THUỐC ASPIRIN
Trần Đăng Hồng, PhD
http://khoahocnet.files.wordpress.com/2012/04/aspirin.jpg
 
Tạp chí Y Khoa LANCET (www.thelancet.com) danh tiếng thế giới công bố ngày 21/3/2012 ba bài tường tŕnh kết quả khảo cứu của Giáo Sư P M Rothwell và cọng sự thuộc Đại Học Oxford (Anh quốc) cho biết xử dụng aspirin hàng ngày có thể ngăn ngừa và chửa trị được nhiều bệnh ung thư (cancer).
 
Salicylic acid, thành phần chính của aspirin, là một phần trong biến dưỡng cơ thể con người và động vật, một phần từ thức ăn, phần lớn do cơ thể biến chế.
 
Aspirin có hiệu ứng chống thành lập các mảnh-tế-bào (platelets, thrombocytes) kết hợp trôi theo ḍng máu lưu thông, bằng cách ngăn chặn sản xuất chất thromboxane. Trong điều kiện b́nh thường, chất thromboxane kết hợp các mảnh-tế-bào thành khối lớn trong mạch máu. Nếu không có các mảnh-tế-bào máu sẽ chảy hoài nơi bị bị đứt, gây xuất huyết. Ngược lại, nếu các mảnh-tế-bào kết hợp thành khối lớn sẽ làm tắt nghẽn ḍng máu lưu thông. Như vậy, aspirin giúp máu lưu thông, nên được xử dụng trường kỳ với liều lượng nhỏ để giúp ngăn ngừa đau tim (heart attack), tai biến mạch máu (đột quị, stroke) và đông máu cục (huyết khối) (blood clots). Aspirin cũng giúp bệnh nhân giảm nguy cơ tái phát đau tim và ngăn tế bào tim mạch chết.
 
ASPIRIN VÀ UNG THƯ
 
Vai tṛ của Aspirin làm giảm nhiều loại ung thư đă được nghiên cứu rộng rải. Trước đây, nghiên cứu cho biết aspirin không hiệu quả trong việc điều trị ung thư tiền-liệt-tuyến (prostate cancer). Ảnh hưởng của aspirin lên ung thư lá lách (pancreatic cancer) cũng không rơ ràng; tường tŕnh nghiên cứu năm 2004 cho thấy aspirin làm gia tăng nguy cơ ung thư lá lách ở phụ nữ, trong lúc nghiên cứu năm 2006 th́ thấy không có liên hệ ǵ giữa việc xử dụng aspirin và nguy cơ ung thư lá lách. Aspirin thấy có hiệu quả làm giảm nguy cơ của vài loại ung thư như ung thư ruột già (colon), phổi, phần trên của hệ thống tiêu hóa (upper gastrointestinal tract, gồm từ cổ họng cho tới tá tràng- duodenum). Aspirin cũng ngăn ngừa được nguy cơ adenocarcinomas, một loại ung thư ở các mô tuyến (glandular tissue).
Nhóm Đại Học Yale và Iowa năm 2009 cho biết aspirin ngăn ngừa được ung thư gan (liver cancer). Cũng năm 2009, tường tŕnh cho biết đàn ông hay đàn bà có triệu chứng ung thư đường ruột (colorectal cancer) nếu uống đều đặn aspirin th́ ít có nguy cơ tử vong.
Năm 2010, tạp chí Journal of Clinical Oncology cho rằng aspirin có khả năng giảm tử vong ở ung thư vú (breast cancer).
Trong một nghiên cứu với 25000 bệnh nhân tham gia thực hiện ở Đại Học Oxford (Anh) do GS Rothwell chỉ đạo, tường tŕnh năm 2010 cho biết hàng ngày uống một liều nhỏ (75 mg) aspirin trong 4 đến 8 năm có thể giảm số tử vong 20% cho mọi loại ung thư, và nếu uống trong 20 năm sẽ có hiệu quả lớn hơn nữa. Riêng ung thư ruột (bowel cancer) giảm tử vong 40%, ung thư phổi (lung cancer) giảm 30%, ung thư tiền-liệt-tuyến (prostate cancer) giảm 10%, ung thư thực quản (Oesophageal cancers) giảm 60%. Riêng về các loại ung thư lá lách (pancreas), bao tử (stomach), năo bộ (brain), vú, ổ trứng (ovarian) chưa có kết quả và nghiên cứu đang tiến hành. Nghiên cứu của nhóm Oxford cũng cho biết thêm là aspirin làm gia tăng gấp đôi nguy cơ chảy máu bên trong (internal bleeding), rất hiếm (1 phần ngàn) ở tuổi trung niên, nhưng gia tăng đáng kể ở tuổi quá 75.
Các nghiên cứu của nhóm khoa học này trước đây chứng minh rằng aspirin đă được khuyến cáo dùng làm giảm-đau-nhức (painkiller) và chống chứng viêm. Ngoài ra, với lượng nhẹ (75 mg), aspirin được khuyến cáo dùng trị bệnh tim mạch (cardiovascular), ngăn ngừa tai biến đột quị (stroke) và đau tim (heart attack). Nghiên cứu của nhóm ông về xử dụng aspirin hàng ngày trong 20 năm làm giảm 20% số tử vong ung thư.
Trong tường tŕnh ngày 21/3/2012, kết luận từ 51 cuộc thử nghiệm với 77 ngàn bệnh nhân do GS Rothwell của Đại Học Oxford chỉ đạo, xử dụng aspirin hàng ngày với liều lượng nhỏ trong ṿng 3-5 năm không những có thể ngăn ngừa nhiều loại ung thư, mà c̣n ngăn chận ung thư phát triển ra khắp cơ thể. Theo tường tŕnh này, uống hàng ngày với liều lượng nhẹ (75-300mg) có thể cắt giảm tổng số trường hợp ung thư tới 25% chỉ sau 3 năm, và giảm số tử vong do ung thư tới 15% trong ṿng 5 năm. Nếu xử dụng với liều lượng >300 mg, hiệu quả c̣n nhiều và sớm hơn. Nếu bệnh nhân tiếp tục uống aspirin lâu dài hơn, số tử vong giảm 37% sau 5 năm.
Với liều lượng nhẹ, aspirin ngăn chận tế bào ung thư lan đến bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt ung thư ruột (bowel), có thể chận đứng (metastasise) tới 50% trong vài trường hợp. Một cách tổng quát, cứ mỗi 5 bệnh nhân chữa trị với aspirin, th́ có 1 bệnh nhân ngăn chận được ung thư lan nhiễm bộ phân khác.
Đồng thời, aspirin cắt giảm nguy cơ đau tim và tai biến, nhưng làm gia tăng nguy cơ xuất huyết. Tuy nhiên, chứng xuất huyết (chảy máu) thường thấy trong một vài năm đầu tiên chửa trị với aspirin, nhưng sau đó giảm dần.
Đối với người khỏe mạnh, GS Rothwell khuyến cáo điều quan trọng nhất để ngăn ngừa khả năng bị ung thư là không hút thuốc, tập thể dục, chế độ dinh dưỡng lành mạnh. Sau đó là aspirin sẽ giúp thêm ngăn ngừa ung thư, nhất là trong gia đ́nh ruột thịt có người mắc ung thư đường ruột.
 
