động trực tiếp nuôi sống gia đình; người mẹ ở nhà lo chăm sóc gia đình, giáo dục con cái. Hoàn cảnh gia đình nông nghiệp xưa, vừa trồng trọt vừa chăn nuôi, cả gia đình đều chia sẻ công việc chung, việc giáo dục và dưỡng nuôi đều do cha mẹ góp công góp sức.Thánh Giuse cộng tác với Đức Maria để xây dựng gia đình Thánh Gia mà chúng thấy qua các sự kiện: Đón nhận Đức Maria về nhà – Đưa Đức Maria về quê quán khai sổ bộ - Tìm nhà trọ - Sinh hạ Chúa – Qua bên Ai Cập – Trở về Nazaret – Dâng con trong Đền Thờ - Đi tìm con khi lạc mất... Một chuỗi các sự kiện như bao nhiêu gia đình khác, đầy những khó khăn. Chu toàn bổn phận gia đình cũng là một ơn gọi nên thánh cơ bản của nhiều người.

Thánh Giuse là “bác thợ mộc”, theo truyền thống của gia đình người Do Thái, người cha có bổn phận dạy cho con mình một nghề để sinh sống, chắc chắn Chúa Giêsu cũng thọ giáo nghề nghiệp từ nơi cha mình. Ngày nay, cha mẹ lo cho các con ăn học rất vất vả mới chu toàn được một phần tại học đường. Một trường học khác tại gia, cha mẹ làm gương, dạy con đường nhân đức, huấn luyện con nên người Thánh. Một nhiệm vụ trọng đại và cũng là triều thiên vinh quang của cha mẹ.

Ngày nay một số người cho rằng không cần người cha trong gia đình để thụ thai, sinh con, chăm sóc, giáo dục những đứa con. Vì thấy trong cuộc sống vợ chồng có quá nhiều khó khăn, bất đồng chia rẽ, hoặc theo lối sống đồng tính. Theo bác sĩ Robert Moradi: "Trẻ con được người cha góp phần săn sóc ít trở thành bạo động hơn; có chỉ số thông minh cao hơn, biết tự kiềm chế hơn, thích ứng xã hội tốt hơn, tất cả mọi yếu tố về sức khỏe tâm thần đều tốt hơn". Một xã hội bạo lực nhiều hơn cho thấy những giá trị cơ bản gia đình đang mất đi. Cứu lấy gia đình bằng ơn gọi hôn nhân là cứu xã hội, cứu thế giới khỏi những bạo loạn.

Một người con như Chúa Giêsu có lần người ta cũng thắc mắc: "Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? (Mt 13, 54 -55). Một phần theo lẽ tự nhiên, Chúa Giêsu cũng hấp thụ nơi người cha mình những điều tốt đẹp và thụ hưởng những đức tính tốt lành.

Là một người cha tốt lành, người mẹ nhân ái, đó là con đường nên thánh cho ơn gọi hôn nhân. Người ta nói: “thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”, con đường tu nhà là con đường cho nhiều người và cũng là điều cơ bản để có những người con trưởng thành ở đời và là mầm mống cho ơn gọi thánh hiến. Không có thánh nhân tại gia thì cũng khó có những thánh nhân ở đời.

 

Vâng phục để Thánh ý Chúa nên trọn.

Không quan trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay tầm thường. Trước mặt Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có giá trị. Điều quan trọng, thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng Ngài mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Cái phi thường ở trong cái tầm thường của mỗi con người là một viên ngọc quý tiềm ẩn, giống như dụ ngôn người đi tìm ngọc quý, tìm được anh về bán tất cả của cải để tậu được thửa ruộng có viên ngọc quý ấy. Người ta nói “Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi !”. Con người trau dồi nơi mình nhân đức, rèn luyện, học hỏi là tự thân; thế nhưng còn nhờ đến người khác bồi bổ, hướng dẫn, nâng đỡ, khích lệ ... đặc biệt rập khuôn đời mình trong Thánh ý Chúa. Những nỗ lực đó đang từng ngày biến đổi cái tầm thường trở nên phi thường. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con người sống an vui và nên thánh trong địa vị mình. Hãy đến cùng Giuse! 

Thánh Giuse mẫu gương cho mọi người nên thánh trong cuộc sống này. Trên đường nên Thánh đó Thánh Giuse cũng là thầy dậy về các nhân đức để thu phục nhân tâm, biến đổi cái tầm thường trở nên phi thường và sống niềm vui trong cuộc sống.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

VỀ MỤC LỤC
ĐI TÌM PHƯƠNG PHÁP RAO GIẢNG TIN MỪNG

 

Thánh Phaolo bảo :"Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ,với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ" (2Tm 4, 2).

Lập trường của giáo hội là không buông xuôi, thất vọng nơi cộng đoàn có những con người, phe nhóm chai lì, tổ chức bất hợp pháp, đêm ngày chìm trong tệ đoan, mặc dù biết chắc nguy hại đến tính mạng, khi dám lên tiếng bênh vực sự thật. Đó là sứ mệnh của hội thánh và mỗi kitô hữu. Thomas Mann nói : “Sự thật có hại còn quý hơn là sự lừa dối hữu ích”. 

Thế giới đang bôi nhọ những giá trị căn bản của con người, bỏ qua giá trị đạo đức, tấn công bằng những đủ mọi cách, xem ra họ thắng thế. Đôi khi làm chúng ta nhụt ý chí, muốn đầu hàng hoặc đồng loã buông theo chiều gió. 

Chủ tịch Fidel Castro có lý khi viết : "Thực ra, điều chúng tôi cổ vũ là sự cự tuyệt, sự từ khước, sự thù ghét hệ thống, thù ghét bất công. Chúng tôi không cổ vũ sự thù ghét giữa người với người, vì thực ra con người là nạn nhân của hệ thống. Nếu phải chiến đấu chống hệ thống, ta hãy chiến đấu chống hệ thống. Nếu phải chiến đấu chống những con người đại diện cho hệ thống ta thù ghét, ta phải chống những con người đại diện cho hệ thống ta thù ghét . Tôi tin rằng ở đây không có sự mâu thuẫn với giáo lý của Thiên Chúa giáo" (Fidel và tôn giáo, CGDT, số 582 tr.7). Như quan điểm của Chúa Giêsu : ghét tội chứ không ghét người có tội. Ngài cũng khiển trách cơ chế, lề luật và giới lãnh đạo Do thái giáo giả hình, lì lợm trong nếp cũ của tội lỗi mà lại che đậy bằng những hình thức giả tạo bề ngoài giống mồ mả tô vôi. Quả vậy, con người đã tạo nên những phe nhóm đóng kín, bao bọc bằng những hàng rào thể lý, văn hoá và tâm lý. Mỗi nhóm đều tự phụ có nền văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo riêng của mình. Nhưng làm thế nào có thể đạp đổ những bức tường đã dựng lên bao  bọc những trái tim, những gia đình, những dòng tộc và dân tộc? Những bức tường này còn vững chắc hơn cả bêtông, xây trên nền sợ hãi.... 

“Paul Claudel là một người vô thần và sống bê tha. Chiều ngày lễ giáng sinh năm ấy, tình cờ ông bước vào nhà thờ Đức Bà thành phố Paris. Tiếng hát của ca đòan qua bài Mangificat trong buổi kinh chiều đã thực sự làm cho ông xúc động, rồi từ đó ông đã ăn năn sám hối quay về cùng Chúa và trở nên một nhà văn công giáo nổi tiếng” (Thánh nhạc ngày nay, số 1, tr. 15). Hay đại văn hào Don. Dostoievski (Liên xô cũ)  lúc sinh thời ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tăm tối ; cuối đời ông đã sám hối và nói với vợ : “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn Tin mừng”. Giáo hội vẫn khẳng định : khoa học và đức tin không phản nhau. Khoa học phục vụ cho đức tin, và đức tin mở đường cho khoa học. Newton đã nói: “tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng”. Nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới là người có đức tin như Newton, Ampère,… 

Vì vậy cần phải có nghệ thuật gieo rắc. Nghệ thuật đó là yêu thương. ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận nói : “Nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Đức Giêsu. Nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Mẹ Maria”. Và Mẹ Têrêxa Calcutta phát biểu : “Để yêu mến một người cần phải tiến tới gần người đó…Tôi không bao giờ săn sóc các đám đông mà chỉ săn sóc các con người cụ thể thôi” (Chúa mang cho con tình yêu, Roma 1979, tr.48). Yêu thương là cách loan báo Tin mừng tốt nhất. Đạo chúng ta là đạo yêu thương, bác ái. Hơn nữa, cũng cần phải nhìn trong viễn tựơng con người ngày càng tự do, tôn giáo ngày càng mở rộng, sợ tương lai không còn đoàn chiên cho mục tử coi sóc, yêu thương gần gũi hay chỉ còn những đoàn chiên, con chiên lạc lõng. Khi ấy con chiên lạc, người tội lỗi lại là ‘động vật quý hiếm’; mảnh đất hoang vu, cằn cỗi lại là những kho báu?! 

Kiên nhẫn gieo rắc những hạt giống yêu thương nhỏ mọn hằng ngày cho mọi người ở mọi môi trường mặc dù hôm nay chưa thấy kết quả gì cả, đó là việc cần làm ngay. Hạt giống ấy phải tốt thực sự và thể hiện một cách phong phú qua từng lời nói, hành vi cử chỉ của chúng ta. Luther King nói : "chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em". "Ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân" (1Ga 3, 15).  

Không phải điều hay điều tốt chỉ nghiêng về tập thể, cộng đoàn, gia đình của tôi, anh chị em con cháu nhà mình,... cũng như hạt giống tốt mà chất đống lại nó sẽ thối mà phải được gieo vãi khắp nơi. Nên việc loại trừ đầu óc cục bộ, phe nhóm, quan điểm lập trường cá nhân bảo thủ, độc tài, độc đoán, độc tôn, độc địa là điều cần làm ngay trước khi gieo giống. Đấy là khâu dọn đất. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng ‘phát triển không bền vững’. Những phe nhóm, giáo phái, tôn giáo bắt ép Thiên Chúa thuộc về cá nhân, tập thể, vùng đất mình để tiêu diệt người khác không đồng quan điểm, tư tưởng, giáo lý với mình, cho nên có đấu tranh, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh nóng,  cuộc chiến tranh lạnh... 

Nhiều khi chúng ta chỉ lo bảo vệ ‘công trình’, ‘lương thực’, ‘thuốc men’...mà không thông truyền,  loan báo những thứ đó cho ai thậm chí còn ngăn cản, gây khó khăn cho người khác. Hoặc nếu có thì dè dặt, bất đắc dĩ....vì sợ mất uy tín, danh dự, tiền bạc, sức khỏe, thời gian. Đó là hình thức làm cho hạt giống bị co cụm lại rồi bị bóp chẹt, chết yểu. Thực tế, giáo hội có thể bị tiếng bảo thủ, độc tài qua những con người để rồi không chấp nhận những cú đột phá, bứt phá ngọan mục trong cách diễn tả, biểu cảm, sáng tạo phát minh, qua mô mình và ngôn ngữ. Lịch sử giáo hội đã xảy ra, nhiều khi thì ra vạ rồi lại giải vạ; kết án rồi lại xin lỗi, trả lại danh dự cho người ta, (như nhà bác học Galilêô, như chuyện linh mục nổi tiếng Frate Savonarole là tu viện trưởng dòng Đaminh tại Florence ( người Ý) đã bị lột áo dòng rồi bị treo cổ và vứt vào dàn hỏa thiêu ngày 23/5/1498 vì bi kịch cá nhân với giáo hòang Alexandre VI mà sau hơn 500 năm, giáo hội làm hồ sơ phong thánh cho ngài (x. Cỏ dại ven đừơng V, Lm. Thiện Cẩm, tr. 170) hay vụ cha Anthony  Mello (tu sĩ dòng Tên, Ấn độ) bị tòa thánh lên án vì tư tửơng Đông – Tây khác nhau; và các thần học gia mới đây cũng vậy,  sau này giáo hội đã nhận ra sai lầm của mình chỉ vì bảo thủ, độc tài. 

