Hoa
Trái Đức Tin: Phúc Đức
Nếu thực sự sống đời "cầu nguyện
là giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh trong
tinh thần và chân lư", nghĩa là sống một cuộc
đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ,
"như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha"
(Jn.17:21), th́ cuộc đời của người Kitô hữu, như
cành nho dính liền với Cây Nho Thần Linh là Đức
Kitô, sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái, bằng không,
nếu không trổ sinh hoa trái, cuộc sống ấy chưa
thực sự là một cuộc sống cầu nguyện của "những
kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm" (Jn.4:23),
cho dù nó có um tùm những lá cây đi nữa, cũng sẽ
bị nguyền rủa như cây vả mà chết đi
(x.Mk.11:13-14).
Đúng thế, "cây tốt th́ sinh trái
tốt, c̣n cây xấu th́ sinh trái xấu. Một cây tốt
không thể nào lại sinh trái xấu, cũng như một
cây xấu không thể nào lại sinh trái tốt. Mọi cây
không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi mà quăng vào
lửa. Các con có thể coi trái biết cây. Không một
kẻ nào kêu 'Lạy Chúa, Lạy Chúa' mà được vào nước
của Thiên Chúa, song chỉ có kẻ làm theo ư muốn
của Cha Thày trên trời thôi" (Mt.7:17-21).
Cũng chính v́ thế mà dù cầu
nguyện có ngây ngất cao siêu đến đâu đi nữa, đến
nỗi "dù tôi được ơn thấu suốt hết mọi mầu nhiệm,
nếu không có đức yêu thương, tôi cũng chỉ là hư
không"" (1Cor.13:2). Phải, "làm theo ư muốn của
Cha trên trời" và "có đức yêu thương" mới là
những dấu chứng thực đời sống đạo, sống nội tâm,
sống cầu nguyện nơi Kitô hữu không giả tạo, và
con người họ mới đúng là "những kẻ tôn thờ đích
thực mà Cha t́m kiếm".
Tuy nhiên, không phải sau khi
lănh nhận Bí Tích Rửa Tội là Kitô hữu tự nhiên
đă là "những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m
kiếm", nghĩa là tự nhiên trở thành những kẻ có
một đời sống cầu nguyện siêu đẳng ngay, mà chinh
là nhờ việc họ nỗ lực "làm theo ư của Cha trên
trời" và tỏ ra "có đức yêu thương", họ mới có
thể tiến đến tŕnh độ cầu nguyện sâu xa và thần
hiệp, một t́nh trạng "tôn thờ trong Thần Linh và
chân lư", một t́nh trạng đầy những "hoa trái của
Thần Linh là yêu thương, hoan lạc, an b́nh, nhẫn
nhục, nhân từ, bao dung, tin tưởng, dịu hiền và
thanh sạch" (Gal.5:22-23). Đức Tin là hạt giống
chứa đựng nhân Mạc Khải Thần Linh, một hạt giống
đă được gieo vào "tâm linh" của Kitô hữu khi họ
lănh nhận phép rửa tội, để nơi mảnh đất tốt của
cuộc đời họ, Mạc Khải Thần Linh sẽ đạt đến tầm
vóc trọn vẹn của ḿnh nơi Hoa Trái Đức Tin là "cuộc
tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:19).
Sau đây là phần về Hoa Trái Đức
Tin là Phúc Đức Kitô Giáo. Cũng giống như các
phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh
bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Các Phúc Đức Kitô Giáo
Xác Tín
Các Phúc Đức Kitô
giáo là tinh thần sống trong thần trí được Kitô
hữu thể hiện qua tư cách làm con Thiên Chúa của
họ, xứng với gia phần mà Thiên Chúa là Cha đă
dành cho các con cái của Ngài.
Mạc Khải
"Phúc thay cho người nghèo khó
trong tinh thần' nước Thiên Chúa là của họ. Phúc
cho người sầu thương' họ sẽ được ủi an. Phúc cho
kẻ hiền lành' họ sẽ được hưởng đất đai. Phúc cho
kẻ đói khát sự thánh thiện' họ sẽ được no thỏa.
Phúc cho những ai tỏ ḷng thương xót' họ sẽ được
xót thương. Phúc cho kẻ có tâm hồn thanh sạch'
họ sẽ được thấy Thiên Chúa. Phúc cho những kẻ
kiến tạo ḥa b́nh' họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa. Phúc cho những ai chịu bắt bớ v́ sự thánh
thiện' nước Thiên Chúa là của họ. Phúc cho các
con khi người ta nhục mạ các con và bắt bớ các
con, rủa xả các con đủ điều v́ Thày, các con hăy
hân hoan sung sướng, v́ phần thưởng của các con
th́ lớn lao ở trên trời" (Mt.5:3-11).
