Lời Chúa: Tác
Nhân Đức Tin
Xác Tín
Lời Chúa là tác nhân của
Đức Tin bởi v́ tính cách nhập thể của Lời Chúa
cùng với tác dụng của Lời Chúa từ bên trong
thành phần lănh nhận Đức Tin.
Mạc Khải
"Nếu qúi vị sống theo giáo huấn
của Tôi, qúi vị thực sự là môn đệ của Tôi' rồi
qúi vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải
thốt qúi vị" (Jn.8:31-32).
"Tôi bảo thật cho qúi vị hay, mọi
người sống trong tội lỗi th́ làm nô lệ cho tội
lỗi... Đó là lư do tại sao nếu qúi vị được Con
giải thốt cho th́ qúi vị sẽ thực sự có tự do"
(Jn.8:34,36).
Nhận Thức
Nếu đức tin là phản ảnh mạc khải
của Thiên Chúa, và mạc khải của Thiên Chúa là
nhân trung của đức tin, th́ mạc khải của Thiên
Chúa hay Lời Thiên Chúa, Lời nhập thể, cũng là
tác nhân của đức tin nữa. Đúng thế, tác nhân làm
cho hạt giống nẩy mầm là nhân trung của nó chứ
không phải là vỏ của nó' nếu nhân trung của hạt
giống không nẩy mầm th́ vỏ của nó sẽ không bao
giờ nẩy nở. Cũng thế, tác nhân của việc sinh con
không phải là thai mẫu mà là thai nhi' nếu thai
nhi không đạp bụng mẹ đ̣i ra th́ thai mẫu có cố
hết sức tự nhiên cũng không thể nào tự ḿnh sinh
ra thai nhi trước giờ ấn định là thời điểm thai
nhi thúc động mẹ ḿnh.
Mạc khải là việc Thiên Chúa "nói
với chúng ta" (Heb.1:2) nên nội dung và thực tại
của mạc khải mới chính là Lời Chúa, Lời nhập thể,
để Thiên Chúa, qua Lời của Ngài, có thể thông
đạt "tất cả sự thật" (Jn.16:13) của Thiên Chúa,
về Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa cho tạo vật của
Ngài. Và v́ Lời nhập thể Thiên Chúa "muốn nói
với chúng ta" đây là "Đức Giêsu Kitô ở trong
ḷng anh em nhờ đức tin" (Eph.3:17), như nhân
trung ở trong một hạt giống được gieo vào nhân
tính của loài người, mà Người đă từng làm cho
đức tin nơi các thánh nhân nói riêng và Kitô hữu
nói chung lớn mạnh cùng sinh nhiều hoa trái.
Thật vậy, khi phán với người đàn
bà bị hoại huyết 12 năm âm thầm sờ đến áo ḿnh
rằng "đức tin của con đă làm cho con lành lại"
(Mt.9:22), hay khi phán với người mù ăn xin ngồi
bên vệ đường bất chấp bị đám đông nạt nộ cứ kêu
xin Người chữa lành cho rằng "đức tin của con đă
chữa con" (Mk.10:52), hoặc khi phán với người
đàn bà tội lỗi có tiếng trong thành ăn năn thống
hối dưới chân ḿnh rằng "đức tin của con đă cứu
con" (Lk.7:50), th́ không phải là Người chỉ nhấn
mạnh đến đức tin nơi con người là điều kiện ắt
có và đủ để Người làm phép lạ, cũng như để con
người có thể nhờ đó mà "được thấy vinh hiển của
Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ
Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14), đúng như
Người đă nói với Matta trước khi Người làm cho
Lazarô sống lại: "Thày đă chẳng quả quyết với
con rằng nếu con tin th́ con sẽ thấy vinh hiển
của Thiên Chúa tỏ hiện hay sao?" (Jn.11:40).