Từ lâu rồi, nhà đạo mình vấp phải quan niệm ‘giữ đạo’ nên Lời Chúa  chỉ quanh quẩn trong môi trường giáo hội, phạm vi giáo xứ, cộng đòan mình không cho đi vào các lãnh vực trần thế, đó là điều mà Công Đồng Vatican II đã ước ao hơn 40 năm nay chưa đạt lắm. Con đường mòn ấy vẫn còn thấy có bóng dáng người đi gieo giống tiếp tục lảng vảng. Lệnh truyền của Đức Kitô : Hãy loan báo Tin Mừng khắp thế gian,…cho mọi lòai thọ tạo vì nó cũng ‘đang quằn quại mong chờ ngày được giải thóat  cùng với con cái Thiên Chúa’ xem ra vẫn còn là lý tưởng, sách vở nhiều hơn. 

Vô tình hay cố ý chúng ta trở thành kẻ cản trở, bưng bít Lời Chúa thay vì khai thông bế tắc, mở đường, tạo thuận lợi cho người khác. Isaia có đọan viết lạ lùng “Hỡi những người có phận sự nhắc nhở Đức Chúa, anh em đừng nghỉ ngơi. Cũng đừng để Đức Chúa nghỉ ngơi” (Is 62, 7). Kinh nghiệm thấy, rất tiếc có những hạt giống của Lời làm mất đi những con người, tập thể, phái đòan, khiến họ bức xúc, tức tối, sẵn sàng trả đũa người gieo hạt! Kể cả những lời trong giao tiếp làm tổn thương, xúc phạm, hay hàm ý xấu. Chỉ cần một chút ảnh hưởng của Lời Chúa cũng đủ làm cho người ta thay đổi cuộc sống. Lời Chúa thật phong phú. Lời Chúa mà cạn kiệt không khai thác được nữa thì không phải là lời hằng sống. Bên cạnh đó, Lời Chúa còn có thể đi vào ‘phần cứng’ của mọi lãnh vực trần thế, như : thơ ca, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc, khiêu vũ, kịch nghệ và các phương diện mỹ thuật khác. Tìm được người ‘tiếp thị’, ‘marketing' cho Lời Chúa để nó được thông truyền nhanh chóng hiệu quả, chính xác quả là hiếm. Một số hiệu sách ngoài đời bày bán sách Kinh thánh, truyện cuộc đời Đức Giêsu, phim tôn giáo, vv…Một cách nào đấy cộng tác vào việc hội nhập, gieo rắc Lời Chúa và giáo lý. Tất cả không ngoài ý Chúa. Thiên Chúa đang dùng họ làm người 'tiếp thị'. Tiếc là có những điều họ không nắm vững về đạo. Vậy nếu có những người am hiểu cùng tham gia, để len lỏi hướng dẫn họ gieo trong vùng đất ấy những hạt giống tốt trong ngành nghề : in ấn, đạo diễn, biên tập, phát ngôn viên, cố vấn ....có lẽ sẽ hiệu quả hơn nhiều. Vì “hạt giống gieo vào mảnh đất màu mỡ, sinh hoa kết quả dồi dào gấp trăm” (Tv 64). 

Nhận biết được sứ mệnh cao cả của mình là người được đặt lên để trở thành phát ngôn viên của Lời Chúa trong mọi môi trường, mọi tình huống với tha nhân, nên người tông đồ phải đem lại bình an và động viên người ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân dù lời ấy được nói trong tương quan xã giao bình thường, được gieo ở bất cứ đâu, với bất cứ ai. Cũng không được phân biệt hạng người để rồi đối xử với người ta theo kiểu quá cách biệt. 

“Thật vậy, Nước Thiên Chúa không cốt ở tài ăn nói, nhưng ở quyền năng Thần Khí” (1Cr 4, 20). Xác tín cơ bản ấy dẫn dắt cuộc đời người tông đồ trên hành trình gieo hạt giống. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói : “Thiên Chúa cần một tâm hồn tông đồ chứ không cần việc tông đồ”. Còn  Mẹ Têrêxa Calcutta trong lá gửi thư cho ĐHY Px.Nguyễn văn Thuận có viết: “điều quan trọng không phải là công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công tác”. 

Vì vậy, cần phát hiện xem lọai ‘virus’ nào đáng sợ nhất đang phá huỷ âm thầm, phá hủy nhanh chóng tất cả mọi sự ta đầu tư tích trữ, xây dựng bấy lâu nay của ta.  Nói kiểu tu đức là tìm ra nết xấu cầm đầu. Và cũng giúp cho cộng đòan mình phát hiện, như Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn nói : “Thế nhưng trên thửa đất màu mỡ gia đình (cộng đòan, xã hội...) hôm nay, xuất hiện nhiều loại sâu rầy đe doạ sự tồn tại của những hạt giống ơn Chúa đó là các tệ nạn xã hội, nạn phá thai, bạo hành và li dị mỗi ngày phổ biến hơn. Tiến bước trên con đường của Chúa Kitô, gia đình không những trở nên thửa đất màu mỡ  cho Chúa gieo trồng các hạt giống ơn cứu độ, song gia đình còn trở nên thành trì kiên cố bảo vệ các hạt giống đó khỏi sự tàn phá của sâu rầy, của văn hoá sự chết" (Gia đình sống đạo, CGDT số 1582, tr. 20). Đó là sứ mệnh của người tông đồ phải rao giảng cho người ta biết. 

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

VỀ MỤC LỤC
PHẬT TẠI TÂM, CHUÁ Ở TRONG LÒNG
 

Từ mấy năm gần đây, tôi đã viết nhiều bài liên quan đến vấn đề tôn giáo dấn thân nhập cuộc với xã hội, điển hình như các bài “Tôn giáo và lòng Nhân ái vị tha”, “Tôn giáo dậy chúng ta sự khiêm cung”, “Tôn giáo và Xã hội Dân sự” v.v...Trong các bài viết này, tôi chú trọng đến khiá cạnh tích cực trong vai trò cuả tôn giáo đối với đời sống con người trong xã hội hiện đại. Tuyệt nhiên tôi tránh lối chỉ trích mạt sát, chế diễu những sai lầm nơi bất kỳ các tổ chức tôn giáo nào khác với tôn giáo cuả mình. Như dân gian thường nói : “Tin đạo, chứ không nên nhắm mắt tin người có đạo”, tôi xác tín rằng tôn giáo nào cũng chủ yếu là một con đường dẫn đưa con người tới neỏ Chân, Thiện, Mỹ mà thôi, danh từ Đạo có nghiã là con đường mà! Nhưng vì là con người vốn luôn luôn có những sai sót, bất toàn, cho nên bất kỳ mỗi tín đồ cuả một tôn giáo nào, thì đều có thể phạm những lổi lầm vô tình hay cố ý, phát xuất từ sự yếu đuối thường tình cuả con người sống trên thế gian vốn đày dãy những cạm bãy cám dỗ này. Do vậy mà ta không nên “vơ đuã cả nắm” để mà xác quyết được rằng tôn giáo này, tôn giáo kia chỉ là một thứ xằng bậy, là thứ phản tiến bộ, lạc hậu, hoặc như người cộng sản quá khích cực đoan, vốn xưa nay vẫn coi “tôn giáo là thứ á phiện làm mê hoặc quần chúng”, nên họ đã thẳng tay triệt hạ các tổ chức tôn giáo - mà không hề có đôi chút xót thương luyến tiếc.

 1 - Chúng ta đều biết rằng trong lịch sử cuả nhiều dân tộc trên thế giới đã xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc phát xuất vì lý do tôn giáo. Và chỉ trong vài thế kỷ gần đây, nhân loại đã rút ra được một bài học khôn ngoan là phải đề cao sự bao dung, chấp nhận sự khác biệt cuả con người trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Ngày nay con người đã hiểu biết và thông cảm với nhau nhiều hơn, nên đã thể hiện được tình trạng “Đa dạng Đa nguyên về Văn hóa, về Tôn giáo“ (cultural, religious diversity/pluralism).

 Cụ thể điển hình là Liên Hiệp Quốc đã phát động cả một chương trình hành động nhằm ngăn cản và chấm dứt  “sự bất bao dung, nạn kỳ thị về tôn giáo” (Religious Intolerance / Discrimination ). Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ban hành năm 1948 cũng đã xác định trong điều 18 rằng : “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo...” Đó là một sự tiến bộ dứt khoát và rõ ràng cuả nhân loại từ giưã thế kỷ XX cho đến đầu thế kỷ XXI cuả chúng ta hiện nay.

 2 - Là người có một niềm tin tôn giáo sâu sắc thừa hưởng được từ truyền thống gia đình ngay từ tuổi ấu thơ, rồi sau này khi trưởng thành, tôi lại có duyên được sát cánh gần gũi thân thương với nhiều vị tu sĩ và tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau, thông qua những công tác từ thiện nhân đạo, nên tôi tiếp thu được một tinh thần bao dung, thông thoáng cởi mở trong các sinh hoạt văn hoá xã hội và tâm linh cuả các cộng đồng tôn giáo ở Việt nam cũng như ở ngoại quốc. Cụ thể, vào các năm 1972-74 tôi đã được mời cộng tác với Hội đồng Tôn giáo Thế giới (WCC = World Council of Churches) có trụ sở chính tại Geneva, Thuỵ sĩ. Và nhất là trong mười năm gần đây, tôi luôn sát cánh với Viện Xây dựng Hoà bình Muà hè thuộc trường Đại học Eastern Mennonite University tại Virginia (Summer Peacebuilding Institute SPI/ EMU). Cũng như tham gia sinh hoạt thường xuyên với các nhóm tôn giáo dấn thân hoạt động cho Hoà bình tại thành phố Knoxville tiểu bang Tennessee trong khuôn khổ cuả tổ chức Viện Xây dựng Hoà bình Miền Đông Tennessee (Peacebuilding Institute of East Tennessee PIET). Có thể nói các tổ chức xây dựng Hoà bình này là kết quả cuả sự hợp tác chặt chẽ giưã giới lãnh đạo Tôn giáo và giới Đại học Hàn lâm (Cooperation between Churches and Academy) trong ý hướng góp phần vào công cuộc giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn cuả con người tại khắp nơi trong xã hội ngày nay.

 3 - Nhưng cái kinh nghiệm sâu sắc và bền bỉ nhất cuả tôi sau nhiều năm tháng tiếp cận và làm việc chung với môi trường tôn giáo nhập cuộc với xã hội như đã ghi sơ lược ở trên, thì chính là chiều sâu tâm linh trong đời sống (spiritual life) cuả những vị hoạt động tích cực nhất nơi những tổ chức này. Họ đều có một lối sống thanh thoát, không chút bận tâm đến những chuyện nhỏ nhen, tầm thường cuả thế gian thường tình. Tâm hồn họ như bay bổng lâng lâng trong tình yêu thương gắn bó với mọi người trong cõi nhân sinh, và luôn sẵn sàng hy sinh để tạo dựng hạnh phúc cho đồng loại. Rõ ràng là họ đối xử với mọi người như là anh chị em ruột thịt, vì quan niệm rằng tất cả đều cùng là con cuả một người cha chung, một Thượng Đế vốn hết lòng yêu thương loài người. Họ vừa có trí tuệ sáng suốt, vừa có tâm hồn nhân hậu, sống và làm việc với lý tưởng thanh cao, nhiệt thành. Cái ngọn lửa yêu thương trong sâu thẳm tâm hồn cuả họ luôn tỏa chiếu lan rộng ra nơi môi trường xunh quanh họ (transfer of the flame), và có sức chuyển giao đến tâm hồn cuả quần chúng mà có duyên tiếp cận với họ. Vì thế, tôi có thể nói được rằng những vị này rõ ràng là đã đạt tới được “ Cái Tâm Bồ Tát” theo ngôn ngữ cuả Phật giáo. Mà theo ngôn ngữ cuả Thiên chuá giáo, thì họ đang ấp ủ “Chúa ở trong lòng mình”.

Đó là lý do tại sao tôi đã chọn nhan đề cho bài viết “Phật tại tâm – Chúa ở trong lòng” này được khởi thảo từ cuối năm 2009 và được bổ túc vào đầu năm 2012 hiện nay, nhằm giãi bày tâm sự cuả một người đã tham gia lâu năm với loại “Họat động xã hội dựa vào niềm tin” (faith-based social action) cùng chung với nhiều tín đồ thuộc các khuynh hướng tôn giáo khác nhau.

 4 - Nói về chữ Tâm, thì dân gian ta từ xa xưa vẫn trao đổi truyền khẩu với nhau qua mấy từ ngữ đã thành ước lệ (conventional language) như : “ cái tâm thiện hảo”, “ cái tâm trong sáng”, “cái tâm thanh cao “ v.v... Ngược lại là các chữ : “cái tâm đen tối”, “cái dã tâm”, “cái tâm điạ độc ác” v.v... Văn hào Nguyễn Du đã phát biểu trong câu thơ ở đoạn kết cuả tác phẩm bất hủ Truyện Kiều như sau :

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài “. 