Nhận Thức
Thật vậy, nếu "cầu nguyện là sống
t́nh con cái với Thiên Chúa là Cha của ḿnh" (Đời
Cầu Nguyện, Cao-Bùi 1992. trang 15), mà Lời Cầu
Nguyện mô phạm và lư tưởng nhất là Lời Kinh Chúa
Dạy: "Lạy Cha chúng con ở trên trời...", th́ "cuộc
tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:19) chính
là hoa trái của Đời Cầu Nguyện, tức của cuộc
giao tiếp thường xuyên và liên lỉ với Cha trên
trời.
Mà "cuộc tỏ hiện của con cái
Thiên Chúa" đây, cuộc tỏ hiện có sức làm cho thế
giới tạo vật bị lụy thuộc vào sự hư hoại được "thông
phần tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa"
(Rm.8:21) này là ǵ, nếu không phải là cuộc sống
xứng đáng làm con cái của Cha trên trời, như
cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô đă được "tỏ hiện"
ở sông Dược-Đăng và ở trên núi Biến H́nh, những
nơi mà Người đă được Cha chứng thực: "Con là Con
yêu dấu của Cha, Cha hài ḷng về Con" (Lk.3:22),
và công bố: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
ḷng về Người. Hăy lắng nghe lời Người"
(Mt.17:5).
Thật vậy, v́ "Thiên Chúa yêu thế
gian đến ban Con Một ḿnh để ai tin Con sẽ không
phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Jn.3:16),
nên việc Thiên Chúa mạc khải là việc Ngài tỏ
t́nh yêu thương nhân loại, và muốn cho nhân loại
được tham dự vào Sự Sống Thần Linh vô cùng viên
măn và toàn hảo của Ngài là chính Con Ngài và ở
nơi Con Ngài, Đấng là "tất cả sự thật"
(Jn.16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải, đồng thời
cũng là chính mạc khải của Thiên Chúa, Đấng mà "ai
chấp nhận Người th́ Người ban cho họ quyền trở
nên con cái Thiên Chúa" (Jn.1:12) với Người.
Phần con người tạo vật, nhờ "tin
vào tin mừng và lănh nhận phép rửa" (Mk.16:16),
nghĩa là đă tỏ ra "chấp nhận Người", họ đă "trở
nên con cái Thiên Chúa" với Người. Thế nhưng,
không ai đă sống đẹp ḷng Cha bằng Con, v́ "Người
Con này là phản ảnh vinh quang của Cha, là hiện
thân đích thực của hữu thể Cha" (Heb.1:2), là
Đấng "hằng ở nơi Cha, Đấng đă tỏ Cha ra"
(Jn.1:18), nên cũng là Đấng mà Cha của Người
muốn thành phần được Ngài thừa nhận làm con
(x.Rm.5:15' Gal.4:5) "hăy lắng nghe lời Người",
Phải, thành phần "chấp nhận" Chúa
Kitô để "trở nên con cái Thiên Chúa" sẽ "không
thể nào đến cùng Cha nếu không qua (Người)"
(Jn.14:6), nghĩa là nếu không biết "lắng nghe
lời Người". Ngược lại, như Chúa Kitô nói với các
môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly: "Ai vâng giữ
các mệnh lệnh mà họ lănh nhận từ Thày họ là kẻ
yêu mến Thày, mà ai yêu mến Thày th́ sẽ được Cha
Thày thương. Thày cũng thương họ và tỏ ḿnh ra
cho họ" (Jn.14:21).
Như thế, việc Chúa Kitô "tỏ hiện"
Người là Con Thiên Chúa không phải chỉ để làm
cho Cha của Người hài ḷng, như Người được Cha
chứng thực ở sông Dược-Đăng, hay cho loài người
thấy mà rập "theo" khuôn mẫu của Người, như
Người đă được Cha công bố trên núi Biến H́nh, mà
Người c̣n "tỏ hiện" ra ngay nơi chính Giáo Hội
là nhiệm thể của Người nói chung, cũng như nơi
từng Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội cũng là
của Người nói riêng, khi Người "tỏ ḿnh ra cho
họ", qua việc họ "vâng giữ các mệnh lệnh mà họ
lănh nhận từ (Người)".
