Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức
XVI – loạt
bài giáo lư
Đức
Tin Thứ
Tư
23/1/2012 – bài thứ
11: "Tôi tin kính Thiên Chúa" - mô phạm nơi tổ phụ
Abraham
Anh Chị Em thân mến,
Trong Năm Đức Tin này, hôm nay tôi muốn bắt đầu chia
sẻ với anh chị em về Kinh Tin Kính, một lời tuyên
xưng đức tin long trọng là những ǵ luôn đi kèm với
chúng ta là thành phần tín hữu. Tin Kinh Kính được
bắt đầu rằng “Tôi tin kính Thiên Chúa”. Đó là một
khẳng định nền tảng, một khẳng định giản dị có vẻ
như lầm lẫn nơi thiết yếu tính của nó nhưng lại là
một khẳng định hướng tới một thế giới vô biên về mối
liên hệ với Chúa và với mầu nhiệm của Ngài. Việc tin
tưởng Thiên Chúa bao gồm việc gắn bó với Ngài, việc
đón nhận Lời của Ngài và hân hoan chấp nhận mạc khải
của Ngài. Như Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo dạy:
“Đức tin là hành động của bản thân – là việc đáp ứng
của con người đối với việc khơi động của Thiên Chúa
là Đấng mạc khải ḿnh ra” (số 166). Bởi thế, để có
thể nói một người tin Thiên Chúa th́ đó là vừa là
một tặng ân – ở chỗ Thiên Chúa tỏ ḿnh ra, Ngài đến
gặp gỡ chúng ta – vừa là một việc dấn thân, nó vừa
là ân sủng thần linh vừa là trách nhiệm của con
người, bằng một cảm nghiệm trao đổi với Thiên Chúa
là Đấng v́ yêu thương “nói với con người như bạn
hữu” (Dei Verbum, 2); Ngài nói với chúng ta để, bằng
đức tin và với đức tin, chúng ta có thể được hiệp
thông với Ngài.
Chúng ta có thể nghe Lời của ngài ở đâu? Thánh Kinh
là chính, ở đó Lời của Thiên Chúa trở thành khả
thính cho chúng ta và nuôi đưỡng đời sống của chúng
ta là các “bạn hữu” của Thiên Chúa.
Toàn thể Thánh
Kinh tŕnh thuật lại mạc khải của Thiên Chúa tỏ ra
cho loài người, tất cả Thánh Kinh nói về đức tin và
dạy chúng ta đức tin bằng cách kể ra câu chuyện về
việc Thiên Chúa thực hiện dự án cứu chuộc của Ngài
và đến gần với loài người chúng ta, qua nhiều h́nh
ảnh rạng ngời của những con người tin vào Ngài và kư
thác bản thân họ cho Ngài, cho đến khi mạc khải được
trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.
Một đoạn tuyệt vời liên quan tới vấn đề này đó là
đoạn 11 trong Thư gửi Do Thái chúng ta vừa nghe.
Đoạn này nói về đức tin và đề cao các đại nhân vật
trong thánh kinh đă sống đức tin, trở thành một mô
phạm cho tất cả mọi tín hữu: “Đức tin là bảo đảm
những ǵ hy vọng và là xác tín những ǵ không thấy”
(11:1). Con mắt đức tin bởi thế có thể thấy những ǵ
vô h́nh và con tim của tín hữu có thể hy vọng vượt
trên tất cả mọi hy vọng, như Abraham là vị được
Thánh Phaolô nói trong Thư Rôma rằng ông “đă tin,
khi hy vọng không c̣n hy vọng” (4:18).
Và tôi muốn tập trung chính yếu vào Abraham, v́ ông
là điểm qui chiếu chính yếu đầu tiên để nói về niềm
tion tưởng vào Thiên Chúa: Abraham là một vị đại tổ
phụ, là mô phạm gương mẫu, là cha của tất cả mọi tín
hữu (x Rm 4:11-12). Bức Thư gửi Do Thái cho thấy ông
như sau: “Bằng đức tin, Abraham đă tuân phục khi ông
được kêu gọi lên đường đến một nơi ông được nhận
lănh làm gia nghiệp; và ông đă ra đi, không biết
ḿnh đi đâu. Bằng đức tin, ông đă ở một thời gian
nơi mảnh đất ông được hứa ban, như trong một mảnh
đất lạ, sống trong lều, như Isaac và Giacóp, những
vị thừa hưởng với ông cùng một lời hứa. V́ ông hướng
tới một thành đô được xây dựng bởi Thiên Chúa là
kiến trúc sư và kiến tạo sư của nó” (11:8-10).