Đây quả là một lời khuyến thiện tuyệt diệu và có tác dụng hết sức sâu sắc, mà lâu dài đối với quảng đại quần chúng, mà ngay cả các vị tu hành lâu năm cũng không thể nào kêu gọi tín đồ hay hơn như thế được. Chính vì chú trọng đến cái phần cao quý trong nhân cách cuả mỗi người như vậy, cho nên cha ông ta mới thường hay nhắc nhủ con cháu là phải cố gắng miệt mài “Rèn Tâm Luyện Chí”, để sau này trở thành con người hưũ dụng cho xã hội, làm rạng danh cho dòng giống nhà mình (ích nhà, lợi nước) vậy. 

 5 - Tại miền Nam Việt nam, ngay từ thập niên 1950 các ấn phẩm trong tủ sách “Học làm người” rất được công chúng tìm đọc, và một trong những tác giả loại sách này mà được nhiều người mến chuộng, đó chính là học giả Nguyễn Hiến Lê. Cụ là người tinh thông cả cổ học lẫn tân học, nên văn phong cuả cụ rất đơn giản sáng suả, mà về nội dung thì lại rất phong phú đề cao sự rèn luyện nhân cách, khai mở trí tuệ. Cụ tham khảo chọn lọc những sách nổi danh ở Âu Mỹ và tìm cách dịch ra Việt ngữ để phổ biến sâu rộng cho số đông độc giả có trình độ học vấn phổ thông.

Sau năm 1975, tôi có duyên được gần gũi tiếp cận khá thường xuyên với cụ và được cụ tâm sự nhắn nhủ với tôi nhiều chuyện, mà tôi xin ghi lại ở đây một điều cốt yếu như sau : “ Tôi đã cố gắng đóng góp hết sức mình vào việc ”Nâng cao Dân trí“ qua những sách báo tôi viết suốt mấy chục năm nay. Nhưng cái việc “Chấn hưng Dân khí” như cụ Phan Châu Trinh kêu gọi, thì còn phải trông chờ nơi nhiều người khác cùng tiếp tay vào nưã, thì mới thực hiện được. Đó là làm sao chuyền được cái ngọn lưả cho thế hệ tương lai con cháu mình, cho nên vấn đề là chính chúng ta phải có được cái ngọn lưả nồng nàn trong tâm hồn cuả mình, thì mới có thể lan truyền sức nóng ấy sang cho thế hệ sau kế tiếp được. Tuổi trẻ cuả các ông còn có nhiều cơ hội để mà làm được cái việc “Dĩ tâm truyền tâm“ như thế đó ...” 

 *Bài viết đến đây kể đã dài rồi, tôi xin chỉ ghi thêm một vài dòng thật ngắn ngủi nữa, đó là thế hệ chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa đến việc phục hồi lại cái truyền thông nhân ái và nhân bản của cha ông ta ngày xưa đã xây dựng được và truyền lại cho con cháu ngày nay. Dĩ nhiên là chúng ta cũng cần phải biết tiếp thu những cái hay, cái đẹp của những nền văn hóa khác nữa – mà ngày nay nhờ sự giao lưu phổ cập dễ dàng trên thế giới chúng ta đều có thể tiếp cận được – để bồi bổ cho cái sản nghiệp tinh thần của dân tộc mình. Có như vậy, thì cuộc sống của dân tộc Việt nam chúng ta ở thế kỷ XXI này mới có cơ trở thành phong phú, thấm đượm “tinh thần dân tộc, nhân bản và khai phóng” – như các bậc thức giả từ lâu đã từng kêu gọi vậy./ 

California, tháng Hai năm 2012

Đoàn Thanh Liêm

 

VỀ MỤC LỤC
PHỤC HỔ
 

Thuở xa xưa lắm rồi tại Ấn Độ, bốn thầy Hindu cùng nhau tiến vào kinh thành để thi thố tài năng hầu để được vua trọng thưởng. Một thầy Hindu bảo, “Chúng ta đã học sâu hiểu rộng, với kiến thức này sẽ có nhiều trọng thưởng, và chúng ta sẽ chia đều phần thưởng cho nhau.” “Không được” một thầy lên tiếng, “không thể chia đồng đều được vì chỉ có ba người trong chúng ta có kiến thức và học vị, còn thầy không có kiến thức khoa bảng không thể nhận phần thưởng bằng như chúng ta.” Nói xong, cả ba vị có học vị nhìn nhau mĩm cười, còn vị thứ tư cúi mặt ngẫm nghĩ thưa, “Đúng vậy, quí vị có kiến thức từ sách vở, nhưng tôi có kiến thức từ những điều bình thường trong cuộc sống.” Một trong ba vị cãi lại, “Ông nên đi học thêm, vì chỉ có kiến thức của ba người chúng tôi mới có thể được nhà vua trọng thưởng.” Vị thứ tư cúi mặt đáp, “Có lẽ ông nói đúng.”

Họ vẫn tiếp tục đi về hướng cung điện nhà vua. Khi đi ngang qua một khu rừng, họ gặp thấy bộ xương khô nằm bên vệ đường. Để chứng tỏ tài năng của mình, một vị Hindu nói, “Với kiến thức của tôi, tôi biết cách sắp xếp lại toàn bộ xương khô này trong trật tự của con vật.” Vị thứ hai đáp, “Với kiến thức của tôi, tôi biết làm cho con vật này có da thịt để bao phủ bộ xương của nó.” Nghe vậy, vị thứ ba lên tiếng, “Kiến thức của tôi hơn tất cả quí vị ở đây. Tôi đã học phép thuật cải tử hoàn sinh; tôi sẽ làm cho con vật này sống lại. Vị thứ tư cũng góp phần, “Với tôi, tôi không có tài năng uyên thâm như quí vị, nhưng với kiến thức thông thường của tôi, tôi biết bộ xương này là bộ xương hổ. Nó sẽ rất nguy hiểm nếu quí vị làm cho nó sống lại trong nơi rừng vắng này.” Cả ba vị kia đều đáp trả, “Đồ ngu, hãy coi tài năng của chúng tôi đây.” Nghe xong, thầy Hindu thứ tư nói, “Nếu quí vị nhất quyết muốn làm cho con hổ sống lại, tôi sẽ leo lên cây cao ngồi xem.” Nói xong, ông tìm cây cao leo lên dù phải chấp nhận sự cười nhạo của ba vị kia.

Quả đúng như tài năng của mỗi thầy Hindu. Thầy thứ nhất ráp xương lại ngay ngắn; thầy thứ hai làm cho bộ xương có da thịt đầy đặn; và thầy thứ ba làm cho con hổ sống lại. Con hổ rống lên một tiếng thật to, ngay lập tức nó tấn công và ăn thịt cả ba thầy Hindu. Thầy thứ tư an toàn trên cây cao nhưng lòng đau xót cho các bạn của mình vì họ quá nông nỗi háu thắng mà mất mạng giữa đường.[1] 

* * *

Chúng ta đã cùng nhau học hỏi những đề tài khác nhau trong mục Sống Sao Cho Đẹp. Hôm nay mục Sống Sao Cho Đẹp cùng mời bạn học hỏi về chủ đề khiêm tốn. Với hy vọng rằng, suy niệm và học hỏi đức tính khiêm tốn sẽ giúp mỗi chúng ta thêm trưởng thành hơn, khôn ngoan hơn, và bình an trong những ngày sắp tới của đời mình.

Theo tự điển Merriam-Webster, từ “khiêm tốn” trong tiếng Anh (humility) được bắt nguồn từ tiếng Latin, “humilis” nghĩa là “thấp;” “humus” nghĩa là “đất.” Như thế, khiêm tốn (humility) tức là nhận ra tình trạng thật của mình – vốn dĩ là đất bụi.

Trong trang đầu sách Kinh Thánh cũng diễn đạt ý tương tự, tổ tông của loài người có tên gọi Adam. Danh từ “Adam”  được xuất phát từ danh từ “adamah” (ădāmâ) (Gn 2:7; 3:19), theo tiếng Hebrew, nghĩa là “đất.” Nói tóm lại, con người dù có thông minh tài trí tới đâu, vốn dĩ mình cũng chỉ là cát bụi. Thêm nữa, theo triết lý nhà Phật, “Khiêm tốn là hạ mình xuống…Khiêm tốn là hạnh người tu phải học suốt đời.”[2] 

Theo ông William Temple, “Khiêm tốn không có nghĩa là cho mình thấp hèn hơn người khác, và cũng không có nghĩa là hạ thấp những tài năng của chính mình. Nhưng khiêm tốn là sống tự do như chính mình là và cũng nghĩ về người khác với sự tự do mình đang hưởng vậy.” [3]

Thực vậy, chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn, không phải vì nhờ danh từ khiêm tốn mà làm cho chúng ta thêm hay, thêm đẹp. Nhưng thực ra khi chúng ta tập và thực hành sống khiêm tốn, ta tìm lại chính giá trị thật của con người; chính khi tìm ra giá trị thật của con người mình, con người ta trở nên đẹp, nên hay, và nên người hơn. Đúng như ông William Temple định nghĩa về đức khiêm tốn, khiêm tốn không có chuẩn để so sánh. Khiêm tốn không có nghĩa là tôi phải khiêm tốn “hơn” người kia, hay ngược lại người kia phải khiêm tốn “hơn-thua” ai đó. Nếu còn dựa theo chuẩn “hơn – thua” để học hỏi về khiêm tốn, thì chừng đó ta vẫn chưa thực sự hiểu về khiêm tốn. Khiêm tốn mời gọi ta nhận thức đúng về chính ta – ta như ta là. Câu hỏi được đặt ra: ta là ai mà nói như ta là? Khởi đầu của sự khiêm tốn chính là đặt câu hỏi về cội nguồn của chính mình. Càng đi ngược lại và sâu hơn về con người mình, mình sẽ dần dần sẽ nhận ra mình là ai – mình thực sự là ai!

Câu chuyện Phục hổ cho ta thấy, nếu mình biết mình là ai, khả năng tới đâu, giới hạn những gì, ta sẽ ít “hơn thua” với nhau hơn, ta sẽ khôn ngoan hơn, và ta sẽ tránh những phiền phức không đáng xảy đến cho ta hơn.

Mời bạn cùng tôi tập sống khiêm tốn bằng việc nhìn lại cội nguồn của mình ngay hôm nay nhé!

Br. Huynhquảng

VỀ MỤC LỤC
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (6)

 

NGUYỄN HỌC TẬP 

   1 - Những hiểu biết mới của Công Đồng Vatican II.

Những hiểu biết mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II là những lý chứng quyết định về phương diện thần học cho phương hướng mới Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, trước những biến chuyển sâu đậm của xã hội đang đòi hỏi.

Công Đồng Vatican II đạt đến những hiểu biết thần học mới về vai trò của người tín hữu giáo dân và đặc tính tự lập của các thực tại trần thế, mà trong Thông Điệp Rerum Novarum ( 1891) chỉ mới được thoáng thấy như là mầm mống và dần dần mỗi ngày càng tăng trưởng lên qua các giai đoạn " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ". 

Thật vậy Công Đồng Vatican II đã vượt qua quan niệm " Giáo Hội phẩm trật " ( Église cléricale), trong đó người tín hữu giáo dân không có bất cứ một quyền gì,

- ngoài ra " quyền phải để cho mình được dẫn dắt và dễ dạy như đoàn chiên, đi theo các mục tử của mình " ( ĐTC Pio X, Vehementer (11.02.1906), in Tutte le encicliche dei sommi Pontefici ( cit., 561).

Tức là người tín hữu giáo dân phải thụ động tuân theo các chỉ thị của giáo quyền ngay cả trong lãnh vực xã hội, bởi lẽ họ được coi như là

   - " những thành phần trợ lực phụ giúp của Giáo Hội " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo anno ( 15.05.1931), n. 152, in CERAS, 113).

Sau khi xác nhận trách nhiệm và đặc tính tự lập của người tín hữu giáo dân trong cuộc sống chuyên cần dấn thân giữa trần thế, trong Thông Điệp Mater et magistra (1961), ĐTC Gioan XXIII đề cập đến sự kiện " phải bước đến hành động ",

   - " bổn phận nhứt là của các con cái giáo dân ( ...) bởi đặc tính cuộc sống của họ " ( ĐTC Gioan XXIII, Maer et magistra (15.05.1961), n. 240, in CERAS, 273).