Đúng thế, chính v́ "Thiên Chúa đă
sai Con Ngài sinh ra bởi một người nữ, sinh ra
theo lề luật, để giải cứu khỏi lề luật những ai
lụy thuộc lề luật, hầu chúng ta được lănh nhận
vị thế làm con thừa tự của ḿnh" (Gal.4:4-5), mà
Chúa Kitô, như Người đă tuyên bớ với riêng các
môn đệ và với chung dân chúng trên núi Phúc Đức
rằng: "Đừng tưởng Thày đến để phá hủy lề luật và
lời các tiên tri, Thày đến không phải để phá hủy
mà là để làm cho chúng được nên trọn" (Mt.5:17).
Chúa Kitô quả thực chẳng những đă
"làm trọn" nơi chính bản thân của Người "mọi sự
đă ghi chép về (Người) trong lề luật Moisen, nơi
các tiên tri và thánh vịnh" (Lk.24:44), mà c̣n
nơi chính giáo huấn của Người, một giáo huấn dạy
Kitô hữu phải "thánh thiện hơn các luật sĩ và
Pharisiêu" (Mt.5:20) là thành phần chỉ biết giữ
lề luật cắt b́ bề ngoài nơi "xác thịt th́ vô bổ"
(Jn.6:63), để Kitô hữu có thể "nên trọn lành như
Cha các con trên trời là Đấng trọn lành"
(Mt.5:48), một múc độ trọn lành của "thần trí
ban sự sống" (Jn.6:63).
Bởi v́, theo giáo huấn của vị
Thánh Tông Đồ Dân Ngoại gửi cho giáo đoàn Rôma:
"Những ai ở trong xác thịt th́ không thể nào làm
hài ḷng Thiên Chúa. Song ... anh em ở trong
thần trí, v́ Thần Linh Thiên Chúa ở trong anh em...
Nếu Thần Linh của Đấng đă làm cho Chúa Giêsu
sống lại từ kẻ chết ở trong anh em, th́ nhờ Thần
Linh của ḿnh ngự trong anh em, Đấng đă làm cho
Chúa Kitô sống lại từ kẻ chết cũng sẽ mang lại
sự sống cho thân xác chết chóc của anh em như
vậy... Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ
chết' c̣n nếu nhờ thần trí anh em tiêu diệt
những công việc gian ác nơi thân xác th́ anh em
sẽ sống" (Rm.8:8,9,11,13).
Tuy nhiên, muốn "không sống theo
xác thịt mà là sống theo thần trí" (Rm.8:4), hay
muốn "sống bởi thần trí... theo sự hướng dẫn của
thần trí" (Gal.5:25), Kitô hữu phải "lắng nghe
lời Người" là Đấng "Thiên Chúa sai đến trong một
h́nh tượng xác thịt tội lỗi để làm lễ dâng đền
tội hầu lên án tội lỗi nơi xác thịt" (Rm.8:3),
họ mới có thể đạt đến tầm mức "tự do vinh hiển
của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:21), ở chỗ họ sẽ "nên
trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn
lành" (Mt.5:48).
Mà tầm mức "trọn lành" chứng thực
Kitô hữu đă hoàn toàn "tỏ hiện" ḿnh thực sự là
con cái Thiên Chúa này đă được Chúa Kitô khai
sáng ngay trong Bài Giảng Phúc Đức để mở màn cho
công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa
của Người, như Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận, từ
đoạn 5 đến hết đoạn 7, với phần mở đầu là phần
liệt kê Các Phúc Đức và phần tiếp theo là phần
diễn giải Các Phúc Đức này.
"Đức" hay Nhân Đức của Kitô hữu
là tư cách nơi những người con Thiên Chúa, và "Phúc"
hay Hạnh Phúc của Kitô hữu là gia phần Thiên
Chúa dành cho con cái của Ngài. Tuy nhiên, theo
phần liệt kê Các Phúc Đức, như được trích dẫn ở
phần "mạc khải" trong chương này, cho thấy "Phúc"
nào th́ đi với "Đức" đó. Thế nhưng, tại sao Đức
này phải đi với Phúc kia như vậy? Mối liên hệ
của từng cặp Phúc Đức này ra sao? Và thứ tự của
cặp Phúc Đức này được đặt trước cặp Phúc Đức kia
có ư nghĩa ǵ không? Có một điều đáng chú ư là
chín hoa trái của Thánh Thần, như Thánh Phaolô
liệt kê trong thư gửi giáo đoàn Galata, đoạn 5,
câu 22 và 23, hầu như phản ảnh chín cặp Phúc Đức
theo Phúc Âm Thánh Mathêu này.