ASPIRIN TRỊ BÁ BỆNH ?
 
Trong y khoa, aspirin được dùng chửa trị nhiều bệnh: cảm sốt, đau nhức, phong thấp, viêm, phong thấp khớp (rheumatoid arthritis), bệnh sưng màng ngoài tim (pericarditis) và bệnh viêm mạch máu trẻ em (Kawasaki disease). Aspirin cũng được xử dụng để ngăn ngừa tai biến đột quị, đau tim, ung thư và ngăn ngừa chứng cao-áp-huyết ở phụ nữ mang thai, có nguy cơ tính mạng của mẹ lẫn thai nhi.
 
Đau nhức: Aspirin dùng trị đau nhức (pain killer), nhất là sau khi nhổ răng hay giải phẫu nhẹ, kinh kỳ đàn bà. Không hiệu quả để trị đau bắp thịt do vận động nặng. Aspirin với liều lượng cao rất hữu hiệu hạ sốt và đau nhức khớp xương do phong thấp trong ṿng 3 ngày và trị liệu chấm dứt sau 1 hay 2 tuần lễ. Cũng rất hữu hiệu trị đau cổ họng (throat sore).
 
Nhức đầu: Aspirin rất hiệu quả trị 50-60% trường hợp chứng nhức nửa đầu (migraine), 60-70% với chứng nhức đầu do căng thẳng, mỏi mệt (tension-headache).
 
Cảm sốt thông thường: Từ hơn 100 năm nay, aspirin được dùng trị hạ nhiệt và nhức mỏi do cảm cúm thông thường. Cứ 1 gram aspirin giảm thân nhiệt từ 39,0°C xuống 37,6 °C sau 3 giờ. Nhiệt bắt đầu giảm sau 30 phút, và sau 6 giờ thân nhiệt dưới 37,8 °C.
 
Ngăn ngừa đau tim (heart attack) và tai biến đột quị (stroke): Phân biệt 2 trường hợp.
Đối với bệnh nhân có triệu chứng bệnh cơ mạch, như đau tim và tai biến, uống aspirin hàng ngày với liều lượng nhẹ có thể ngăn ngừa 20% bệnh tái phát, và ngăn ngừa tử vong 10%. Ngày nay, bác sỉ đều khuyên bệnh nhân có vấn đề về tim mạch một liều lượng nhỏ (75mg) aspirin hàng ngày.
Đối với người lành mạnh, không có hay chưa có triệu chứng, uống aspirin để ngăn ngừa không có lợi, bởi v́ khả năng ngăn ngừa 10% bệnh tim mạch, nhưng gia tăng nguy cơ xuất huyết nội tạng ở bao tử và năo bộ.