Bởi đó, ĐTC tiếp theo, bởi đó người tín hữu giáo dân không những chỉ phải là những người có thẩm quyền khả năng ( competenti ) trong nghề nghiệp của mình, nhưng

   - " họ còn phải tác động trong các lãnh vực trần thế theo lề luật liên hệ đến bản tính nội tại của các sự việc đó, để đạt đến một cách hữu hiệu mục đích nhằm đến " ( id., n.241, in CERAS, 273), trong khi hành động hợp với lương tâm được giáo dục đúng đắn và với Giáo Huấn của Giáo Hội.

Bởi đó, người tín hữu giáo dân, đối với các lãnh vực trần thế, phải tôn trọng đặc tính trần thế của các sự viêc mà trong đó mình phải tác động. 

Ba năm sau, trong Thông Điệp Pacem in terris ( 1963), ĐTC Gioan XXIII xác nhận tính cách tự lập chính đáng của người tín hữu giáo dân trong các chuyên cần động tác xã hội, đến độ cần phải ủy thác cho phán đoán của lương tâm họ về việc nên hay không nên cộng tác với những ai không tin hay ai có hay theo khuynh hường quan niệm sai lạc về lịch sử: 

   - " Quyết định đó - Thông Điệp Pacem in terris nhấn mạnh - trưóc tiên thuộc về thẩm quyền của những ai sống và hành động trong những lãnh vực cá biệt của cuộc sống chung, trong đó phát sinh ra những vấn đề ", dĩ nhiên là luôn luôn phải trung thành và ngoan ngoản vâng theo lời huấn dạy của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris ( 11.04.1963), n. 160, in CERAS, 328).  

Đến đây thì ĐTC Gioan XXIII thiết định một nguyên tắc quan trọng về việc " đối thoại " phổ quát mà Giáo Hội và mọi Ki Tô hữu được mời gọi hãy thực hiện

- " Chúng ta đừng nên lầm lẫn giữa sự sai lạc và người lầm lỗi, ngay cả khi có liên quan đến việc sai lạc hay sự hiểu biết không đầy đủ về chân lý trong lãnh vực luân lý và tôn giáo ( ...) nói đùng hơn, những cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau, trong những lãnh vực trần thế khác nhau, giữa người tín hữu và người không tin hay người tin một cách không đúng đắn, bởi vì họ tuân theo những điều sai trái, những cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau đó có thể là những cơ hội để khám phá ra đâu là chân lý và làm vinh danh cho chân lý " ( id., n 158, in CERAS, 327).  

Đức Thánh Cha kế  tiếp sẽ làm cho các lời dẫn nhập thần học và mục vụ  nầy  của ĐTC Gioan XXIII trở thành  nền tảng của sự đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới đương thời.

ĐTC Gioan XXIII mở đường, ĐTC Phaolồ VI dành Thông Điệp đầu tiên của triều đại ngài, Ecclesiam suam (1964), cho việc đối thoại.

Công Đồng Vatican II xác nhận một cách long trọng việc lựa chọn đó trong Hiến Chế Gaudium et spes ( 1965).

Và ĐTC Phaolồ VI tuyên bố:

   - " Giáo Hôi phải gặp gỡ đối thoại với thế giới, mà trong đó mình đang sống. Giáo Hội nói lên tiếng nói của mình, Giáo Hội loan truyền sứ điệp của mình, Giáo Hội trở thành chủ thể đối thoại " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV 11/192).

Và Công Đồng Vatican II lập lại như là tiếng dội, những gì ĐTC Phaolồ VI đã xác nhận trong Thông Điệp:

   - " Giáo Hội không thể nào chứng minh hùng hồn hơn được bằng tình liên đới, lòng kính trọng và tình yêu thương đối với cả gia đình nhân loại, mà trong đó Giáo Hội được hội nhập, hơn là thiết lập nên một sự đối thoại với gia đình nhân loại đó " ( Gaudium et spes, n. 3, in EV 1/1322).

ĐTC Phaolồ VI còn nhấn mạnh thêm:

   - " Giáo Hội phải sẵn sàng để trợ lực sự đối thoại với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, trong cũng như ngoài lãnh vực của Giáo Hội. Không ai là người xa lạ đối với tình yêu thương của Giáo Hội. Không ai là người vô thưởng vô phạt đối với sứ mạng của Giáo Hội. Không ai là kẻ thù của Giáo Hội, mà không phải chính họ muốn như vậy ( ...) Nhu vậy chính con người đang tìm hiểu về chính mình và thế giới, chúng ta có thể thông giao với họ " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV II/200).

Đó chính là tư tưởng tạo nên tiếng dội có uy tín trong Công Đồng Vatican II:

   -" Đối với chúng tôi, lòng ao ước thiết lập nên sự đối thoại, được lòng yêu mến chân lý gợi ý ( ...) không loại trừ bất cứ một ai; cả đối với những ai tôn trọng những giá trị cao cả của con người, mặc dầu họ vẫn chưa nhận thức được những giá trị đó, ngay cả đối với những ai chống lại Giáo Hội và bách hại Giáo Hội với nhiều phương thức khác nhau " ( Gaudium et spes, n. 92, in EV I/1642). 

ĐTC Phaolồ VI không ngần ngại nhận biết rằng trong thế giới hiện đại có những giá trị chính đáng, phổ quát, không xa lạ gì đối với Phúc Âm

   - " Chúng ta cùng có chung với cả nhân loại thiên nhiên, nghĩa là đời sống với tất cả các ơn sủng của nó, với tất cả những ván đề của nó " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV II/201).

Tư tưởng vừa kể cũng tạo nên tiếng dội trong Công Đồng Vatican II:

   - " Giáo Hội không khước từ những gì mình đã nhận được từ lịch sử và tiến bộ của nhân loại, Giáo Hội có thể thu nhận những điều đó làm kho tàng gia sản của mình, và Giáo Hội thực hiện như vậy. Giáo Hội thu nhận làm kho tàng gia sản của mình sự phát triển đời sống xã hội. Hành xử như vậy, không phải vì Giáo Hội tự bản thể của mình thiếu thốn đi một cái gì đó không được Chúa Ki tô ban cho, nhưng là thu nhận để hiểu biết được sâu đậm hơn, để diễn giải một cách sâu đậm hơn những gì được Chúa cho tự bản thể và áp dụng có hiệu quả hơn cho các thời đại chúng ta " ( Gaudium et spes, n. 44, in EV I/1462).    

   2 - Ý nghĩa mới về Xã Hội của Giáo Hội.

Qua những gì chúng ta đề cập ở trên, chúng ta có thể hiểu được phương thức mới của Giáo Hội được áp dụng cho Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội 

Mặc dầu ĐTC Gioan XXIII vẫn còn dùng cách phát biểu " huấn dụ xã hội của Giáo Hội ", nhưng không còn cùng một ý nghĩa như những vị tiền nhiệm ngài.

Thông Điệp Mater et magistra  rõ ràng đưa ra một thể thức khác để đề cập đến " vấn đề xã hội ", bởi lẽ vấn đề đã thay đổi sâu đậm.

Tiến trình thành hình những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phát sinh từ phương thức diễn dịch ( deduttivo ) nữa, tức là dựa trên những nguyên tắc thượng đẳng về luật tự nhiên và mạc khải, qua phương thức diễn dịch để rút ra một khuôn mẫu " xã hội Ki tô giáo ", như là " con đường thứ ba " thay thể cho khuôn mẫu các ý thức hệ khác.

Đức Thánh Cha Gioan XXIII bắt đầu dùng phương thức quy nạp ( induttivo ), trong đó tiến trình cấu trúc huấn dụ gồm ba giai đoạn:

   - khám phá ra những hoàn cảnh, hiện trạng mới,

   - xác định giá trị những biến cố đó trong ánh sáng các nguyên tắc Phúc Âm và theo những định hướng của giáo quyền,

   - tìm kiếm và xác nhận những gì có thể và phải làm.

Nói một cách ngắn gọn, đó là cần phải :

   - " nhận thức, phán đoán và hành động " ( ĐTC Gioan XXIII, Mater et magistra ( 15.05.1961), n. 236, in CERAS, 272). 

Hai năm sau, Thông Điệp Pacem in terris là văn kiện đầu tiên về xã hội áp dụng phương  thức mới, phương thức quy nạp.

Khởi điểm của Thông Điệp không được cấu tạo nên bằng những nguyên tắc lý thuyết về quyền tự nhiên và mạc khải, mà được khởi điểm từ những gì Giáo Hội nhận thấy từ " các dấu chỉ thời đại " ( signa temporis).

Dĩ nhiên lời Chúa và các lời huấn dạy của Giáo Hội vẫn luôn luôn là định điểm quy chiếu  đê " giải thích " các thách thức cho đức tin, được gây ra bởi những thay đổi xã hội và để soi sáng cho các việc lựa chọn chính đáng cần phải thực hiện.

Như vậy tiến trình để kiến tạo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phải theo phương thức diễn dịch nữa, mà là áp dụng tiến trình quy nạp: nhìn thấy, phán đoán và hành động. 

Phương thức quy nạp vừa kể cũng được Công Đồng Vatican II áp dụng trong lãnh vực xã hội, trong tiến trình soạn thảo Hiến Chương Mục Vụ Gaudium et spes ( 1965), và cũng được ĐTC Phaolồ VI dùng đến trong Thông Điệp Populorum progressio ( 1967).   

Một vài năm sau đó, trong Thông Điệp Octogesima adveniens ( 1971), được viết lên nhân dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp xã hội đầu tiên Rerum novarum ( 1891), ĐTC Phaolồ VI quy định một cách rõ ràng phương thức quy nạp trong lãnh vực huấn dạy về vấn đề xã hội của Giáo Hội, sau Công Đồng Vatican II:

   - " Các cộng đồng Ki Tô giáo có bổn phận

        * phân tích một cách khách quan hoàn cảnh xứ sở của họ,

        * làm sáng tỏ các hoàn cảnh đó trong ánh sáng bất di dịch của Phúc Âm, múc lấy các nguyên tắc suy tư , tiêu chuẩn để phán đoán và định hướng để hành động trong lời huấn dạy xã hội của Giáo Hội ( ...)

       * xác định, với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, cùng thông hiệp với các Giám Mục đặc trách, và trong việc đối thoại với các anh em Ki tô hữu khác và với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, đâu là những điều phải lựa chọn và chuyên cần dấn thân để tác động chuyển hoá xã hội, chính trị và kinh tế " ( ĐTC Phaolồ VI, Octogesima adveniens ( 14.05.1971), n.4, in EV IV/ 717 ). 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cũng dùng từ ngữ " huấn dụ xã hội của Giáo Hội ", nhưng không ai có thể nghi ngờ về ý nghĩa mà ngài hiểu đối với cách phát biểu đó, hoàn toàn tiếp nối với định nghĩa được ĐTC Phaolồ VI nói lên, mà chúng ta vừa trích dẫn.

Thật vậy, trong Thông Điệp Sollecitudo rei socialis ( 1987), ĐTC Gioan Phaolồ II xác nhận

   - " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội " không phải là " con đường thứ ba" giữa tư bản tự do và tập thể mác xít và cũng không thể là phương thức để thay thế cho những giải pháp ít cực đoan hơn đồi nghịch nhau. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là một phương thức tự lập riêng biệt " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 41, in EV X/ 2669). 

Như vậy định nghĩa của ngài về Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng là huấn dụ theo phương thức quy nạp, đã được ĐTC Gioan XXIII nêu lên trước đó, được Công đồng Vatican II áp dụng và được ĐTC Phaolồ VI định nghĩa rõ như chúng ta vừa thấy ở trên.   

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, Thông Điệp Sollecitudo rei socialis nói tiếp, gồm trước tiên là khám phá ra " các dấu chỉ thời đại ", hay " nhận thức được " nói như ĐTC Gioan XXIII. Đó là

   - " diễn tả ra một cách cẩn thận các kết quả một việc suy tư có cân nhắc về các thực trạng phức tạp cuộc sống con người, trong xã hội và trong bối cảnh quốc tế, dưới ánh sáng đức tin và truyền thống Giáo Hội ";

   - kế đến, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội gồm ở việc " phán đoán ". Thật vậy, " mục đích chính của thái độ chuẩn định phán đoán đó, đó là giải thích các thực tại vừa kể, duyệt xét xem những thực tại đó thích hợp hay không thích hợp với các đường hướng huấn dạy của Phúc Âm về con người và về ơn gọi trần thế và thiêng liêng của con người ";

   - sau cùng là " hành động ". Thật vậy, quan sát để hiểu biết các " dấu chỉ thời đại " dưới ánh sáng Phúc Âm và lời huấn dạy của Giáo Hội, để " định hướng tác động " các công đồng Ki Tô hữu. Điều đó được ĐTC Gioan Phaolồ II giải thích, bởi vì chúng ta có thể nói rằng

   - " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội thuộc về (...) không phải lãnh vực ý thức hệ, mà là thuộc lãnh vực thần học và nhứt là thần học luân lý " ( id.). 