Thứ nhất là Đức khó nghèo trong
tinh thần đi với Phúc được nước Thiên Chúa. Tại
sao Đức khó nghèo lại là Đức đầu tiên trong các
cặp Phúc Đức ở đây, nếu không phải không có Đức
khó nghèo căn bản này cũng sẽ không thể nào có
các Đức khác. Vậy Đức khó nghèo ở đây là ǵ? Đức
khó nghèo ở đây là một Đức khó nghèo "trong tinh
thần" chứ không phải chỉ là t́nh trạng khó nghèo
bề ngoài hay hoàn cảnh khó nghèo vật chất. Bằng
không, tất cả những người lâm vào t́nh trạng
khó nghèo hay sống trong hoàn cảnh khó nghèo
trên thế gian này đă là thành phần có Đức khó
nghèo rồi. Như thế th́ thuyết cộng sản là một lư
thuyết đáng theo và đảng cộng sản là thành phần
sống hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm
Chúa Kitô nhất. Và như thế Thần Học Giải Phóng
càng trở thành một chủ trương sai lầm v́ muốn
làm sao cho con người được giải phóng khỏi t́nh
trạng hay hoàn cảnh khó nghèo.
Thật ra, Đức khó nghèo trong Bài
Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa Giêsu đây cũng
cần phải được tỏ ra bề ngoài, bằng một cuộc sống
khó nghèo, chẳng hạn như trường hợp điển h́nh
nơi các vị tu sĩ khấn giữ Đức khó nghèo. Bảo
ḿnh có tinh thần khó nghèo hay Đức khó nghèo mà
lại không chịu được thiếu thốn, lúc nào cũng
muốn được đầy đủ, tiện nghi, và chỉ thích dùng
những đồ sang trọng, thời trang, th́ thử hỏi con
người đó có thực sự được Phúc Nước Thiên Chúa là
của ḿnh chưa? Bởi v́, "Nước Thiên Chúa không
phải là vấn đề ăn uống mà là công chính, an b́nh
và hoan lạc được Thánh Linh ban cho" (Rm.14:17).
Do đó, Đức khó nghèo trong tinh
thần mà Chúa Giêsu nói đến trước tiên nơi Bài
Giảng trên núi Phúc Đức đây chính là một tinh
thần, nếu nói theo ngôn ngữ tu đức học, đó là
một tinh thần dửng dưng thánh thiện đối với hết
mọi sự trần gian. Không phải hay sao, đó là lư
do Chúa Giêsu đă diễn giải ư nghĩa của Đức khó
nghèo này cũng ngay trong Bài Giảng trên núi
Phúc Đức khi phán: "Đừng lo tích trữ cho ḿnh
kho báu trần gian... Thay vào đó, hăy lo thu
tích kho báu trên trời, một kho báu mà không mối
mọt gặm nhắm hay trộm cắp lấy mất được. Hăy nhớ
rằng kho báu của các con ở đâu th́ ḷng của các
con cũng ở đó... Không ai có thể làm tôi hai chủ...
Các con không thể hiến ḿnh cho cả Thiên Chúa
lẫn tiền của được" (Mt.6:19-22,24).
Chính v́ không có tinh thần khó
nghèo, mà người thanh niên đạo đức đă giữ trọn
các giới răn song vẫn không thể nào "t́m kiếm sự
trọn lành" được bởi anh ta không muốn từ bỏ tất
cả của cải giầu có của ḿnh (x.Mt.19:21-22). Nói
cách khác, chỉ v́ anh chàng giầu có đạo đức này
chưa được Phúc có Nước Thiên Chúa ngay nơi bản
thân ḿnh là "kho báu trên trời" (Mt.19:21), nên
anh ta không thể nào "t́m kiếm sự trọn lành"
bằng việc "đến mà theo (Chúa Kitô)" (Mt.19:21),
Đấng "không có chỗ dựa đầu" (Lk.9:58).
Thứ hai là Đức sống trong sầu
thương đi với Phúc được an ủi. Tại sao Đức sống
trong sầu thương lại được Chúa Giêsu cho đứng
ngay sau Đức khó nghèo trong tinh thần, nếu
không phải v́ Đức sống trong sầu thương này có
liên hệ mật thiết và trực tiếp đến Đức khó nghèo.
Không phải hay sao, tuy không thể theo Chúa t́m
kiếm sự trọn lành được như ḷng mong ước, người
thanh niên giầu sang phú qúi song đạo đức, như
được đề cập đến trên đây, cũng đă tỏ ra "sầu
thương". Nỗi "sầu thương" của chàng thanh niên
không phải là v́ anh ta tiếc rẻ hay hối hận sau
khi đă thực sự nghe lời Chúa Giêsu "bán hết của
cải và thí cho kẻ nghèo" (Mt.19:21), mà là v́
anh ta muốn "t́m kiếm trọn lành" song không được.