Bởi v́, nếu Thiên Chúa không tỏ
ḿnh ra th́ con người cũng chẳng biết đâu mà
tin, nghĩa là cũng chẳng có đức tin. Thế nên mới
nói đức tin chỉ là phản ảnh mạc khải của Thiên
Chúa và mạc khải của Thiên Chúa vừa là căn
nguyên của đức tin lại vừa là tác nhân cho đức
tin. Không phải hay sao, nếu theo bộ Phúc Âm
nhất lăm của các thánh kư Mathêu, Marcô và Luca,
đức tin nơi con người cần phải hiện hữu trước để
họ có thể được thấy vinh hiển của Thiên Chúa tỏ
hiện nơi Lời nhập thể của Ngài là Đức Giêsu Kitô,
th́ theo Phúc Âm thánh Gioan, vinh quang của
Thiên Chúa lại tỏ hiện trước để làm cho con
người tin, như trường hợp ở tiệc cưới Cana: "Chúa
Giêsu đă làm phép lạ thứ nhất này ở Cana xứ
Galilêa. Vậy Người đă tỏ vinh hiển của Người và
các môn đệ của Người đă tin vào Người"
(Jn.2:11), hay như trường hợp Người hóa 5 ổ bánh
và 2 con cá ra nhiều để nuôi 5 ngàn người, trước
khi Người tỏ cho họ biết rằng "đây là công việc
của Thiên Chúa, đó là qúi vị hăy tin vào Đấng mà
Ngài sai" (Jn.6:29), cũng như trước khi Người
bắt đầu tỏ ḿnh cho họ biết rằng "chính Tôi là
bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ
sống đời đời' bánh Tôi sẽ ban là thịt của Tôi
cho thế gian được sự sống" (Jn.6:51).
Thế nhưng, nếu Lời Chúa là tác
nhân của đức tin, nghĩa là động lực làm cho con
người tin vào những việc của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Giêsu Kitô là Đấng Ngài sai, và nếu "Lời
Chúa sống động và hiệu lực, sắc hơn cả thanh
gươm hai lưỡi. Lời Chúa phân thấu tận linh hồn,
tâm linh cùng xương tủy" (Heb.4:12), bằng chứng
là, trong lịch sử của Giáo Hội, Lời Chúa đă đánh
động bao nhiêu tâm hồn từ bỏ mọi sự theo Chúa
nơi đời sống tu tŕ hay sẵn sàng làm chứng cho
Người đến giọt máu cuối cùng, th́ tại sao lại có
chuyện "Người không thể làm phép lạ ở đó... v́
họ thiếu đức tin đến nỗi đă làm cho Người phiền
muộn" (Mk.6:5-6), chuyện "mặc dầu Người đă làm
nhiều sự lạ trước mặt họ, họ vẫn không chịu tin
vào Người" (Jn.12:37), cũng như chuyện "từ đó
trở đi có nhiều môn đệ bỏ đi không ở với nhóm
của Người nữa" (Jn.6:66) v́ họ cảm thấy rằng bài
giảng về Bánh Hằng Sống của Người "chói tai! Ai
mà nghe cho nổi?" (Jn.6:60).
Đúng thế, chính hiện tượng "thiếu
đức tin" hay "không chịu tin" nơi dân chúng và
sự kiện "bỏ đi" này nơi thành phần các môn đệ
của Chúa, lại càng nói lên mạc khải của Chúa hay
Lời Chúa chẳng những là căn nguyên của đức tin
mà c̣n là tác nhân của đức tin nữa. Bởi v́, theo
nguồn gốc và bản chất siêu nhiên của ḿnh, đức
tin không phát xuất từ trần gian, từ xác thịt,
nghiă là từ con người muốn tin là được, hay con
người tin cái ǵ là có cái đó, hoặc con người
tin ra sao th́ là như vậy, trái lại, đức tin "từ
trên cao" (Jn.3:3) mà có.
Do đó, sau khi nghe thánh Phêrô
tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống" (Mt.16:16), Chúa Kitô đă minh xác đức
tin của thánh nhân: "không phải do thuần loài
người... mà là do Cha trên trời" (Mt.16:17). V́,
"chính thần linh mới ban sự sống, c̣n xác thịt
th́ vô dụng" (Jn.6:63) như thế mà ngay sau khi
thánh Phêrô tuyên xưng đức tin liền bị Thày quở
trách hết sức thậm tệ, v́ thánh nhân đă "không
phán đốn theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa song chỉ
theo tiêu chuẩn của loài người mà thôi"
(Mt.16:23) trước mạc khải của Thiên Chúa về một
"Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" lại là
Đấng sẽ bị tử nạn rồi mới phục sinh
(x.Mt.16:21).