Hậu-giải-phẫu tim
 
Động mạch vành (coronary) đưa máu về tim. Aspirin khuyến cáo xử dụng trong 6 tháng sau khi giải phẫu nối mạch máu với ống mạch nhân tạo (stent), hay nhiều năm khi ghép động-mạch-vành nhân tạo cho tim (coronary artery bypass graft, CABG)
Động mạch cổ (carotid) đưa máu lên năo bộ. Bệnh nhân có vấn đề tắc nghẽn ḍng máu động mạch cổ, sau khi ghép ống mạch nhân tạo, cũng khuyến cáo xử dụng aspirin.
Sau khi giải phẫu ghép mạch máu nhân tạo ở chân, aspirin cũng khuyến cáo xử dụng để giúp máu dễ lưu thông.
 
Trầm cảm (depression)
 
Ở thân người bị trầm cảm lượng cytokines cao. Aspirin làm giảm lượng cytokines nên cũng giúp giảm trầm cảm. Trong một nghiên cứu kéo dài 10 năm trong số 386 phụ nữ có 22 người bị trầm cảm sau 50 tuổi, 19 người không uống aspirin, 1 người uống aspirin. Số người c̣n lại không có trầm cảm, 1/3 số này uống aspirin.
 
Trị mụn (acne): Bột aspirin trộn với nước thoa lên da nơi có mụn, trong 2 phút, rồi rữa sạch. Mụn sẽ khô da và tróc vài ngày sau.
 
Trị gầu (Dandruff): Nguyên do chính là một loại men Pityroporum phát triển trên da đầu. Aspirin là một loại diệt nấm nhẹ nên trị được gầu. Tán 2 viên aspirin rồi trộn với xà bông gội đầu (shampoo), thoa lên da đầu trong 2 phút rồi gội sạch.
 
Bệnh ngứa lở chân (Athelete’s foot) do các loại nấm phát triển, nên aspirin cũng hữu hiệu.
 
Cao-áp-huyết lúc mang thai (Pre-eclampsia). Chứng bệnh này nguy hiểm cho người mẹ cũng như thai nhi. Một nghiên cứu tường tŕnh trong tạp chí Lancet với 32000 bà mẹ tham gia, cho biết hàng ngày uống aspirin th́ ít có nguy cơ chứng bệnh này.
 
Côn trùng chích: Ong, kiến và nhiều loại côn trùng chích làm đau đớn, da ngứa đỏ. Uống aspirin hay thoa bột aspirin ḥa với nước lên chỗ chích.
Trị dời (shingles): Aspirin rất hữu hiệu trị dời. Hai viên tán nhỏ trộn với nước rồi đấp lên chỗ lở của dời.
 
Mất trí nhớ (Dementia): Có thể dùng aspirin để chửa trị chứng bệnh Alzheimer. Nghiên cứu tại Utah (Hoa Kỳ) thử nghiệm trên 3000 người cho thấy bệnh nhân giảm nguy cơ mất trí nhớ khoảng 23%.
CÁC TÁC HẠI CỦA ASPIRIN
Tác hại nguy hiểm của aspirin là làm gia tăng xuất huyết nội. Một nghiên cứu y học thực hiện tại St George’s University ở London với trên 100,000 người khỏe mạnh không có triệu chứng về bệnh tim mạch cho thấy aspirin có cơ nguy tác hại. Hàng ngày trong 6 năm liên tục, một nửa số người tham dự thử nghiệm cho uống aspirin thật, nửa số kia là aspirin giả (không có chứa aspirin, hay thuốc ǵ khác, nhưng h́nh dạng giống y aspirin thật). Kết quả được công bố cho thấy aspirin làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch 10%, nhưng gia tăng 30% nguy cơ bị xuất huyết ở bao tử, và năo bộ có thể làm chết người. Việc công bố kết quả nghiên cứu này làm bệnh nhân điều trị với aspirin lo sợ. Để giúp bệnh nhân an tâm, cơ quan thẩm quyền y tế khuyến cáo là những ai có triệu chứng bệnh cơ mạch như tim và tai biến tiếp tục uống aspirin hàng ngày. Theo hướng dẫn y tế công cộng ở Anh năm 2005, những ai trên 50 tuổi, có nguy cơ bệnh tim mạch như cao-áp-huyết (high blood pressure) nên uống aspirin hàng ngày với liều lượng nhỏ.
Ngoài ra, với liều lượng mạnh làm gia tăng độc hại lên gan của trẻ em.