Đó là lư do, cũng trong Bài Giảng
trên núi Phúc Đức, Chúa Giêsu đă khẳng định:
"Hăy qua cửa hẹp mà vào. Cửa dẫn đến diệt vong
th́ rộng. Đường đi th́ rộng răi và có nhiều kẻ
chọn hành tŕnh theo con đường này. Thế nhưng
cửa dẫn đến sự sống th́ hẹp ḥi biết bao, đường
đi th́ gồ ghề và có ít người t́m được nó biết
bao" (Mt.7:13-14). "Có ít người t́m được nó",
nghĩa là t́m được cửa dẫn đến sự sống này là ǵ,
nếu không phải, theo Phúc Âm Thánh Luca, "Thày
bảo cho các con biết, nhiều người sẽ cố gắng vào
mà không được" (Lk.13:24). Người thanh niên đạo
đức giầu có trên đây là một trường hợp điển
h́nh.
Tuy nhiên, không phải chỉ có kẻ
cố gắng mà không vào được cửa hẹp, cửa dẫn đến
sự sống, mới "sầu thương" như anh chàng giầu có
lại đạo đức kia, mà cả kẻ vào được cửa hẹp đi
nữa, v́ là c̣n mang "bản chất th́ yếu nhược"
(Mt.26:41) trên thế gian, họ cũng không thể nào
hoàn toàn thốt được nỗi "sầu thương", một cách
chủ quan nơi cảm xúc của họ, hay một cách khách
quan nơi quan điểm thế gian, trong việc bỏ ḿnh
mà theo Chúa. như trường hợp chính Chúa Giêsu
cũng nhận thấy nơi các người môn đệ dấu yêu của
Người là thành phần Tông Đồ chứng nhân cho Người
sau này, khi Người thông cảm với các vị: "Thày
bảo thật cho các con hay, các con sẽ khóc lóc
than van trong khi thế gian hân hoan vui sướng"
(Jn.16:20).
Thế nhưng, v́ không bỏ đi như
nhiều môn đệ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về máu
thịt của Người là của ăn của uống
(x.Jn.6:60,66), nhất là dù có "sầu thương" khi
bị Thày nặng lời quở trách như trường hợp của vị
lănh đạo Tông Đồ Đoàn (x.Mt.16:23), thành phần
chứng nhân tiên khởi đă có Phúc được ủi an, như
lời Chúa Giêsu trấn an các vị như sau: "Các con
sẽ chịu sầu thương trong một thời gian, nhưng
nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm
vui" (Jn.16:20).
Tại sao "nỗi sầu thương của các
con sẽ trở thành niềm vui" và "nỗi sầu thương
của các con sẽ trở thành niềm vui" bằng cách nào?
Chúa Giêsu đă cắt nghĩa thêm cho các vị Tông Đồ
như sau: "Khi một người đàn bà lâm bồn th́ sầu
thương v́ giờ của ḿnh đă đến. Lúc bà sinh được
đứa con th́ bà không c̣n nhớ đến đớn đau của
ḿnh nữa, bởi hân hoan khi thấy một con người
được sinh vào đời. Cũng thế, các con sầu thương
trong một thời gian, nhưng Thày sẽ gặp lại các
con' bấy giờ ḷng các con sẽ hân hoan bằng một
niềm vui không ai có thể cướp đoạt nơi các con
được" (Jn.16:21-22). Như thế, Phúc được ủi an
nơi thành phần chịu "sầu thương" khi họ nhất
định từ bỏ mọi sự theo tinh thần khó nghèo để có
thể vào qua cửa dẫn đến sự sống, đó là họ luôn
luôn vững tâm trong việc theo Chúa Kitô là cửa
hẹp họ phải qua và là Đường dẫn họ đến cùng Cha
(x.Jn.14:6).
Thứ ba là Đức hiền lành đi với
Phúc được hưởng đất đai. Lư do tại sao Đức hiền
lành lại được Chúa Giêsu xếp vào hạng thứ ba
trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Người cũng
chính v́ mối liên hệ của Đức này với Đức khó
nghèo trong tinh thần và với Đức chịu sầu thương
trên đây.
Đúng thế, nếu con người t́m kiếm
sự trọn lành và theo Chúa Kitô đi đường hẹp chỉ
v́ họ cho thế gian hay khinh thường tất cả những
ǵ thuộc về thế gian tự bản chất là xấu, là đáng
ghê tởm, th́ họ đă đi ngược đường, chắc chắn,
một là họ sẽ bỏ cuộc v́ đi măi cũng không thấy
Thiên Chúa là nguyên ủy và là cùng đích của mọi
sự (x.Rev.21:6), hai là họ sẽ phải quay đầu lại
để chân nhận giá trị đích thực của mỗi vật cũng
như mọi vật, theo đúng nguyên tắc Chúa Giêsu dạy
trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức: có là có,
không là không, ngoài ra chỉ là gian xấu
(x.Mt.5:37).