Chính v́ con người "thiếu đức
tin", ở chỗ "phán đốn chỉ theo tiêu chuẩn của
loài người" như thế mà cho dù có được Thiên Chúa
mạc khải cho thấy, con người cũng không nhận ra
"tất cả sự thật" (Jn.16:13), trái lại, họ c̣n
phạm tội "lộng ngôn" (Mt.12:31,32) nữa là đàng
khác. Như trường hợp khi Người làm phép lạ trừ
qủi ám cho một người vừa mù vừa câm th́ những
người Pharisiêu lại cho rằng "người này chỉ có
thể trừ qủi nhờ tướng qủi là Beelzebul giúp"
(Mt.12:24). Và cũng để tránh cho con người "thiếu
đức tin" khỏi vấp phạm tội "lộng ngôn", mà đôi
khi Chúa Giêsu đă quyết định không làm phép lạ
hay không tỏ ḿnh ra, v́ Người đă phán: "Đừng
cho chó những của thánh hay vứt ngọc ngà trước
mặt con heo. Chúng sẽ giầy đạp những thứ này
dưới chân th́ chớ chúng lại c̣n có thể quay ra
cắn xé ḿnh nữa" (Mt.7:6).
Chính "phán đốn theo tiêu chuẩn
của loài người" đă đặt ra vấn đề tại sao Thiên
Chúa không làm phép lạ cho con người thiên về
khoa học thực nghiệm ngày nay tin để họ có thể
dễ dàng trở về cùng Chúa hơn. Nói như thế có
nghĩa là "phán đốn của Thiên Chúa" không mấy
khôn ngoan, nếu không muốn nói là đần độn, v́
Ngài không biết cách thức tốt nhất cùng thời
điểm thuận lợi nhất để lôi cuốn con người đến
với ḿnh. Tiếc thay, thực tế đă cho thấy, những
ai chỉ mong thấy phép lạ, dấu lạ hay điềm lạ mới
chịu tin th́ lại là thành phần dễ bị lừa đảo
nhất trong thời tận thế là thời của các tiên tri
giả và kitô giả (x.Mt.24:5,11,24), bởi v́ ai
cũng có thể là Chúa của họ miễn là vị Chúa này
làm được những sự họ không làm được.
Quyền năng là ưu phẩm của Thiên
Chúa chứ không phải là bản tính của Ngài, do đó,
mạc khải của Thiên Chúa không phải chỉ ở tại
việc làm những phép lạ cho tạo vật kính sợ và
tín phục, cho bằng ở tại việc tỏ ra bao dung
nhân hậu, một bản tính tuyệt đối trọn lành không
thể nào có nơi bất cứ một tạo vật hay thần linh
nào không phải là "Thiên Chúa chân thật duy nhất"
(Jn.17:3) như Ngài. Đó là lư do Chúa Giêsu đă
phân định: "Nói đằng nào dễ hơn 'tội lỗi của con
đă được thứ tha' hay 'hăy đứng lên mà bước đi'"
(Mt.9:5). "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16)
đă tỏ ḿnh qua việc nhập thể và cứu thế, nên
luật lệ cũng như lời các tiên tri của Ngài được
tóm lại trong đức yêu thương (x.Mt.22:40), đến
nỗi, "nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri
th́ cho dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin
đâu" (Lk.16:31).
Nếu "Moisen", tiêu biểu cho lề
luật và "các tiên tri", tiêu biểu cho tiếng
lương tâm, là các yếu tố chính yếu và chân thực
hơn cả phép lạ bề ngoài để làm cho con người
tin, th́ Lời Chúa hay mạc khải của Thiên Chúa
quả thật là tác nhân cho đức tin của con người,
và việc giữ lề luật cũng như nghe theo tiếng
lương tâm chân chính hướng về một đức ái trọn
hảo chính là việc sống đức tin, nhờ đó, mạc khải
Thiên Chúa hay Lời Chúa được sáng tỏ, v́ đức tin
chính là phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa nơi
con người sống đức tin.