Như vậy, chúng ta hiểu được đã đến lúc đề cập đến một loại Huấn Dụ Xã Hội mới của Giáo Hội,

   - sau khi các ý thức hệ  đã sụp đổ,

   - cũng như với hiện trạng toàn cầu hoá đang tiến trình trong thời đại chúng ta,

   - và với những hiểu biết quan trọng mới về tín lý và  mục vụ của  Công Đồng Vatican II.  

Như vậy, trong những thập niên sau cùng của thế kỷ chúng ta, thời kỳ đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới đương thời đã bắt đầu.

Thời điểm tách rời, đóng kín, gảy đổ, gián đoạn, " dứt phép thông công " đã chấm dứt, cũng như ký ức về một " Ki Tô giáo bị mất đi " cũng không còn.

Từ nay Giáo Hội đang hướng về sứ mạng Phúc Âm hoá ngàn năm thứ ba . 

 

VỀ MỤC LỤC
THAM GIA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC  LÀ CÁCH DUY TRÌ, NUÔI DƯỠNG VÀ CANH TÂN VIỆC TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ

 

Mời thăm Blog của Lm. Trần Minh Huy http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/

Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG SÁU 

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC 

(kết thúc tác phẩm)

 

G. THAM GIA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC  LÀ CÁCH DUY TRÌ, NUÔI DƯỠNG VÀ CANH TÂN VIỆC TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ

 

G.1 Yêu sách của Huấn quyền về thường huấn linh mục 

Các thẩm quyền Giáo Hội rất đặt nặng việc đào tạo và tự đào tạo thường xuyên này, chẳng hạn:

  • Sứ Vụ và Đời sống Linh Mục dành trọn chương III, số 69-92, để nói về việc đào tạo thường xuyên này như “một bổn phận và quyền lợi chính đáng của linh mục… và của Hội Thánh”, phù hợp với “mục đích cơ bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng,”[1] mà “không ai có thể thay thế được linh mục trong việc canh chừng chính mình” (x. 1 Tm 4, 16).[2] 

  • Trong khi đó Tông Huấn Pastores Dabo Vobis cũng dành trọn chương VI, số 70-82, để nói về việc đào tạo thường xuyên này của linh mục, như “sự tiếp tục tự nhiên và tuyệt đối cần thiết của tiến trình xây dựng nhân cách của linh mục, vốn đã được khởi sự và phát triển từ trong chủng viện.”[3]

  • Còn Optatam Totius khuyến cáo rằng “việc đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện đại, cần phải được tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã hoàn tất chương trình đào tạo trong chủng viện.”[4]

  • Ngoài ra, Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis số 100-101 mô tả việc đào tạo hậu chủng viện, “cách riêng trong những năm đầu tiên sau khi chịu chức… để các linh mục mới ra trường có thể được trang bị tốt hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện các bổn phận của người tông đồ.[5]

  • Và Tông Huấn Ecclesia in Asia mở ra một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Đức Kitô, các Giám mục và linh mục cần một sự đào tạo chắc chắn và thường xuyên, có thể cung ứng những cơ hội khả dĩ cho một cuộc canh tân thiêng liêng và mục vụ[6]

  • Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực hiện lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề “đào tạo tiếp tục cho các linh mục Á Châu.”[7]

  • Chỉ Nam Cho Thừa tác vụ và Đời sống linh mục 1994 của Bộ Giáo sĩ dành cả chương III để bàn về việc huấn luyện thường xuyên các linh mục, trong mọi phương diện tuổi tác, khả năng, hoàn cảnh sống và phận vụ mục vụ.[8]

 

G.2 Những năm đầu đời linh mục 

Đây là giai đoạn cho người mới chịu chức linh mục dần dần đi vào đời sống linh mục thực sự, hay nói cách khác là sống linh mục: Càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục hơn. Việc chịu chức linh mục khép lại giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo ở chủng viện, nhưng lại mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn đào tạo và tự đào tạo thường xuyên kéo dài suốt đời của linh mục: “Việc huấn luyện không bao giờ được xem như chấm dứt, cả về phía Giáo Hội trao ban lẫn về phía thừa tác viên nhận lãnh.”[9] Các linh mục trẻ tự trắc nghiệm mình giữa cái học có tính cách lý thuyết hàn lâm và sự thực hành trong các thực tại của đời sống sứ vụ của họ.[10]  

Giai đoạn đào tạo và tự đào tạo này nhằm mục đích giúp các linh mục trẻ chu toàn cách trung thành và vui tươi sứ vụ của họ trong những hoàn cảnh khác nhau, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu và cám dỗ cả bên trong lẫn bên ngoài. Những mối tương quan tốt lành, hài hoà, quân bình và trưởng thành được điều chỉnh và thăng tiến mỗi ngày, với chính mình, với thiên nhiên, với tha nhân, nhất là với những người khác phái, là những phương tiện nhân loại. Tương quan thân mật với Thiên Chúa, sự trung thành với cam kết của mình khi chịu chức, với đời sống cầu nguyện và với sứ vụ, lòng tôn sùng kiên trì và nhiệt thành với Chúa Giêsu Thánh Thể, Thánh giá và Mẹ Maria là những phương tiện siêu nhiên. Những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên này sẽ thực sự bảo đảm cho sự thành công và lòng trung thành của linh mục.  

Các linh mục trẻ sẽ thi hành sứ vụ trong một thế giới đang thay đổi của nền văn minh khoa học kỹ thuật, của chủ nghĩa tục hoá và hưởng thụ, của thần học giải phóng, của việc đề cao phẩm giá phụ nữ. Vì thế, việc đào tạo và tự đào tạo thường xuyên phải được nhấn mạnh và thực hành nhiều hơn; nó sẽ giúp họ được trưởng thành trong suy nghĩ, trong việc tự mình quyết định và hành động, cũng như trong mọi lãnh vực đời sống. Họ cũng phải làm việc trong sự hợp tác với mọi người trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Vì thế, họ cần được đào tạo thích hợp và phải tự mình điều chỉnh và thăng tiến các mối tương quan hài hoà, quân bình và trưởng thành với Thiên Chúa, với chính mình, với thiên nhiên và với người khác, nam cũng như nữ, giáo dân hay tu sĩ. 

Do đó, “việc huấn luyện này phải bao gồm và hòa hợp mọi khía cạnh, nghĩa là nó phải nhằm giúp linh mục phát triển nhân cách con người đã chín mùi trong tinh thần phục vụ kẻ khác, dầu đang nắm chức vụ gì; giúp linh mục được đào tạo về mặt trí thức, cả trong các khoa học tự nhiên lẫn trong các khoa học nhân văn, trong mức độ liên quan đến thừa tác vụ của mình, ngõ hầu linh mục chu toàn phận vụ làm chứng đức tin một cách hữu hiệu hơn; giúp linh mục có được một đời sống thiêng liêng sâu xa, được nuôi dưỡng bằng tình thân mật với Đức Giêsu Kitô và bằng tình yêu Giáo Hội; giúp linh mục chu toàn thừa tác vụ mục vụ với nhiệt tình và nhiệt tâm.”[11] 

Các đề tài bàn luận như Thần học cơ bản, Tín lý, Luân lý, Thánh Kinh, Phụng vụ, Giáo luật, Đại kết... không được mang tính tranh luận, thuần túy lý thuyết hoặc thông tin, nhưng phải khuyến khích một sự huấn luyện đích thực, nghĩa là khuyến khích cầu nguyện, hiệp thông và làm việc mục vụ... liệu sao cho các văn kiện của huấn quyền được đào sâu chung với nhau dưới sự hướng dẫn của một nhân vật có thẩm quyền, để đưa tới sự thống nhất giải thích và thống nhất chương trình hành động mục vụ trong giáo phận.[12]

 

G.3 Những năm về sau cao tuổi cuộc đời linh mục 

Các linh mục sau nhiều năm thi hành thừa tác vụ cần được khuyến khích, đề cao giá trị vai trò và đào sâu hơn việc huấn luyện mình trong mọi chiều kích để duyệt xét lại chính mình và công việc mình làm, hầu làm sống dậy các động lực của thừa tác vụ thánh... Các vị nầy cần đến sự hiệp thông linh mục và tình bạn của Giám mục để lướt thắng những kinh nghiệm mệt mỏi, thất vọng, cô đơn... hầu tìm lại được những nguồn mạch sâu thẳm của linh đạo linh mục.[13] 

Các linh mục cao niên tìm “xác nhận lại một cách thư thái và ôn hòa vai trò mà các ngài còn được mời gọi nắm giữ trong linh mục đoàn... để tự thấy mình còn hữu dụng như làm cha giải tội kinh nghiệm, linh hướng, chia sẻ kinh nghiệm, khích lệ, đón tiếp, lắng nghe và trấn tĩnh anh em đồng sự.”[14] 

Các linh mục ở vào một hoàn cảnh suy yếu thể lý hay mệt mỏi tinh thần, cô đơn, thất vọng cần được khích lệ tiếp tục phục vụ Giáo Hội một cách bình thản và can trường, nêu chứng từ ghi dấu thánh giá, cam chịu trong hy vọng và niềm vui Vượt Qua (x. Col 1,24).[15] Trách nhiệm của Giám mục và linh mục đoàn là phải tránh sự cô đơn nảy sinh do sự chểnh mảng tình hiệp thông linh mục đối với các anh em đó.[16]

 

G.4 Hoạt động tương tác giữa các thành phần liên hệ 

Trong lãnh vực được đào tạo và tự đào tạo thường xuyên này, chúng ta có thể mở rộng có hiệu quả hơn nữa việc tương trợ tinh thần, thăm viếng động viên, góp ý chỉ bảo và đào tạo, trong đó có các nguồn lực kiến hiệu này:

  • Các cha giáo Đại Chủng Viện được phân phối đến thăm các linh mục cựu sinh viên tại môi trường mục vụ để nâng đỡ, thúc đẩy, phối hợp và điều chỉnh cái học lý thuyết trong chủng viện và cái thực tiễn trong sứ vụ mục vụ giáo xứ;

  • Các linh mục cựu sinh viên lớn tuổi và hưu trí có rất nhiều kinh nghiệm mục vụ giáo xứ cũng như những từng trải trường đời chia sẻ, hướng dẫn, cảnh báo, đào tạo và nâng đỡ đàn em, không những khi đàn em tới chỗ mình, mà cả khi các ngài về thăm chủng viện hoặc Bề trên chủng viện mời đến chia sẻ với các em chủng sinh những kinh nghiệm thực tiễn tích cực lẫn tiêu cực. Chính những kinh nghiệm thành công nhờ đâu và những thất bại do đâu và tại sao đó là những bài học qúy báu trong công cuộc đào tạo và tự đào tạo của đàn em;

  • Chính những hoạt động tình nghĩa này của các cha giáo và các cha đàn anh cựu sinh viên xuất thân cùng chủng viện đã để lại nhiều dấu ấn và tình cảm sâu xa không những nơi các đàn em, mà còn nơi lòng của một số đông các giáo phẩm và giáo sĩ khác.

  • Các thành viên giáo dân trình độ và trưởng thành vốn là nhưng cựu chủng sinh sẽ thẳng thắn mạnh dạn nói lên những điều tai nghe mắt thấy và lòng cảm nhận, những kiểm chứng dư luận chung quanh để giúp các thành viên linh mục phát huy điều tốt, chỉnh đốn điều chưa tốt; cũng như những góp ý tích cực và các hoạt động đa dạng của họ.

  • Không phải bất cứ ai vào Đại chủng viện đều nhất thiết phải làm linh mục, vì Chúa gọi nhiều nhưng chọn ít. Điều quan trọng là cần tôn trọng và coi những người ra đi là không thích hợp với chức linh mục vì Chúa có chương trình khác của Ngài cho họ, chứ không phải bị đuổi, bị loại vì lỗi lầm xấu xa nào đó làm tổn thương tình cảm và danh dự của họ. Chính các cựu chủng sinh này là một vốn rất quí của Giáo Hội trong sứ mệnh tông đồ giáo dân. Khi cầu nguyện cho nhau và gặp gỡ sinh hoạt, chia sẻ cùng nhau các biến cố vui buồn của nhau: các gia đình giáo dân cựu chủng sinh này giúp nhau trong công việc làm ăn và sống Đạo, tạo cơ hội cho con cái quen biết nhau, cổ võ ơn gọi tu trì và ơn gọi hôn nhân, làm tiếp nối và mở rộng tinh thần gia đình Chủng viện và Giáo phận, có thể hỗ trợ tài chánh cho cả việc đào tạo chủng sinh và các công trình khác của Giáo Hội: “Dập dìu kẻ trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung.”

