14. Cử Hành Đức
Tin: Phụng Vụ
Nếu Mầu Nhiệm Đức Tin, như chương
13 đă diễn giải, là Thánh Thể, th́ Cử Hành Đức
Tin phải là Phụng Vụ. Bởi v́, Phụng Vụ liên quan
đến tính cách Thánh Thiện của Giáo Hội, như
chương 12 đă đề cập đến trong xác tín 25. Thế
nên, một khi nói đến Thánh Thể là nói đến một
Hiện Diện Thần Linh và tràn đầy Sự Sống theo xác
tín của Đức Tin, th́ nói đến Phụng Vụ là nói đến
một Tác Động Thần Linh của toàn thể Giáo Hội
trong việc Cử Hành Mầu Nhiệm Đức Tin của ḿnh,
tức Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Chúa
Kitô Hiện Diện và Sống Động nơi Giáo Hội và với
Giáo Hội cho đến tận thế.
Như thế, Phụng Vụ chính là nơi
Chúa Kitô Hiển Linh qua việc Giáo Hội làm để
tưởng nhớ đến Người. Hay nói cách khác, Phụng Vụ
là việc Giáo Hội làm để Chúa Kitô Hiển Linh. Bởi
vậy, về kết cấu, Phụng Vụ, Phụng Vụ dâng Thánh
Lễ cũng như Phụng Vụ ban Bí Tích, kể cả Phụng Vụ
nguyện Giờ Kinh, bao giờ cũng bao gồm phần Nội
Dung Phụng Vụ và phần h́nh thức là phần Lễ Nghi
Phụng Vụ.
Phần Nội Dung Phụng Vụ là phần
Chúa Kitô Hiển Linh, và phần Lễ Nghi Phụng Vụ là
phần việc Giáo Hội làm. V́ phần Nội Dung Phụng
Vụ là phần Chúa Kitô Hiển Linh, do đó, Phụng Vụ
không bao giờ thiếu mục công bố Lời Chúa, phần
để Chúa Kitô tỏ ra "Tôi biết các chiên của Tôi"
(Jn.10:14). Và v́ phần Lễ Nghi Phụng Vụ là phần
việc của Giáo Hội làm, do đó, Phụng Vụ c̣n bao
gồm cả những tác động nói lên ư thức Đức Tin của
Giáo Hội trong việc tiếp xúc thần linh với Chúa
Kitô Hiển Linh, Đấng mong rằng "Các chiên của
Tôi biết Tôi" (Jn.10:14).
Riêng phần Lễ Nghi Phụng Vụ lại
được chia ra làm hai, bao gồm các tác động Lễ
Nghi của vị chủ sự và các tác động Lễ Nghi của
người tham dự. Các tác động Lễ Nghi Phụng Vụ của
vị chủ sự quan trọng nhất là việc chia sẻ Lời
Chúa, việc đọc mô thức truyền phép Thánh Thể hay
ban Bí Tích, và việc ban phát Thánh Thể và các
Bí Tích. C̣n các tác động Lễ Nghi Phụng Vụ của
người tham dự chính yếu là lắng nghe Lời Chúa và
lănh nhận Thánh Thể hay các Bí Tích, cùng với
các cử chỉ khác là thưa đáp, hát xướng, đứng lên,
ngồi xuống, qùi gối, cúi đầu, hay cộng tác trực
tiếp vào các việc giúp vị chủ sự Cử Hành Phụng
Vụ, như giúp lễ, đọc Sách Thánh và trao ban Ḿnh
Máu Thánh Chúa Kitô v.v.
Sau đây là phần tŕnh bày về
Phụng Vụ là một Cử Hành Đức Tin đối với thành
phần chủ sự cũng như đối với thành phần tham dự.
Cũng giống như các phần khác trong cuốn sách này,
thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như
sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Chủ Sự Cử Hành Phụng Vụ
Xác Tín
V́ Cử Hành Phụng
Vụ là Cử Hành một Mầu Nhiệm Thánh, do đó, vị chủ
sự cần phải là những vị được truyền Chức Thánh,
để các vị có đủ tư cách đóng vai Chúa Kitô và có
đủ quyền linh nhân danh Chúa Kitô mà Chủ Sự việc
Cử Hành Phụng Vụ Thánh này.