Tác giả Thư Do Thái ám chỉ ở đây đến tiếng gọi của
Abraham, được Sách Khởi Nguyên thuật lại, cuốn sách
đầu tiên của Thánh Kinh. Thiên Chúa muốn ǵ nơi vị
đại tổ phụ này? Ngài muốn ông rời bỏ quê hương của
ông mà đi đến xứ sở Ngài sẽ chỉ cho ông: “Hăy rời bỏ
quê hương của ngươi và gịng tộc của ngươi cùng nhà
cha của ngươi để đến mảnh đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”
(Gen 12:1). Làm sao chúng ta có thể đáp ứng một lời
mời gọi như thế? Thật vậy, nó là một cuộc lên đường
trong tăm tối, không biết Thiên Chúa sẽ dẫn ông đi
đâu; nó là một cuộc hành tŕnh cần đến đức tuân phục
và ḷng tin tưởng toàn diện, chỉ có thể khả thi nhờ
đức tin. Thế nhưng cái tăm tối của vô thức – về nơi
Abraham sẽ phải đi – lại được soi sáng bởi ánh sáng
của một lời hứa; Thiên Chúa thêm vào lệnh truyền của
Ngài một lời bảo đảm mở ra trước Abraham một tương
lai sự sống trọn vẹn: “Ta sẽ làm cho ngươi trở thành
một đại quốc và Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, làm cho
danh ngươi nên cao cả…. và nơi ngươi tất cả mọi gia
đ́nh trên trái đất này sẽ được chúc phúc” (Gen
12:2-3).
Theo Thánh Kinh, phúc lành này được gắn liền một
cách chính yếu với tặng ân sự sống do Thiên Chúa
ban, và thể hiện chính yêu nơi tính chất phong phú,
nơi một sự sống được trtở nên muôn vàn, truyền từ
đời nọ đến đời kia. Và phúc lành này cũng được gắn
liền với cảm nghiệm về việc sở hữu một mảnh đất, một
nơi chốn vững chắc để sống và phát triển trong tự do
và an toàn, kính sợ Thiên Chúa và xây dựng một xă
hội con người trung thành với Giao Ước, “một vương
quốc tư tế và một thánh quốc” (cf Ex 19:6).
Vậy Abraham, theo dự án thần linh, được ấn định trở
thành “cha của muôn vàn dân nước” (Gen 17:5; cf. Rom
4:17-18) và tiến vào một miền đất để sống ở đó. Tuy
nhiên, Sarah là vợ của ông lại son sẻ, không thể
sinh con đẻ cái; và xư sở mà Thiên Chúa dẫn ông đến
th́ xa khỏi quê hương của ông, một xứ sở có những
dân nước khác định cư và sẽ chẳng bao giờ thực sự
thuộc về ông. Thánh kư nhấn mạnh rằng, cho dù rất
thận trọng: khi Abraham tiến đến nơi Thiên Chúa hứa
th́ “bấy giờ những người Canaanites đă ở mảnh đất
này rồi” (Gen 12:6). Mảnh đất mà Thiên Chúa ban cho
Abraham không thuộc về ông, ông là một kẻ xa olạ và
sẽ vĩnh viễn là thế, với tất cả những ǵ nó bao gồm:
không khát vọng sở hữu, luôn cảm thấy gia sản của
Ngài, thấy hết mọi sự là tặng ân. Đây cũng là thân
phận thiêng liêng của những ai đồng ư theo Chúa
Kitô, những ai quyết định lên đường, chấp nhận tiếng
gọi của Người, căn cứ vào dấu hiệu phúc lành vô h́nh
nhưng quyền năng của Người. Và Abraham, “cha của tất
cả mọi tín hữu”, chấp nhận tiếng gọi này bằng đức
tin. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi Rôma rằng: “Hy
vọng dù không c̣n hy vọng, ông đă tin tưởng rằng ông
sẽ trở thành ‘cha của nhiều dân nước’, theo những ǵ
đă được nói, ‘gịng dơi của ngươi sẽ rất đông đảo’.
Ông đă không yếu tin khi ông thấy rằng thân thể của
ông, một thân xác đă gia nua (v́ ông gần 100 tuổi),
hay khi ông thấy cái son sẻ nơi bụng dạ của Sarah.
Ông không hề bị lung lạc về lời hứa của Thiên Chúa,
thế nhưng ông trở nên mạnh mẽ trong đức tin của ḿnh
khi ông làm cho Thiên Chúa vinh hiển, khi hoàn toàn
xác tín rằng Thiên Chúa có thể làm những ǵ Ngài đă
hứa” (Rom 4:18-21).
Đức tin
dẫn Abraham đến bước lên một con đường nghịch
thường. Ông sẽ được chúc phúc, thế nhưng không có
một dấu hiệu hiển nhiên nào về cái phúc này: ông
nhận lănh lời hứa trở thành một đại quốc, thế nhưng
bằng một đời sống son sẻ nơi người vợ Sarah của ông;
ông được dẫn đến một mảnh đất mới thế nhưng ông sẽ
phải sống ở đó như một kẻ xa lạ, và và việc sở hữu
duy nhất của mảnh đất này sẽ được ban cho ông sẽ là
sở hữu một lô chôn táng cho Sarah (cf Gen 23:1-20).
Abraham được chúc phúc v́ bằng đức tin ông biết cách
nhận thức được phúc lành thần linh bằng cách vượt ra
ngoài những dáng vẻ bề ngoài, tin tưởng vào sự hiện
diện của Thiên Chúa ngay cả khi đường lối của Ngài
đường như diệu với đối với ông.