  • Các chủng sinh trong các kỳ nghỉ dài đến ở với các đàn anh linh mục để học hỏi kinh nghiệm mục vụ và phục vụ các ngài, đồng thời được các ngài bảo ban dạy dỗ và giúp đỡ, vừa tinh thần vừa vật chất cần thiết trong thời gian tu học (tôi nhớ lại kinh nghiệm này với lòng biết ơn sâu xa các cha đàn anh ngày tôi còn là chủng sinh).

 Như vậy, chúng ta có thể nói vượt lên khủng hoảng và tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục là một bạo lực ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục quá khứ trong con người mình, để cuối cùng được sinh ra trong con người tu: “Anh em hãy mặc lấy con người mới đã được Đức Kitô Phục Sinh biến đổi” -  “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới đã có đây rồi[17] Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, thay đổi tâm thức, thay đổi lối sống và cuộc sống: “từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.”[18]  

Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến trình lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân loại theo hướng biện chứng pháp. Biện chứng pháp dẫn ta từ đối chọi chính đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Chúng ta sẽ không dừng lại ở hợp đề ấy, mà biến nó trở thành một chính đề mới đòi hỏi một phản đề mới tương ứng; sự cọ xát này sẽ phát sinh một hợp đề mới. Từ hợp đề mới này, chúng ta lại có một biện chứng mới, và cứ như thế chúng ta sẽ có tiến bộ và trở thành mới luôn. Cũng thế, mỗi một đổ vỡ hay khủng hoảng lại mở ra một khởi đầu mới: bắt đầu, lại bắt đầu...  

Muốn cho việc tái định hướng đời sống và sứ vụ này thành công, chúng ta cần kết hiệp mật thiết với Chúa và luôn khẩn cầu Chúa ở lại với chúng ta, ngõ hầu được như thánh Phaolô khẳng định: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi nữa, mà là Đức Kitô sống trong tôi[19] Chúng ta phải nhìn vượt qua bên kia, phía sau những sai lầm thiếu sót, để thấy được lòng nhân hậu thương xót cũng như kế hoạch cứu độ của Chúa, Đấng có thể biến cải điều xấu thành điều tốt, có thể rút ra cái tốt từ cái xấu: mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai, như ĐGH Alexander nói: “Bản chất con người là lầm lỗi và bản chất Thiên Chúa là tha thứ.” Tận dụng ơn Chúa để vượt lên khủng hoảng, tái định hướng lại đời sống và sứ vụ linh mục của mình, tin tưởng rằng nhờ ơn thanh tẩy của Chúa, mình lại kiên trì làm chứng tá đức tin và đức ái mạnh mẽ hơn nữa trước mặt mọi người:

Đây linh mục, những con người thánh hiến

Suốt cuộc đời làm chủ tế trung kiên

Đem tình thương người mục tử nhân hiền

Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.

Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt

Lãnh nhận rồi phân phát cả cho dân

Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần

Chờ đợi chủ tay cầm đèn sáng rực.

Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức

Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya

Miễn làm sao kịp khi Chủ trở về

Mở ngay cửa nghêng đón Người vội vã.

Vinh tụng Chúa Cha vua trời cao cả

Cùng Chúa Con đấng chuộc tội cứu đời

Và Thánh Thần lửa yêu mến sáng soi

Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi.

                        Thánh Thi Kinh Sáng Thánh Mục Tử. 

Chúng ta hạnh phúc cám ơn Chúa vì thời đại chúng ta đang sống đã có một năm thánh đặc biệt, năm cầu nguyện của linh mục, cầu nguyện với linh mục và cầu nguyện cho linh mục. Là linh mục hiện thể hay năng thể, chúng ta đều luôn biết ơn Chúa, biết ơn Giáo Hội, biết ơn các Bề Trên trong Giáo Hội về những năm tháng dài chúng ta được đào tạo, về hồng ân thiên chức linh mục, về tình huynh đệ bí tích linh mục, về đời sống và sứ vụ linh mục mà chúng ta đã, đang và sẽ nhận lãnh, và dù giữa bao nhiêu thăng trầm khó khăn, yếu đuối của phận người, chúng ta sẽ luôn cố gắng sống tốt, nghĩa là chúng ta nhìn nhận Giáo Hội đã làm cho chúng ta quá nhiều, nếu không muốn nói là tất cả, và chúng ta có bổn phận đền đáp bằng chứng tá đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta để nhiều người được cứu độ và Danh Chúa được cả sáng hơn.

 

Tạ ơn và kính dâng Đức Mẹ Lavang

Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss


[1] Presbyterorum  Ordinis số 72 và 82.

[2] Sđd. số 87.

[3] Pastores Dabo Vobis số 71.

[4] Optatam Totius số  22.

[5] Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis số 100.

[6] Ecclesia in Asia số 43

[7] FABC 92e, Về đào tạo thường xuyên cho linh mục tại Á Châu.

[8] Chỉ Nam 1994 số 69-97.

[9] Chỉ Nam 1994 số 73.

[10] Sđd. số 93.

[11] Chỉ Nam 1994 số 74.

[12] Chỉ Nam 1994 số 77-78.

[13] Pastores Dabo Vobis số 77; Chỉ Nam 1994 số 94.

[14] Sđd. số 95.

[15] Chỉ Nam 1994 số 96-97.

[16] Sđd. số 97.

[17] 2 Cr 5,17.

[18] 2 Cr 5,16.

[19] Gl 2, 20.

 

VỀ MỤC LỤC
TRÁI TIM VÀ NHIẾP HỘ TUYẾN

“Một Triệu Trái Tim”

Mỗi 6 giây đồng hồ, một người ở đâu đó trên trái đất trút hơi thở cuối cùng vì Đột quỵ. Trong khi đó tại Hoa Kỳ cừ 40 giây có một người bị Đột quỵ và hàng năm có khoảng 137,000  tử vong.

 Trung tuần tháng 10 vừa qua, Cơ quan CDC Hoa Kỳ đã phát động chiến dịch “Million Hearts”  với mục đích phòng ngừa  Một Triệu trường hợp  Heart Attack và Stroke trong 5 năm tới. Chiến dịch được sự tiếp tay của chính quyền liên bang, các tổ chức y tế tư nhân, cộng đồng và bất vụ lợi và được thực hiện tại cơ sở y tế hoặc cộng đồng.

Theo CDC và các nhà chuyên môn bệnh Tim Mạch, phương thức căn bản hiện nay đã có sẵn và rất công hiệu để cứu sống 1 triệu trái tim là áp dụng triệt để 4 “Mẫu Tự Vàng”  ABCS sau đây:

A là Aspirin: mọi người có nguy cơ bệnh tim mạch cần uống một viên nhỏ aspirin viên mỗi ngày, thường thường là 81 mg.

B là Blood Pressure: Nếu đang bị cao huyết áp cần điều trị để duy trì huyết áp ở mức độ bình thường, dưới 120/80 mg/Hg

C là Cholesterol: duy trì cholesterol ở mức độ chấp nhận được là dưới 200mg/dL.

S là Smoking: ngưng hoặc không hút thuốc lá.

Aspirin ngăn cản tiểu cầu kết tụ, giảm nguy cơ đóng máu cục, giảm tắc nghẽn máu lưu thông và ngừa lưỡng sát thủ Đột quỵ, Cơn Đau Tim.

Cao Huyết áp và cao Cholesterol là 2 rủi ro hàng đầu đưa tới lưỡng sát thủ này.

Và nếu đang hút thuốc là mà ngưng ngay thì rủi ro bị Lưỡng sát thủ viếng thăm giảm tới 45%.

Theo thống kê, tại Hoa Kỳ:

- Có tới hơn 50% người đang bị nhồi máu cơ tim, một rủi ro đưa tới Stroke mà không uống Aspirin để ngừa bệnh.

- Cũng quá 50% người bị cao huyết áp mà không điều trị tới bến;

- Chỉ có 1/3 người cao cholesterol uống thuốc để giảm chất béo; và

- Chỉ có 1/4 tổng số người hút thuốc lá cố gắng ngừng hút.

Do đó, có cả trên 100 triệu người Mỹ, tức là quá nửa người trưởng thành, đang mang những rủi ro có thể đưa tới hai bệnh hiểm nghèo stroke và heart attack. Hậu quả là những bán thân bất toại, những suy tim tử vong.

Giảm tiêu thụ muối, không hút thuốc lá, không tiêu thụ chất transfatty acid trong món ăn chiên rán sẽ giảm cao huyết áp và bệnh tim mạch. Lưu ý là muối có nhiều trong thực phẩm làm sẵn như khoai chiên hơn là khi ta tự làm lấy.

Dể dàng quá, quý vị nhỉ!.

Vậy thì xin hãy hỏi bác sĩ gia đình để được hướng dẫn thêm về cách dùng aspirin cho việc phòng ngừa này.

Lại nói về PSA

PSA , viết tắt của Prostate Surface Antigen là xét nghiệm máu để ước định tình trạng lành hay dữ  của Tuyến Tiền Liệt.

 Kết quả của xét nghiệm này đã gây ra nhiều thắc mắc cho bệnh nhân và vẫn đang là đề tài tranh luận của giới y khoa. Bệnh nhân thắc mắc vì mỗi bác sĩ giải thích kết quả một cách khác nhau. Và giới y khoa tranh luận về lợi hại của thử nghiệm.

Được tìm ra vào cuối thập niên 1980, PSA với mục đích theo dõi bệnh Ung thư Nhiếp tuyến và đã được áp dụng rộng rãi để sàng lọc bệnh. PSA cao được coi như là chỉ dấu của ung thư tuyến này, nhưng mức độ bình thường cũng chưa loại bỏ chẩn đoán ung thư. Mức độ trung bình là 4ng/mL.

PSA là men của nhiếp tuyến. Tuy nhiên không phải chỉ ung thư tuyến này mà PSA mới lên cao. PSA còn tăng trong trường hợp có u lành tính nhiếp tuyến, viêm nhiếp tuyến, viêm bọng đái, lúc xuất tinh, khi có chấn thương vùng xương chậu hoặc thương tích gây ra khi khám hệ tiết niệu với dụng cụ y khoa.

Thường thường, khi PSA lên cao và khi khám hậu môn thấy nhiếp tuyến sưng to thì bác sĩ sẽ làm biopsy tức là lấy một chút tế bào của tuyến, phân tích coi có tế bào ung thư hay không. Biopsy đôi khi có thể gây ra nhiễm trùng, chẩy máu, đau và nhiều người vẫn lo sợ bị ung thư, mặc dù kết quả biopsy âm tính.

Tranh luận của y giới tập trung vào mấy điểm như sau:

- Với sự ra đời của thử nghiệm PSA, số người được chẩn đoán ung thư nhiếp tuyến tăng gấp đôi;

- Một tỷ lệ đáng kể số người được kết luận bị ung thư vì PSA lên cao đều được chẩn đoán quá mức over diagnosis vì bệnh không gây khó khăn gì cho bệnh nhân;

- Khi PSA cao, bệnh nhân sẽ được điều trị với giải phẫu, hóa trị hoặc xạ trị. Các trị liệu này có thể gây ra các rối loạn đại tiểu tiện, tình dục ảnh hưởng tới nếp sống của người bệnh.

Hiện nay, không phải tất cả các nhà chuyên môn đều đồng ý là xét nghiệm sàng lọc ung thư nhiếp tuyến có thể cứu mạng sống người bệnh. Đồng thời, cũng chưa có bằng chứng để kết luận là lợi điểm của sàng lọc có giá trị hơn điểm bất lợi. Lợi là sớm tìm ra ung thư và điều trị sẽ có nhiều kết quả khi bệnh mới tìm ra. Bất lợi như khi kết quả PAS cho là có ung thư nhưng thực ra không có, bệnh nhân sẽ phải làm thêm xét nghiệm khác, khiến họ hoang mang. Rồi lại còn có thể điều trị mà thực ra không cần thiết hoặc có nhiều biến chứng như kể trên.