Mạc Khải
"Các ngươi hăy ra phố chợ mà mời
vào dự tiệc cưới bất cứ ai mà các ngươi gặp"
(Mt.22:9).
"Bấy giờ Người cầm lấy chén, dâng
lời chúc tụng tạ ơn và nói: 'Hăy nhận lấy chén
này mà chia nhau: Thày cho các con hay, từ nay
trở đi, Thày sẽ không uống trái cây nho này nữa,
cho tới khi triều đại Thiên Chúa đến'"
(Lk.22:17-18).
Nhận Thức
Phụng Vụ trong Giáo Hội Công Giáo
bao gồm Thánh Lễ, Bí Tích và Giờ Kinh. Ở đây
không cố ư t́m hiểu và đi sâu vào nguồn gốc, ư
nghĩa, giá trị cũng như tác dụng của Phụng Vụ
Thánh Lễ, Phụng Vụ Bí Tích và Phụng Vụ Giờ Kinh,
v́ đây không phải là chỗ bàn đến khoa phụng vụ
học, mà chỉ nhấn mạnh đến vai tṛ của vị chủ sự
cũng như của người tham dự trong việc Cử Hành
Đức Tin của ḿnh qua Phụng Vụ mà thôi.
Trước hết, nói đến việc "cử hành"
hay "tham dự" thường là nói đến Phụng Vụ Thánh
Lễ hơn là nói đến Phụng Vụ Bí Tích hay Phụng Vụ
Giờ Kinh. Bởi thế, khi nói đến Thánh Lễ là nói
đến việc "cử hành Thánh Lễ" hay "tham dự Thánh
Lễ", nói đến Bí Tích là nói đến việc "ban Bí
Tích" hay "lănh nhận Bí Tích", và nói đến Giờ
Kinh là nói đến "sách nguyện" hay "kinh nguyện".
Tuy nhiên, nói đến Phụng Vụ là nói đến một việc
làm của Giáo Hội, với Giáo Hội và cho cả Giáo
Hội.
Phụng Vụ là một việc làm "của
Giáo Hội", v́ đó là một việc do chính Giáo Hội
chính thức thiết lập theo Thánh Kinh cũng như
Thánh Truyền, chứ không phải do một cá nhân Kitô
hữu nào sáng chế ra hay do một mạc khải tư nào
mà có, chẳng hạn như trường hợp Kinh Mân Côi rất
hay ho, thần diệu và phổ thông, nhưng cho đến
nay vẫn không được Giáo Hội công nhận là một
kinh có tính cách Phụng Vụ.
Phụng Vụ là việc làm "với Giáo
Hội", v́ đó là một việc do chính Giáo Hội lập ra,
do đó, theo chức phận xứng hợp của ḿnh, Kitô
hữu làm việc này là làm việc của Giáo Hội và làm
cùng với Giáo Hội. Cho dù Thánh Lễ có được dâng
âm thầm trong lao tù đi nữa, Thánh Lễ này cũng
là một việc Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh của cả Giáo
Hội, chứ không phải chỉ là một việc làm riêng
của vị linh mục bị giam cầm mà thôi.
Phụng Vụ là việc làm "cho Giáo
Hội", v́ đó là việc do Giáo Hội thiết lập, bởi
vậy, làm việc Giáo Hội thiết lập là làm việc
thay cho Giáo Hội nói chung và thay cho các phần
tử khác trong Giáo Hội nói riêng, ngoài ra, cũng
là làm một việc mang lại lợi ích thiêng liêng
cho chung Giáo Hội và cho riêng các phần thể
khác. Việc nguyện Kinh Thần Vụ của các vị có
chức Thánh hay của các tu sĩ, là một trường hợp
điển h́nh trong việc làm thay cho thành phần
giáo dân. Việc ban Bí Tích là một trường hợp làm
mang lại lợi ích thiêng liêng "cho Giáo Hội" nơi
các chi thể Giáo Hội.