Chính v́ thế, v́ công nhận chân
giá trị của sự vật hay sự việc trần gian tự
chúng không xấu, con người t́m kiếm sự trọn lành
qua cửa hẹp mới không đi tới ngơ cụt, trái lại,
họ c̣n được Phúc hưởng đất đai nữa. Ở chỗ, chẳng
những họ không làm hư hoại nơi bản thân ḿnh tất
cả những ǵ họ đă từ bỏ v́ cho chúng là đáng ghê
tởm, mà c̣n nhờ tinh thần khó nghèo, tức tinh
thần lănh đạm lành thánh của ḿnh, nhất là Đức
chịu sầu thương của họ, trong việc bỏ mọi sự mà
theo Chúa là Đường dẫn đến cùng Cha, họ trở nên
như "muối ướp thế gian" (Mt.5:13) để giữ cho thế
gian khỏi bị hư thối bởi sự lạm dụng của người
chỉ biết làm tôi tiền của mà không biết trả về
cho Thiên Chúa những ǵ thuộc về Ngài
(x.Mt.22:21). Như thế không phải thành phần có
Đức hiền lành này đă được Phúc huởng đất đai là
được gấp trăm ngay ở đời này hay sao
(x.Mt.19:29)?
Thứ bốn là Đức đói khát sự thánh
thiện đi với Phúc được no thỏa. Đức đói khát sự
thánh thiện được đứng hàng thứ bốn trong Bài
Giảng trên núi Phúc Đức này, sau Đức khó nghèo
trong tinh thần, Đức chịu sầu thương và Đức hiền
lành, không phải hay sao, là v́ chỉ sau khi có
đủ ba Đức này, người ta mới thực sự tỏ ra là
ḿnh khao khát muốn nên trọn lành và mới có khả
năng nên trọn lành, nghĩa là có thể theo Chúa
Kitô.
Đúng thế, nhờ Đức khó nghèo trong
tinh thần họ mới "không lo lắng về cuộc sống
phải ăn ǵ uống ǵ" (Mt.6:25), nhờ Đức chịu sầu
thương họ mới không chạy theo những sự thế gian
như những người không tin tưởng ǵ (x.Mt.6:32),
và nhờ Đức hiền lành họ mới không bất nhẫn bởi
sự khó ngày nào đủ cho ngày đó (x.Mt.6:34) gây
ra. Để rồi, kết quả phát sinh nơi con người có 3
Đức này là ḷng khao khát sự thánh thiện, đến
nỗi, họ chỉ biết trước hết t́m kiếm Nước Thiên
Chúa (x.Mt.6:33), và họ sẽ được Phúc no thỏa. Ở
chỗ: "Cha trên trời của các con biết tất cả
những ǵ các con cần" (Mt.6:32), Đấng biết lo
cho chim trên trời và hoa đồng nội
(x.Mt.6:26-28), sẽ ban cho con cái ḿnh là những
kẻ tin tưởng bỏ hết mọi sự theo Con Ngài tất cả
những ǵ Ngài thấy cần thiết cho họ, để họ có
thể làm tôi phụng thờ Ngài cũng như làm tông đồ
cho Con Ngài.
Thứ năm là Đức tỏ ḷng thương xót
đi với Phúc được xót thương. Sở dĩ Đức thứ năm
trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức này được Chúa
Giêsu gọi tên ngay sau Đức khao khát sự thánh
thiện, là v́, con người đi đàng nhân đức, theo
tâm lư tự nhiên, hay mắc phải cái tội thấy ḿnh
sốt sắng đạo đức tốt lành th́ đâm ra kiêu căng ở
chỗ khinh người khác, nhất là những người khô
khan nguội lạnh hơn ḿnh. Không phải hay sao, đó
là trường hợp mà Chúa Giêsu đă ví dụ về hai
người lên đền thờ cầu nguyện, một người
Pharisiêu công chính trong việc giữ tỉ mỉ lề
luật, song lại tỏ ra khinh người thu thuế tội
lỗi là người chỉ biết xấu hổ song ăn năn nhận
lỗi của ḿnh trước mặt Chúa (x.Lk.18:9-14), và
kết quả là, như Chúa nói: "Người này (thu thuế)
từ đền thờ ra về được công chính, c̣n người kia
(Pharisiêu) th́ không" (Lk.18:14).