Thành ra, khi có kết quả PSA không bình thường, bệnh nhân cần tích cực tìm hiểu thêm ý nghĩa của kết quả, thảo luận kỹ càng với bác sĩ và bác sĩ cũng cần phải giải thích cho bệnh nhân lợi hại của xét nghiệm.

Nói chung là chính y giới không hoàn toàn đồng ý với nhau, cho nên họ “đấm bùn sang ao”, đùn trách nhiệm cho sự phán xét quyết định của bệnh nhân. Rõ chán mớ đời.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Arlington-Texas

www.bsnguyenyduc.com 

 
VỀ MỤC LỤC
ĂN TRỘM LN Sưu tầm của Gã Siêu

 

Mỗi khi tết đến, gã lại nghe rộn rã :

- Thị mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,

Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.

Người Việt Nam ăn tết không thể thiếu món thịt lợn, nhất là đối với những người sống ở nông thôn ngày xưa. Lúc bấy giờ, cuộc sống còn nhiều lam lũ và thiếu thốn, có khi cả năm trời mới được một vài lần ăn thịt mà thôi, thành thử vào dịp tết, người ta thường “đánh đụng” với nhau, để có tí thịt cho gia đình. Vì thế, ông thầy bói đoán chẳng sai :

- Số cô chẳng giàu thì nghèo,

  Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.

Hơn thế nữa, năm nay lại là năm Đinh Hợi, cầm tinh con lợn, gã cảm thấy cần phải tán hươu tán vượn về con vật thân thương này. Rất may, trong một dịp về Saigon đi tìm sách cũ, gã mua được cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm” của Toan Ánh. Trong đó có một vài mẩu chuyện liên quan tới việc ăn trộm lợn, gã xin phép được mượn tạm và ghi lại nơi đây, để bàn dân thiên hạ cùng đọc trong những ngày đầu xuân năm mới.

 

ĐƠM LỢN 

Bắt một con gà giữa đàn gà là một sự khó, nhưng vẫn không khó bằng bắt một con lợn ở ngay trong chuồng mà con lợn đó không kêu.

Nghệ thuật bắt lợn tài tình như vậy, trong làng đào ngạch gọi là…đơm lợn.

Bọn trộm có một phương pháp đơm lợn rất khéo, ai nghe qua cũng phải chịu là giỏi.

Chắc các bạn thừa biết lợn là một giống vật khi đòi ăn thì ủn ỉn, nhưng hễ ai hơi động tới người là chúng kêu lên eng éc, và có khi chỉ trông thấy bóng người, chúng đã hồng hộc lên rồi. Ấy vậy mà khi chú chích đã muốn bắt lợn, thì chú bắt cứ ngon ơ, lợn không kêu và chủ nhân cũng không bao giờ biết được.

Thường thường trộm hay đơm lợn của những nhà giàu. Chúng nói :

- Nhà nghèo nuôi được con lợn khó khăn, mình lấy của người ta hóa ra vô nhân đạo hay sao ?

Sự thật không phải là thế ! Mạ không thương người ốm thì trộm cũng không thương người nghèo. Nhà nghèo họ giữ lợn cẩn thận hơn, con lợn có khi là một phần gia tài của họ, cho nên nuôi lợn họ thường làm chuồng ở sát ngay vào cạnh vách nhà, để vừa tiện trông nom, lại vùa tiện giữ gìn. Còn nhà giàu họ vệ sinh, họ sạch sẽ nên chuồng lợn thường đặt xa nhà ở : có khi ở vườn, có khi ở cuối sân.

Cái khó trong việc đơm lợn là làm sao vào được chuồng lợn. Lợn thấy bóng người thường hồng hộc lên, tuy chúng không kêu. Chuồng lợn ở sát nhà thì tiếng hồng hộc có thể đánh thức chủ nhà. Bởi vậy, tâm lý của bọn đơm lợn là tránh những chuồng lợn ở sát ngay vách nhà ở. Chẳng kiếm ăn đám này thì kiếm ăn đám khác, lợn ở nhà quê thiếu gì, chẳng anh ăn trộm nào lại dại đột đi đơm lợn của nhà nghèo, làm chuồng kề ngay bên nhà.

Dụng cụ dùng để đơm lợn giản dị lắm, có thể nói là chẳng có gì cả. Chỉ cần một cái giỏ đựng cám, và chỉ có thế thôi.

Nhự trên đã nói, vào được chuồng lợn khó, còn đơm lợn dễ. Đã vào được chuồng lợn, tức là đã thoát được sự đề phòng của chủ nhân và tránh được sự sợ hãi của lợn rồi.

Vì vào được chuồng lợn khó, cho nên bọn đơm lợn mới tìm những chuồng lợn cách xa nhà ở. Khi vào được  chuồng lợn rồi, muốn tránh sự hồng hộc của lợn, thì phải cho chúng ăn. Chỉ có cái ăn mới nhử được chúng. Lợn thường khi thấy có người nhảy vào chuồng, không những hồng hộc mà còn sùng sục chạy quanh. Phải làm thế nào cho lợn không chạy mới đơm xong lợn chứ.

Phải cho chúng ăn. Ai cũng rõ lợn là giống tham ăn, thấy ăn là chúng quên cả sợ hãi, quên cả sùng sục chạy quanh. Người đi đơm lợn cần có giỏ cám chính là bởi vậy.

Vào được chuồng lợn, người đó chìa giỏ cám cho lợn ăn. Lợn mải ăn không sợ người nữa. Người chỉ việc lùa cho lợn đút đầu vào chiếc giỏ, chịt chặt giỏ lại. Lợn sẽ không kêu được tiếng nào vì mồm còn đầy cám. Lợn muốn giẫy dụa thì cái giỏ đã thít chặt lấy đầu lợn rồi. Thế là anh chàng ăn trộm chỉ việc cõng lợn đi êm ru không ai biết. Cứ kể cũng không khó khăn lắm.

Đơm lợn xong, kẻ trộm thường phải tiêu thụ lợn ngay, mà phải tiêu thụ ở làng khác, vì ở nhà quê trong làng có người nào thành tích bất hảo, người ta đều biết.. Người mất lợn ngay ngày hôm sau tới trình làng và xin khám xét ngay nhà những người đó. Nếu để lợn ở trong nhà, tức là tự tố cáo mình vậy.

Cũng có những con lợn đơm bị đem đi làm thịt ngay, nhưng cũng có con tiêu thụ chưa kịp, được gửi gấm ở một nơi. Đã có những chủ lợn, khi mất lợn không đi trình báo gì, mà chỉ đi tìm mấy tay tổ đơm lợn để xin chuộc lại.

Hành động như vậy có nhiều kết qủa hơn, vì số tiền chuộc lợn chẳng đáng bao nhiêu, chỉ đáng giá một phần tư con lợn là nhiều. Chủ lợn đã xin chuộc, thì kẻ đơm lợn cho chuộc, nhưng tất nhiên phải có sự cam kết không trình báo gì của chủ lợn và người đơm lợn cũng cam kết về sau sẽ không đến đơm lợn chủ nhân nữa. Tuy nhiên, người đơm lợn bao giờ cũng có một sự đề phòng tối thiểu, để tránh mọi sự lôi thôi với pháp luật. Thường thường chủ lợn trao tiền chuộc lợn trước cho người đơm lợn, còn lợn sẽ được mang trả lại chủ lợn sau, mà không có hẹn trước. Như thế có khi chủ nhân về tới nhà đã thấy sẵn rọ lợn ở sân nhà rồi, hoặc cũng có khi qua đêm, sáng hôm sau, con lợn đã ở trong chuồng với sự bình yên, như không hề xảy ra chuyện gì  bao giờ.

Đơm lợn đã tài tình, nhưng đem trả lợn cũng không phải là kém vậy.

 

ĐƠM LỢN VỀ GẶP NGƯỜI 

Đây là câu chuyện do anh Cả Trường Xuân Vũ thuật lại :

Đêm đó, anh đi đơm lợn ở một làng bên về. Con lợn đầu bị đút trong một chiếc giỏ đầy cám, được anh cõng trên lưng như một đứa trẻ, hai chân trước quàng qua vai anh.

Còn lợn này khá to, nên anh thấy hơi nặng. Anh đang cố rảo cẳng đi cho chóng tới nơi tàng trữ để gửi con lợn.

Đang đi, bỗng anh thấy mé đằng trước có một người  đi lại, người đó đã nhìn thấy anh, anh muốn tránh cũng không kịp. Anh đành phải cứ ung dung đi.

Hôm đó trời không có trăng, nên gặp nhau không ai nhận ra ai ngay, chỉ trông thấy bóng đen.

Người kia gặp anh Cả liền hỏi :

- Ai đó, đêm hôm khuya khoắt mang cái gì đi đâu thế ?

Bắt buộc anh Cả phải trả lời, nhưng anh sợ người kia nhận ra tiếng anh, nên anh trả lời qua giọng  khịt mũi :

- Thưa ông, thằng cháu nhà tôi nó lên tốt (lên đậu) bị chết, tôi phải mang chôn, sợ mai ban ngày ban mặt lại phải khai báo lôi thôi.

Câu nói của anh Cả khiến cho người kia phải bước mau hơn để tránh cái thây ma lên đậu. Ở nhà quê, người ta rất sợ bệnh lên đậu, nên câu nói của anh Cả đã khiến cho người kia không hỏi han gì thêm nữa.]

Anh Cả tiếp tục ung dung cõng lợn về.

 

GẶP NHAU TRƯỚC CHUỒNG LỢN 

Có một anh chuyên môn đi đơm lợn. Một lần kia sau khi đã rình mò và điều tra kỹ về một chuồng lợn của nhà giàu, anh định đêm hôm đó tới đơm lợn.

Chuồng lợn của nhà này làm cách xa nhà ở, tận cuối vườn cây, vườn cây ở chân đồi, xa xa khỏi quãng đồi là rừng thưa, rồi đến rừng rậm, vì nơi xảy ra chuyện này thuộc một tỉnh ở trung du, nghĩa là ở một nơi tuy có ruộng nương, nhưng có cả đồi núi và rừng rậm nữa. Từ chuồng lợn đến nhà ở cách vào khoảng trăm thước. Chung quanh vườn có hàng rào cây, và đôi chỗ có rào tre xanh mọc.

Anh trộm lần đi từ ngoài rừng, len qua hàng rào cây, rồi nhẹ nhẹ tiến tới phía chuồng lợn.

Trời hôm đó không tối lắm, nhưng cũng đủ tối để anh trộm dễ lẩn tránh nếu chẳng may bị chủ nhà bắt gặp.

Anh tiến dần đến mé chuồng lợn, trong tay lăm lăm giỏ cám. Không một tiếng động ở trong nhà, không một tiếng chó sủa ở trong xóm. Anh mừng thầm và tin rằng thế nào anh cũng thành công.

Anh tới gần cửa chuồng lợn rồi. Anh nắm chặt giỏ cám và bước nhè nhẹ hơn. Bỗng anh ngừng lại : anh thấy lù lù ngồi trên bờ chuồng lợn dưới mái tranh một cái bóng. Chắc là một anh chính cược khác cũng đang rình đơm lợn. Anh trộm rón rén đi tới chỗ bóng đen. Bóng đen vẫn ngồi yên, không biết có người ở đằng sau đi tới. Khi tới gần bóng đen, anh trộm đưa tay lên, vỗ vai bóng đen và nói :

- Con lợn này tớ rình đã mấy bữa nay, đằng ấy định phỗng tay trên hay sao ?

Bị vỗ vai bất thần, bóng đen gầm lên một tiếng “Hừm” và nhảy vọt rất xa để chạy thẳng vào rừng. Thì ra đấy là một chú cọp đang rình bắt lợn, sắp vồ mồi, bị vỗ vai bất thần, chú ta hoảng sợ, chuồn thẳng.

Và anh trộm, thấy bóng đen là chú cọp, cũng hoảng sợ, vứt cả giỏ cám, chạy trối chết.

Chỉ chủ nhân là may, lợn không bị cọp vồ và cũng không bị trộm đơm, vì sau bữa đó lẽ tất nhiên họ phải đề phòng cả trộm lẫn cọp.

 

CON LỢN VÀ TRĂM BẠC

HAY MƯỜI ROI 

Tới đây, tôi xin kể một câu chuyện về anh Cả Trường Xuân Vũ. Các bạn đã biết tài anh Cả, thì bây giờ mời các bạn thưởng thức thêm một lần nữa tài nghệ của anh.