Phụng Vụ là việc làm của Giáo Hội,
với Giáo Hội và cho Giáo Hội, và việc "cử hành"
Phụng Vụ này thuộc về thành phần chủ sự hơn là
thành phần "tham dự" (Thánh Lễ), thành phần "lănh
nhận" (Bí Tích) hay thành phần thông công (Giờ
Kinh). Tuy nhiên, đối với Giáo Hội lữ hành,
không có Đức Tin cũng không có Phụng Vụ, v́ nếu
Phụng Vụ là việc của Giáo Hội th́ Phụng Vụ cũng
chính là việc Giáo Hội thể hiện và bầy tỏ Đức
Tin của ḿnh đối với Đấng ở với Giáo Hội cho đến
tận thế. Do đó, về phương diện Giáo Hội học,
Phụng Vụ phải nói là việc Giáo Hội Cử Hành Đức
Tin. Nếu Phụng Vụ là việc Giáo Hội Cử Hành Đức
Tin th́ dù là thành phần chủ sự Cử Hành Phụng Vụ
hay thành phần tham dự Cử Hành Phụng Vụ cũng chỉ
là cùng nhau Cử Hành Đức Tin mà thôi. Thế nhưng,
về phương diện Kitô học, Phụng Vụ c̣n là nơi
Chúa Kitô hiện diện, tỏ ḿnh và ban ḿnh cho
Giáo Hội, do đó, Phụng Vụ phải được chính thức
cử hành bởi Giáo Hội qua thành phần chủ sự,
thành phần được Giáo Hội truyền Chức Thánh cho
để có đủ tư cách thay Chúa Kitô và có đủ linh
quyền nhân danh Chúa Kitô, nơi vai tṛ chủ tế
trong việc Cử Hành Thánh Lễ hay vai tṛ chủ ban
trong việc Cử Hành Bí Tích.
Phải, chỉ có các vị có Chức Thánh
mới xứng đáng và có quyền Cử Hành Phụng Vụ mà
thôi. Đây là điều kiện tối yếu và chủ chốt để
làm nên việc Cử Hành Phụng Vụ, nghĩa là làm cho
việc truyền phép trên h́nh Bánh và h́nh Rượu trở
nên Ḿnh Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô, làm việc
đọc lời tha tội trong ṭa giải tội mang lại phần
rỗi cho các tội nhân thành tâm thống hối và xưng
thú lỗi lầm của ḿnh v.v. C̣n việc bản thân của
vị chủ tế có thánh thiện hay không, cho dù có
tội trọng trong ḿnh đi nữa khi Cử Hành Phụng Vụ
Thánh Lễ hay Các Bí Tích Thánh, không ảnh hưởng
ǵ đến việc hiệu thành của Phụng Vụ Thánh.
Mặc dầu Phụng Vụ Thánh hiệu thành
v́ vai tṛ duy nhất của Chức Thánh nơi con người
của vị chủ sự, song thành phần có Chức Thánh này
nếu mang tội trọng trong ḿnh trong khi Cử Hành
Mầu Nhiệm Thánh Lễ hay Bí Tích Thánh, về phương
diện cá nhân, nếu không kịp xưng tội trước đó và
có ư xưng tội ngay sau đó với ḷng ăn năn thống
hối thật, vị chủ sự này sẽ phạm Sự Thánh.
Chính v́ yếu tố thần linh duy
nhất là Chúc Thánh cũng đủ để hiệu thành Mầu
Nhiệm Thánh nơi việc Cử Hành Phụng Vụ như thế,
hơn là yếu tố nhân sự là lành thánh nơi bản thân
của vị chủ sự thừa tác, mà tự bản tính của ḿnh,
Chức Thánh không buộc người lănh nhận phải sống
độc thân. Và cũng v́ thế, v́ Chức Thánh không
buộc phải giữ ḿnh độc thân như thế, những người
có gia đ́nh cũng có thể lănh nhận Chức Thánh ở
mức độ của một Thày Sáu Vĩnh Viễn, để thành phần
này có thể làm nhiệm vụ phó tế trong việc Cử
Hành Phụng Vụ Thánh Lễ, nhiệm vụ thừa tác viên
Thánh Thể, nhiệm vụ công bố Phúc Âm và chia sẻ
Lời Chúa trong Thánh Lễ, cũng như nhiệm vụ ban
Bí Tích Rửa Tội và chứng nhận Hôn Phối, xong
không có quyền ban phép Giải Tội, Thêm Sức và
Xức Dầu Thánh.