Đối với
chúng ta điều này có nghĩa là ǵ? Khi chúng ta khẳng
định: “Tôi tin kính Thiên Chúa”, là chúng ta nói,
như Abraham: “Tôi tin tưởng vào Ngài: Tôi tín thác
bản thân tôi cho Ngài là Chúa”, thế nhưng không phải
như là một Ai Đó để có thể chạy đến chỉ vào những
lúc khó khăn hay để cống hiến một ít giây phút trong
ngày hoặc trong tuần. Khi nói “tôn tin kính Thiên
Chúa” nghĩa là xây dựng đời sống của ḿnh trên Ngài,
để Lời của Ngài mỗi ngày hướng dẫn chúng ta, nơi
những chọn lựa cụ thể, mà không sợ mất đi một cái ǵ
đó của bản thân ḿnh. Trong Nghi Thức Rửa Tội, chúng
ta được hỏi 3 lần rằng: “con có tin” Thiên Chúa,
Chúa Giêsu Kitô, Thánh Linh, Hội Thánh Công Giáo và
các chân lư đức tin khác không, câu đáp 3 lần duy
nhất là: “Tôi tin”, v́ cuộc sống cá nhân của chúng
ta cần phải vượt qua một khúc quanh bằng tặng ân đức
tin, chính đời sống của chúng ta cần phải thay đổi,
cần phải hoán cải. Mỗi lần chúng ta tham dự Phép
Rửa, chúng ta cần phải tự hỏi chúng ta sống đại tặng
ân đức tin mỗi ngày ra sao.
Abraham, người tín hữu, dạy chúng ta đức tin; và, là
một kẻ xa lạ trên mặt đất, cho chúng ta thấy quê
hương đích thực của chúng ta.
Đức tin biến chúng ta
thành những kẻ hành hương trên trái đất, được ở
trong thế giới và trong lịch sử của nó, thế nhưng
lại đang lữ hành tiến về quê hương thiên quốc.
Bởi
thế, việc tin vào Thiên Chúa làm cho chúng ta trở
thành những kẻ chất chứa những thứ giá trị thường
không trùng hợp với những ǵ là thời trang hay ư
nghĩ của thời đại, nó muốn chúng ta chấp nhận nnhững
qui chuẩn và liên hệ với tác hành không thuộc về
cách thức suy nghĩ chung. Kitô hữu không được sợ “đi
ngược chiều” để sống đức tin của ḿnh, phản lại
khuynh hướng “vào hùa”. Ở nhiều xă hội Thiên Chúa đă
trở nên “hoàn toàn khuất bóng” và chỗ của Ngài đă bị
chiếm bởi nhiều thứ ngẫu tượng, trước hết là ngẫu
tượng “cái tôi” tự trị. Những tiến triển quan trọng
và tích cực về khoa học và kỹ thuật cũng đă gây ra
nơi con người một ảo ảnh về quyền năng và tự măn, và
một thứ qui kỷ đang gia tăng đă tạo nên nhiều chênh
lệnh nơi những mối quan hệ liên cá thể và các hành
vi về xă hội.
Tuy
nhiên, nỗi khát khao Thiên Chúa (cf Ps 63:2) đă
không biến mất và sứ điệp Phúc Âm vẫn tiếp tục vang
dội bằng những lời nói và việc làm của nhiều con
người nam nữ của niềm tin. Abraham, cha của thành
phần tín hữu, tiếp tục là cha của nhiều con cái đang
muốn bước theo bước chân của ông mà lên đường, tuân
theo tiếng gọi thần linh, tin tưởng vào sự hiện diện
nhân từ của Chúa và đón nhận phúc lành của Người
trong việc trở nên phúc lành cho tất cả mọi người.
Chính thế giới này của đức tin được chúc phúc mà
chúng ta tất cả được kêu gọi đến với, để mạnh dạn
bước đi theo Chúa Giêsu Kitô. Và đôi khi nó là một
cuộc hành tŕnh khó khăn, thậm chí bao gồm cả thử
thách và chết chóc, thế nhưng lại hướng về sự sống,
trong một cuộc biến đổi thực tại toàn diện mà chỉ có
con mắt đức tin mới có thể dồi dào thấy được và cảm
nhận.
Thế nên
việc nói “tôi tin kính Thiên Chúa” dẫn chúng ta đến
chỗ lên đường, liên tục ra khỏi bản thân ḿnh, như
Abraham, để mang vào thực tại hằng ngày được chúng
ta sống sự vững vàng có được từ đức tin: sự vững
vàng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử,
ngay cả ngày hôm nay đây; một sự hiện diện mang lại
sự sống và ơn cứu độ, và hướng chúng ta về một tương
lai với Ngài cho một sự sống viên trọn không bao giờ
suy giảm. Xin cám ơn anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
23/1/2013 (nhan đề và những chỗ được in đậm lên là
do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật những
điểm chính yếu quan trọng)