Như thế, người thu thuế nhận Phúc
được xót thương bởi Thiên Chúa, trong khi người
Pharisiêu th́ không. Thật ra, không phải chỉ kẻ
nào cảm thấy ḿnh công chính, đạo đức tốt lành
mới dễ khinh người, c̣n kẻ có tội th́ không kiêu
căng khinh người bao giờ. Nói như thế có nghĩa
là người nghèo không bao giờ ham tiền thích của.
Trái lại, càng nghèo lại càng mơ được giầu sang,
được trúng số thế nào th́ người tội lỗi cũng vẫn
có thể kiêu căng khinh người như vậy. Ở chỗ, họ
không nhận ḿnh có tội, và như thế, đối với họ,
kẻ tốt lành có thể là kẻ giả h́nh. Người thu
thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu
nguyện, nếu không biết nhận lỗi của ḿnh, cũng
không sai lầm khi coi thường bộ điệu và cuộc
sống công chính của người Pharisiêu, cho người
này chỉ là đồ giả h́nh (x.Mt.23:1-39).
Dù nhận xét của người thu thuế về
người Pharisiêu có chính xác đi nữa, người thu
thuế sẽ không c̣n nhận Phúc được xót thương như
thái độ đấm ngực ăn năn lỗi lầm của ḿnh nữa,
cũng là thái độ tỏ ra khao khát sự thánh thiện.
Chính v́ thế, trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức,
Chúa Giêsu c̣n dạy các môn đệ của Người là "Nếu
các con muốn khỏi bị đốn xét th́ đừng xét đốn.
Các con kết án kẻ khác thế nào các con cũng sẽ
bị kết án như vậy." (Mt.7:1).
Như thế, Phúc được xót thương của
người biết thương xót là ở chỗ họ không bị xét
đốn. Tuy nhiên, kinh nghiệm tu đức thường cho
thấy, để có thể thương xót những kẻ khác, nhất
là biết thông cảm với những lỡ lầm yếu đuối của
tha nhân, Thiên Chúa hay để cho những người càng
khao khát nhân đức trọn lành lại càng hầu như
không thể đạt được kết quả như ḷng mong ước,
trái lại, họ cảm thấy ḿnh yếu đuối lạ lùng, cứ
sa đi ngă lại cùng một lầm lỗi, thường là lỗi
nhẹ, đôi khi lỗi nặng.
Cho đến khi con người khao khát
nhân đức trọn lành biết thương cảm tha nhân,
không dám khinh thường một ai, dù người đó có
xấu xa tội lỗi đến thế nào đi nữa, th́ bấy giờ
họ mới bắt đầu biết thương xót, một Đức thương
xót phát xuất từ Phúc họ được xót thương như họ
thực sự cảm nhận thấy nơi Thiên Chúa là Đấng đă
thương xót họ, tha cho họ món nợ họ không thể
trả (x.Lk.7:42), Đấng cũng đă dậy họ phải "xin
tha cho chúng con điều sai trái chúng con đă làm,
như chúng con cũng tha cho những ai phạm đến
chúng con" (Mt.6:12).
Thứ sáu là Đức có tâm hồn thanh
sạch đi với Phúc được thấy Thiên Chúa. Đức có
tâm hồn thanh sạch này là Đức được Chúa Giêsu kể
đến sau Đức thương xót và Đức khao khát sự thánh
thiện, tức là nó phải có một liên hệ mật thiết
với hai Đức này. Bởi v́, chỉ sau khi con người
khao khát nhân đức trọn lành thật không dám
khinh thường thành phần tội nhân, trái lại c̣n
biết thương cảm thành phần này, th́, kinh nghiệm
tu đức cho thấy, từ bấy giờ họ mới bắt đầu có
tâm hồn thanh sạch. Ở chỗ, tất cả mọi và từng
việc đạo đức họ làm, như làm phúc bố thí, đọc
kinh cầu nguyện, hy sinh hăm ḿnh, họ chỉ thi
hành hoàn toàn v́ và cho "Đấng thấy nơi kín đáo"
(Mt.6:4), "Đấng thấy những ǵ con người không
thấy" (Mt.6:6), "Đấng ở nơi kín ẩn" (Mt.6:18) mà
thôi, không c̣n một ư hướng phụ thuộc hay pha
phôi nào khác.
Chưa hết, ngoài ư hướng ngay lành
trong khi làm việc lành phúc đức này ra, bằng
Đức hiền lành đối với giá trị khách quan của các
tạo vật, và bằng Đức thương xót đối với giá trị
luân lư nơi đồng loại, con người khao khát nhân
đức trọn lành sẽ chỉ nh́n tạo vật với một con
mắt lành thánh, dưới ánh sáng Đức Tin trong
Thiên Chúa. Do đó, họ hết sức tôn trọng mọi sự,
chứ không c̣n đôi mắt thèm thuồng chỉ biết t́m
kiếm tạo vật theo đam mê nhục dục của ḿnh nữa,
nhất là đối với nhân vật khác phát tính với ḿnh,
như kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong Bài Giảng
trên núi Phúc Đức về con người dâm dục nh́n
người nữ (x.Mt.5:28).