Tuy nhiên, tự bản chất của ḿnh
cho dù không buộc phải sống độc thân, Chức Thánh
nơi Giáo Hội Công Giáo cũng không truyền cho
giới nữ, chỉ truyền cho giới nam mà thôi. Đây
không phải là vấn đề Giáo Hội Công Giáo, tiếng
nói mănh liệt nhất trong việc bênh vực quyền lợi
và phẩm giá của con người trên thế giới, kỳ thị
phái tính, cho bằng v́ nó là một vấn đề thuộc về
mạc khải cũng như truyền thống của Giáo Hội. Vấn
đề Giáo Hội Công Giáo không truyền Chức Thánh
cho nữ giới theo mạc khải được căn cứ vào ư định
của Chúa Kitô, khi Người phán: "Các con hăy làm
việc này mà nhớ đến Thày" th́ không có một người
nữ nào ở đó, kể cả người Mẹ rất thánh của Người,
ngoại trừ 11 vị Tông Đồ mang thân phận nam nhân.
Vấn đề Giáo Hội Công Giáo không truyền Chức
Thánh cho nữ giới chẳng những được dựa vào mạc
khải mà c̣n căn cứ vào truyền thống lưu lại từ
thành phần chứng nhân tiên khởi là các Tông Đồ.
Về phương diện nhân loại học, vấn
đề Giáo Hội không truyền Chức Thánh cho giới nữ,
có thể suy luận rất hợp lư từ bản chất tự nhiên
của mỗi phái tính. Nam tính được bẩm sinh là
phái tính có khuynh hướng và tính chất thông ban
sự sống, trong khi nữ tính theo thiên phú là
phái tính có khuynh hướng lănh nhận mang sự sống.
Mà Chức Thánh là Quyền Năng thông ban Sự Sống
nên không thích hợp với nữ tính cho bằng nam
tính, phái tính của Lời nhập thể.
Vẫn biết Chức Thánh là một Quyền
Năng để thông ban Sự Sống Thần Linh và không
buộc người lănh nhận phải sống độc thân, tuy
nhiên, Giáo Hội là Thẩm Quyền Tối Cao có quyền
truyền chức th́ cũng có quyền huyền chức hay "treo
chức", khi thấy nơi con người mang Chức Thánh đó
có những gương mù gương xấu bất xứng với thiên
chức vô cùng cao trọng của ḿnh. Để rồi, một khi
bị "treo chức", tức bị cấm không được thi hành
năng quyền Chức Thánh của ḿnh nữa, th́ con
người mang ấn tín linh mục không thể nào xóa bỏ
ấy có Cử Hành Bí Tích Thánh chẳng những bản thân
có tội mà cả bí tích cũng không thành, như trong
trường hợp các ngài ban Bí Tích Giải Tội (Giáo
Luật khoản 966) hay Bí Tích Hôn Phối (Giáo Luật
khoản 1109).
Để xứng đáng lănh nhận Chức Thánh
trong việc Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh cũng như ban
các Bí Tích Thánh, và để có thể toàn hiến trong
việc mục vụ chăm sóc phần rỗi cho đoàn chiên của
ḿnh theo gương vị Mục Tử Tốt Lành hiến mạng
sống v́ chiên, th́ thành phần lănh nhận Chức
Thánh, theo luật riêng của Giáo Hội Công Giáo,
phải giữ ḿnh độc thân trọn đời, không được lập
gia đ́nh. Như thế, nếu Chúa Kitô không ngừng yêu
thương, ở cùng và ban ḿnh cho Giáo Hội là thân
thể của Người cho đến tận thế, được thể hiện qua
Chức Thánh mà Người trao ban cho chung Giáo Hội
cũng như cho riêng hàng tư tế thừa tác, th́ việc
Giáo Hội ban bố luật linh mục độc thân là việc
Giáo Hội muốn thuộc trọn về Chúa Kitô, phu quân
của ḿnh.
Tham Dự Cử Hành Phụng Vụ
Xác Tín
V́ Cử Hành Phụng
Vụ là cử hành một Mầu Nhiệm Thánh, do đó, thành
phần tham dự cũng phải là thành phần Thánh theo
thân phận của họ cũng như trong ư hướng của họ,
nhất là nơi tinh thần của họ, khi họ muốn được
thực sự thừa hưởng hầu hết các Bí Tích Thánh.