Trong câu chuyện thách đố dưới đây, anh Cả đã là người thắng cuộc và anh đã thắng một cách vẻ vang, khiến cho người nghe chuyện cũng thấy thêm hào hứng. Kể ra thách đố với kẻ trộm đại tài là một điều dại, nhưng ở đời nhiều khi người ta biết dại mà vẫn cứ làm, như ông Bá hộ trong câu chuyện này chẳng hạn.

Trong làng anh Cả có một ông Bá hộ giàu có, xưa nay nhà cửa vẫn kín cổng cao tường, trộm đạo vào được nhà ông thật cũng khó khăn.

Anh Cả chưa từng lấy của ông Bá cái gì, không phải là anh không vào nổi nhà ông Bá, nhưng chính vì anh Cả không muốn lấy trộm của người làng, vì tình làng nước cũng có, mà cũng chính vì thành thích bất hảo sợ họ trình báo thêm phiền.

Ông Bá không cho là thế. Ông tin vì nhà ông kín đáo, lại có đề phòng, nên anh Cả chịu không dám mon men tới. Ông vẫn định bụng hôm nào gặp anh Cả sẽ nói khích chơi.

Bấy giờ vào hồi gần Tết. Trong một đám giỗ, ông Bá gặp anh Cả. Trước mặt đông đủ mọi khách ăn giỗ, ông Bá bảo anh Cả :

- Tôi nghe nói anh trèo tường khoét vách vào bậc nhất nhì trong thiên hạ, nhưng chính tôi, tôi chưa thấy tài anh ở chỗ nào cả. Anh phải làm thế nào trổ tài cho tôi trông thấy hai năm rõ mười, tôi mới chịu phục.

Anh Cả đáp và phân bua với mọi người :

- Trên thưa các cụ và các ông, tôi tuy tài hèn nghề mọn, nhưng nếu ông Bá muốn tôi cho biết rõ tài nghệ, tôi xin vui lòng chiều theo ý muốn của ông Bá. Vậy ông Bá đặt cuộc cái gì để tôi lấy làm chuẩn đích.

Ông Bá lúc ấy rượu đang ngà ngà say, liền hách dịch bảo anh Cả :

- Nhà tôi có con lợn để ăn tết, nếu anh lấy được con lợn của tôi, tôi cam đoan sẽ không trình báo gì và thưởng thêm cho anh trăm bạc nữa, nhưng nếu anh không lấy nổi con lợn thì sao ?

Thời ấy trăm bạc là một số tiền lớn, nên anh Cả nghe lời ông Bá nói như vậy thì mừng lắm. Anh lại phân bua cùng đám giỗ:

- Xin các cụ và các ông chứng hộ. Tôi là bề dưới, tôi chỉ sợ rồi không những không được trăm bạc, mà ông Bá lại đi trình quan thôi.

Nghe anh Cả phân bua, ông Bá trợn mắt đáp :

- Anh coi tôi là hạng người thế nào ? tôi đã nói một lời như đao chém đá, anh cứ yên tâm. Nhưng còn anh, anh định sao ?

Mọi người trong đám giỗ đều nhận lời làm chứng cho cuộc đố này, anh Cả bây giờ mới nói :

- Tôi nghèo nàn, không có gì, nhưng nếu thua cuộc chỉ xin đến để ông Bá đét mười roi vào đít.

Nghe anh Cả nói, ông Bá cười ha hả, đắc trí bảo :

- Ừ nhé, tôi cũng chỉ cần đét cho anh mười roi, để từ sau anh đỡ khoác lác đi thôi. Các cụ làm chứng hộ lời nói của anh Cả nhé.

Thế là cuộc đố bắt đầu. Hôm ấy là 17 tháng chạp, chỉ còn 13 hôm nữa đã Tết rồi. Anh Cả phải làm thế nào lấy cho được con lợn trước Tết, thì vừa có lợn ăn Tết, lại vừa có tiền tiêu tết. Về phần ông Bá, ông phải lo giữ thế nào cho đến ngày mổ lợn, con lợn không bị mất là ông được cuộc , nghĩa là ông được đét mười roi vào đít tên trộm đại tài. Ông giữ được lợn lại khỏi mất trăm bạc.

Lẽ tất nhiên, ông đã tổ chức canh phòng chuồng lợn rất cẩn mật. Anh Cả cũng thừa biết vậy, nên anh chẳng buồn đến rình mò nhà ông Bá làm gì.

Có ai hỏi anh bao giờ lấy được lợn nhà ông Bá, thì anh chỉ cười đáp lửng lơ :

- Để còn xem đã chứ. Ông Bá ông ấy canh phòng kỹ lưỡng lắm. Không khéo đến bị ông ấy đét mười roi mất.

Ngày này qua ngày khác, con lợn của ông Bá vẫn là con lợn của ông Bá. Thấm thoát đã 25 tháng Chạp. Ông Bá đã hơi mừng, vì còn bốn hôm nữa, sáng 30 Tết, ông sẽ làm thịt lợn, là anh Cả hết đường mon men tới.

26, 27, rồi 28 cho đến 29 tháng Chạp, anh Cả vẫn chưa làm gì nổi được con lợn ông Bá. Và đến sáng 30 Tết, một mũi dao nhọn đã hóa kiếp cho con lợn. Lúc người nhà chọc tiết con lợn, ông Bá bảo :

- Xem nào, chuyến này thằng đại bợm có thua ta không ? Để ta phải cho gọi nó đến, đét cho nó mười roi cho sướng tay.

Một tên người nhà nói :

- Thật là kẻ cắp gặp tay bà già. Phải tay ông mới trị nổi anh Cả.

Ông Bá hả dạ lắm. Ông sai người đi tìm anh Cả tới và nói với bọn người nhà :

- Vị tất anh Cả đã dám lại. Lời nói có bao nhiêu người làm chứng còn chối vào đâu. Nếu hắn lấy được lợn có phải ta mất thêm trăm bạc với hắn không.  Các anh làm lợn cho sạch sẽ rồi lát nữa hắn tới, ta cho phép tất cả các anh và người nhà lên xem ta đét hắn.

Bọn người nhà thích lắm, chỉ mong anh Cả tới để xem anh bị ông Bá đét. Họ làm vội làm vàng cho xong con lợn. Vừa cạo lông lợn, họ vừa bàn tán cùng nhau. Kẻ bảo anh Cả sẽ đến, người bảo không.

Thì ra anh Cả đến. Một tay trộm đại tài có bao giờ hèn mà sợ mười roi đòn. Anh Cả đến với khăn áo rất chỉnh tề. Thấy anh, ông Bá nói :

- Tôi tưởng anh không đến. Nguyên hôm nay là 30 Tết, nhà tôi đã mổ thịt con lợn rồi. Nhớ tới lời nói hôm ăn giỗ, tôi cho mời anh lại.

Anh Cả đáp :

- Vâng tôi cũng rõ, nên hôm nay đến đây chịu đón của ông Bá.

Ông Bá khen anh :

- Thế thì anh thật anh hùng lắm ! Tôi khen đấy !

Ông gọi người nhà :

- Nào bây đâu, lên cả đây, ta cho chứng kiến việc này.

Lũ người nhà đổ xô cả lên nhà trên. Ông Bá tay cầm chiếc roi mây chỉ chiếc phản gỗ, bảo anh Cả :

- Quả thật anh không sợ đòn, thì mời anh nằm xuống kia cho lão đét.

Lũ người nhà cùng nhau cuời khúc khích. Ông Bá mỉm cười một cách tự đắc.

Anh Cả nói :

- Tôi vui lòng nằm chịu đòn, nhưng thưa ông Bá, phải có người làm chứng chứ, kẻo ông Bá đánh tôi xong, ông Bá lại bảo chưa đánh, rồi tôi lại phải đòn lần nữa, tôi cãi vào đâu. Vậy sẵn người nhà đây, xin ông Bá cho đi mời mấy cụ có mặt tại đám giỗ lại, để chứng kiến vụ tôi chịu đòn !

- Tưởng gì thì khó, chứ thế thì dễ lắm !

Chính ông Bá cũng muốn như vậy để có kẻ nọ người kia trông thấy công việc anh hùng của ông. Ông liền sai người nhà đi mời năm sáu cụ có mặt tại đám giỗ hôm trước lại. Trong lúc chờ đợi, ông sai rót nước mời anh Cả xơi và ông để ý nhìn kỹ nét mặt anh Cả, xem anh có thẹn thùng sợ hãi không. Ông thấy anh thật ung dung thản nhiên.

Anh Cả khen ông Bá :

- Nhà ông Bá kín cổng cao tường thật. Chúng tôi rình hơn mười đêm không sao vào được. Chó nhà ông Bá dữ quá, ông Bá lại rất thính ngủ.

Ông Bá vuốt râu cười với chiếc điếu ống hút điếu thuốc lào, thở ra làn khói trắng ra vẻ khoan khoái lắm. Ông bảo anh Cả :

- Anh biết tay tôi như thế là phải lắm, chứ không những hôm ấy mà anh chờn vờn vào nhà tôi thì chỉ có què.

Trong lúc đôi bên đối thoại, lũ người nhà vẫn thập thò ngoài hiên để chờ xem cuộc tên bợm đại tài chịu đòn.

Một lúc sau, bốn năm cụ tới. Ông Bá đon đả mời các cụ và nói :

- Hôm nay nhà tôi mổ thịt con lợn. Anh Cả thua cuộc đến chịu đòn, muốn mời các cụ lại chứng kiến.

Ông Bá vừa dứt lời, thì anh Cả nói tiếp :

- Thưa các cụ không phải thế ạ ! Đấy là ông Bá muốn mời các cụ lại làm chứng để ông Bá thưởng cho tôi thêm một trăm bạc như lời đã hứa, vì con lợn của ông Bá, tôi đã mạn phép lấy và cho người nhà mang đi rồi !

Kỳ lạ chưa ? Lời nói của anh Cả làm ông Bá giật mình. Ông Bá cãi :

- Anh nói láo ! Đâu có chuyện ấy ! Con lợn sáng ngày tôi đã cho làm thịt rồi còn gì nữa 1

Anh Cả ung dung thưa :

- Thưa ông Bá, tôi vừa mới lấy lúc nãy xong. Không tin ông Bá thử cho người nhà ra vại nước xem có còn con lợn không ?

Thật là sét đánh ngang tai. Ông Bá vội gọi lũ người nhà lúc ấy đang thập thò cả ra ngoài mái hiên để chờ xem cuộc đánh đòn, bảo đi xem lại con lợn. Một tên người nhà chạy vội ra vại nước rồi hốt hoảng chạy vào thưa :

- Bẩm ông, con lợn ai khiêng đi mất rồi ạ. Họ lấy cả chậu tiết lẫn cỗ lòng. Chỉ còn đống lông ngoài ấy !

Anh Cả bảo ông Bá :

- Tôi có dám nói sai đâu. Vậy xin ông Bá trăm bạc để về còn sắm Tết. May năm nay không có trăm bạc của ông Bá, nhà tôi chẳng có gì  là Tết !

Tức đến điên ruột, nhưng ông Bá cũng đành làm mặt đàn anh, đưa cho anh Cả trăm bạc và quay mắng lũ người nhà :

- Chỉ tại lũ chúng mày vô ý.

Lũ người nhà len lén sợ hãi, vội vàng rút chuồn cả xuống nhà dưới.

Anh Cả lại nói :

- Thưa các cụ và ông Bá, đáng lẽ chúng tôi xin con lợn từ mấy hôm trước, nhưng vì dạm bán không ai mua, họ đều sợ phép ông Bá, mà muốn để ăn tết, thì nhà chúng tôi neo người, không có người làm, nên đành phải chờ đến hôm nay, nhờ ông Bá cho làm lông hộ sạch sẽ. Mang về chỉ việc xả ra là xong. Xin chào các cụ và cám ơn ông Bá lắm.

Nói xong anh Cả đi thẳng. Các cụ đến làm chứng muốn cười mà không dám cười. Ông Bá hết sức bực mình. Thật là bợm già mắc bẫy cò ke.

Chắc các bạn  cũng thừa rõ là trong lúc tất cả người nhà ông Bá đều lên trên nhà để chực xem ông Bá đánh đòn tên đại bợm, thì người nhà tên đại bợm đã lẻn vào bằng lối trèo tường, chuyển con lợn đi một cách êm nhẹ.

Năm ấy nhà anh Cả ăn Tết rất sang ! Và câu chuyện ông Bá mất lợn đã thành một thiên giai thoại lý thú.

 

Gã Siêu   gasieu@gmail.com


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************