Mạc Khải
"Hăy tiến lại gần đây! Hăy bỏ dép
của ngươi ra, v́ chỗ ngươi đang đứng là đất
thánh" (Ex.3:5).
"Khi nhà vua đến gặp khách khứa,
ông bắt gặp một người không trang phục xứng với
bữa tiệc cưới. Vua nói: 'Này bạn, sao bạn đến
đây lại không trang phục một cách xứng hợp?'"
(Mt.22:11-12).
Nhận Thức
Nếu thành phần Chủ Sự Cử Hành
Phụng Vụ Thánh cần phải có Chức Thánh mới có đủ
tư cách Chủ Sự Phụng Vụ Thánh thế nào, th́ thành
phần Tham Dự Cử Hành Phụng Vụ Thánh cũng cần
phải có Ơn Thánh mới có đủ tư cách Tham Dự Phụng
Vụ Thánh như vậy. Ngoài ra, nếu thành phần Chủ
Sự Cử Hành Phụng Vụ Thánh c̣n cần phải có năng
quyền mới có khả năng thi hành một cách hiệu lực
Chức Thánh của ḿnh thế nào, th́ thành phần Tham
Dự Cử Hành Phụng Vụ Thánh cũng cần phải có cả ư
hướng hoàn toàn ngay lành nữa mới có khả năng
thể hiện Ơn Thánh nơi ḿnh như vậy. Bởi thế,
điều kiện chính yếu trong việc Tham Dự Phụng Vụ
Thánh là phải có Ơn Thánh và Ư Hướng Ngay Lành.
Trước hết, về điều kiện Ơn Thánh
để có thể Tham Dự Phụng Vụ Thánh, nên để ư đến
trường hợp của thành phần dự ṭng trước khi lănh
nhận Bí Tích Rửa Tội, nghĩa là trước khi họ có
Ơn Thánh, và thành phần phạm tội trọng trước khi
lănh nhận Bí Tích Ḥa Giải, nghĩa là họ đă mất
Ơn Thánh. Bởi v́, theo giáo lư của Giáo Hội Công
Giáo, để xứng đáng lănh nhận các Bí Tích, nhất
là Bí Tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh, kể cả
Bí Tích Hôn Phối và Xức Dầu Thánh, Kitô hữu Công
Giáo phải ở trong t́nh trạng có Ơn Thánh, tức là
không mắc trọng tội, bằng không, dù có tham dự
Thánh Lễ, theo nguyên tắc, họ cũng không được
công ǵ, mà nếu họ lên rước lễ th́ họ sẽ mắc
thêm một trọng tội khác là tội phạm Sự Thánh.
Tuy nhiên, nếu xét theo ư nghĩa
đích thực của Ơn Thánh, một quyền năng được làm
con cái Thiên Chúa (x.Jn.1:12), th́ những hối
nhân mang trọng tội trong ḿnh không phải v́ thế
họ không c̣n là con cái Thiên Chúa nữa, và Thiên
Chúa không c̣n là Cha của họ nữa. Do đó, họ vẫn
có đủ tư cách của một người con cái Thiên Chúa,
như người con hoang đường trong Phúc Âm thánh
Luca, để "đứng lên trở về với Cha tôi"
(Lk.15:20), trong việc Tham Dự Phụng Vụ Bí Tích
Thánh nơi ṭa giải tội. Bởi v́, nếu xét theo mục
đích của các Bí Tích là thông ban sự sống của
Chúa Kitô cho chung Giáo Hội cũng như cho riêng
từng chi thể của Người là Kitô hữu, th́ c̣n ai
đáng và cần lănh nhận sự sống của Chúa Kitô,
Đấng "đến t́m kiếm và cứu vớt những ǵ đă hư đi"
(Lk.19:10), cho bằng những đứa con hoang đường
thành tâm muốn trở về với Người này.
Ngoài ra, nếu xét về nguồn gốc Ơn
Thánh là "ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa"
(Lk.1:30), tức là Ơn được Thiên Chúa thương, Ơn
Thiên Chúa muốn ban cho ai th́ ban, như "Ngài
muốn thương ai th́ thương" (Rm.9:15), và ban lúc
nào hay tỏ dấu thương khi nào cũng tùy ư Ngài,
th́ thành phần dự ṭng cũng là thành phần được
ơn nghĩa với Chúa trước khi họ chính thức lănh
nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh. Do đó, trong thời
gian họ đang học đạo để thực sự trở thành một
người tân ṭng, nếu họ có bị chết bất đắc kỳ tử
đi nữa, theo giáo lư Công Giáo, họ cũng được rỗi,
v́ họ đă được rửa tội bằng lửa rồi, tức được rửa
bằng ḷng mến, "bằng Thánh Linh" (Jn.1:33), như
trường hợp của gia đ́nh Cornêliô nhận lănh Thánh
Linh trước khi được Thánh Phêrô chính thức ban
phép rửa cho (x.Acts 10:44,47).
Vả lại, nếu việc Cử Hành hay Tham
Dự Phụng Vụ Thánh là việc Cử Hành Đức Tin, th́
thành phần dự ṭng và thành phần Kitô hữu mắc
trọng tội cũng hội đủ tư cách để Tham Dự Phụng
Vụ Thánh nơi Bí Tích Rửa Tội (đối với dự ṭng)
và Bí Tích Giải Tội (đối với Kitô hữu mang trọng
tội).
Đối với thành phần dự ṭng, nếu
họ không "tin vào tin mừng" (Mk.16:16) họ đă
không xin trở lại và "lănh nhận phép rửa"
(Mk.16:16). "Việc tin" nơi thành phần dự ṭng
như thế, theo nguyên tắc, tuy chưa thể gọi là
Đức Tin được Thiên Chúa phú bẩm khi họ lănh nhận
phép rửa, nhưng trên thực tế, "việc tin" của họ
khi họ chưa là tân ṭng đây cũng không phải "ḷng
tin" tự họ mà có, song do Thiên Chúa tác động để
họ có thể nhận biết Ngài và trở lại với Ngài,
như "chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết
chúng và chúng theo Tôi" (Jn.10:27). Như thế,
nếu "việc tin" của thành phần dự ṭng từ Chúa mà
đến và hướng về Chúa như một nhân đức đối thần,
mà Đức Tin cũng đến từ Chúa và là một nhân đức
đối thần hướng về Chúa, th́ "việc tin" của thành
phần dự ṭng cũng có thể được coi là Dự Đức Tin,
hay Đức Tin được hưởng trước vậy.
Đối với thành phần Kitô hữu mang
trọng tội, nếu họ chưa hoàn toàn chối bỏ Đức
Tin, bằng việc hồ nghi hay phủ nhận một tín điều
nào đó của Giáo Hội, th́ họ vẫn c̣n Đức Tin,
nghĩa là vẫn c̣n chấp nhận Thiên Chúa. Chính v́
họ c̣n chấp nhận Thiên Chúa, c̣n Đức Tin để
hướng về và t́m kiếm "Cha là Thiên Chúa chân
thật duy nhất" (Jn.17:3) của ḿnh, Đức Tin mới
cứu họ (x.Lk.7:50), như đă cứu "người đàn bà nổi
tiếng tội lỗi trong thành" (x.Lk.7:37), và nhờ
Đức Tin họ mới có lư và có thể trở về với Thiên
Chúa qua Bí Tích Giải Tội. Do đó, mỗi lần Kitô
hữu mang trọng tội đến ṭa giải tội không phải
là họ Cử Hành Đức Tin, Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh,
Mầu Nhiệm Thiên Chúa là Cha Yêu Thương con cái
yếu hèn của Ngài vô cùng hay sao?
Phần Thiên Chúa, mỗi lần có người
con nào của Ngài tin tưởng trở về với Ngài, Ngài
cũng Cử Hành Mầu Nhiệm Yêu Thương của Ngài, như
trường hợp Ngài hết sức hân hoan vui sướng tỏ ra
trong dụ ngôn người con hoang đàng, đến nỗi,
việc Ngài cử hành long trọng thậm chí đă gây cho
người con cả phải động ḷng ghen tức
(x.Lk.15:22-24,29-32). Đối với thành phần dự
ṭng trở về với Ngài cũng thế, Ngài cũng hân
hoan cử hành việc Ngài t́m thấy họ, như trường
hợp người chủ chăn t́m thấy con chiên lạc duy
nhất trong số 100 con của họ (x.Lk.15:4-5), hay
như trường hợp của người đàn bà đốt đèn và quét
dọn cho đến khi t́m thấy đồng bạc trong số 10
đồng của ḿnh bị rơi mất (Lk.15:8-9).
Trong việc Tham Dự Phụng Vụ Thánh,
ngoài điều kiện chính yếu là Ơn Thánh để con
người có đủ tư cách tham dự vào Mầu Nhiệm Thánh,
thành phần Tham Dự Phụng Vụ Thánh c̣n phải có Ư
Ngay Lành trước khi và trong khi tham dự Mầu
Nhiệm Thánh nữa, nghĩa là hoàn toàn không v́ một
lư do phàm tục nào, như để lấy tiếng với thế
gian. Bằng không, họ đă tục hóa Mầu Nhiệm Thánh,
và do đó, họ chẳng những không nhận được lợi ích
thiêng liêng bởi việc Tham Dự Phụng Vụ Thánh th́
chớ, trái lại, họ c̣n mắc tội phạm Sự Thánh nữa
là đàng khác.
Thế nhưng, Ư Ngay Lành nơi thành
phần Tham Dự Phụng Vụ Thánh đây là ǵ, nếu không
phải là ḷng họ khao khát muốn thông hiệp với
Chúa hơn qua các Bí Tích, nhất là Bí Tích Rửa
Tội, Thêm Sức, Ḿnh Thánh Chúa và Giải Tội, để
nhờ sự sống của Chúa phát triển nơi ḿnh, họ có
thể liên lỉ sống đẹp ḷng Ngài, bằng một đời
sống đức ái trọn hảo trong mọi nơi và mọi lúc,
luôn luôn tín thác mọi sự cho Ngài, hăng say t́m
kiếm hy sinh bỏ ḿnh theo gương Chúa, nhất là
sẵn sàng và vui ḷng chấp nhận trở nên tất cả
mọi sự như Ngài muốn, dù có phải đau khổ đến đâu
đi nữa.
Như thế, Ư Hướng Ngay Lành chẳng
qua chỉ là hiện thân của Đức Mến và phát xuất từ
Đức Mến. Nếu Ơn Thánh là điều kiện chính yếu để
Tham Dự Phụng Vụ Thánh th́ Đức Mến quả là một
khả năng đối thần không thể thiếu để Kitô hữu có
thể Tham Dự Mầu Nhiệm Thánh. Nếu việc Cử Hành
hay Tham Dự Phụng Vụ Thánh là việc Cử Hành Đức
Tin, th́ việc Cử Hành Đức Tin này cũng chính là
việc Cử Hành Đức Mến, một việc Kitô hữu chứng
thực ḿnh nhận biết Thiên Chúa, ở chỗ họ tỏ ra
họ thiết tha yêu mến Ngài: "Ai yêu thương th́
được sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Ngài.
Người không yêu thương th́ không biết ǵ về
Thiên Chúa, v́ Thiên Chúa là t́nh yêu"
(1Jn.4:7-8).
Chính nhờ Đức Mến này, Kitô hữu
chẳng những chính thức Tham Dự Phụng Vụ Thánh
một cách sốt sắng và đầy hiệu năng, mà c̣n nhờ "sự
sống viên măn hơn" (Jn.10:10), họ tiếp tục Cử
Hành Mầu Nhiệm Thánh suốt cả cuộc sống của ḿnh,
với vai tṛ của một tư tế, ngôn sứ và vương giả,
v́ họ đă được xức dầu khi lănh nhận Bí Tích Rửa
Tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu Cử
Hành Mầu Nhiệm Thánh với tư cách là một tư tế,
khi họ thánh hóa mọi việc làm lớn nhỏ trong cuộc
sống của họ. Kitô hữu Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh
với tư cách là một ngôn sứ, khi họ loan truyền
tin mừng cho tất cả mọi tạo vật (x.Mk.16:15),
bằng việc làm chứng cho Chúa (x.Lk.24:48). Và
Kitô hữu Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh với tư cách là
một vương giả khi họ biết làm chủ ḿnh và chiến
thắng thế gian bằng Đức Tin (x.1Jn.5:4), hay
bằng việc Cử Hành Đức Tin.