Chính v́ thành phần khao khát
nhân đức trọn lành có một tâm hồn thanh sạch như
vậy, không có ước muốn xấu xa tội lỗi, nhất là
không có những ư hướng bất chính trần tục trong
việc lành phúc đức, trái lại, chỉ biết t́m Chúa
trong mọi sự, mà họ được Phúc thấy Thiên Chúa,
Đấng mà trong Ngài họ nh́n thấy mọi sự và ôm ấp
tất cả mọi sự. Và cũng nhờ được thấy Thiên Chúa
trong mọi sự bằng Đức Tin chiếu sáng của ḿnh mà
các việc họ làm lại càng được nên thanh sạch và
càng đẹp ḷng Ngài.
Thứ bảy là Đức kiến tạo ḥa b́nh
đi với Phúc được gọi là con Thiên Chúa. Đức kiến
tạo ḥa b́nh này không thể nào có nơi con người
trần gian nếu họ không được Phúc thấy Thiên Chúa,
"Đấng muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết
chân lư" (1Tim.2:5). Chính v́ thế, với Đức có
ḷng thanh sạch chỉ t́m Chúa trọng mọi sự và
nh́n mọi sự trong Chúa, nghĩa là khi họ được
hoàn toàn kết hợp với Chúa, Chúa sống trong họ
và họ sống trong Chúa, họ sẽ sống trong b́nh an
và sẽ làm cho những người khác được an b́nh nữa,
nhất là đối với những ai đụng phạm đến họ hay
giao tiếp với họ.
Thực tế không cho thấy hay sao,
các thánh nhân là những vị một khi đă đạt đến
tŕnh độ kết hợp với Chúa sâu xa th́ không ǵ có
thể tách các ngài ra khỏi t́nh yêu Thiên Chúa
được nữa, như trường hợp của Thánh Phaolô Tông
Đồ Dân Ngoại (x.Rm.8:35-39). Trái lại, sự sống
viên măn nơi các ngài sẽ làm cho mọi sự xẩy ra
trong cuộc đời các ngài được thông phần với sự
sống của các ngài mà nên trọn như Thánh Ư Chúa
muốn. Điển h́nh nhất là đối với những ai có làm
điều ǵ phạm đến các ngài, không cần họ phải đến
xin lỗi, các ngài cũng đă tha thứ cho họ rồi
(x.Mt.5:23-24), như các ngài chưa hề bị xúc phạm
đến, v́ cuộc đời của các ngài lúc nào cũng là
một cuộc cử hành Mầu Nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Yêu
Thương.
Phải, chính v́ thành phần được
Phúc thấy Thiên Chúa biết "cho vay mượn mà không
cần đền trả" (Lk.6:35) này, tức thành phần "không
chối từ kẻ vay mượn ḿnh" (Mt.5:42) món nợ bác
ái (x.Rm.13:8), mà họ mới "đáng gọi là con Đấng
Tối Cao, v́ chính Ngài đối xử tốt lành với cả
người vô ơn lẫn kẻ gian ác" (Lk.6:35). Đức bác
ái trọn lành trong việc kiến tạo ḥa b́nh nơi
tha nhân như thế thực sự đă chứng tỏ họ là con
cái Thiên Chúa, thành phần phản ảnh sống động "Người
Con duy nhất đến từ Cha" (Jn.1:14), Đấng mà "Thiên
Chúa giải ḥa nơi bản thân Người tất cả mọi sự
dưới đất cũng như trên trời" (Col.1:20).
Thứ tám là Đức chịu bắt bớ v́ sự
thánh thiện đi với Phúc chiếm được nước Thiên
Chúa. Trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Phúc
chiếm được Nước Thiên Chúa ở Đức thứ tám này,
tuy cũng là Phúc của Đức thứ nhất là Đức khó
nghèo trong tinh thần, nhưng chúng khác nhau về
mức độ. Nếu Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở
Đức khó nghèo trong tinh thần, như đă nói, là
t́nh trạng hạt giống Đức Tin chất chứa tất cả
Mạc Khải của Thiên Chúa bắt đầu đâm rễ và phát
triển nơi Kitô hữu thế nào, th́ Phúc chiếm được
Nước Thiên Chúa ở Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh
thiện này là Phúc chiếm được "tất cả sự thật"
(Jn.16:13), một tầm vóc hoàn toàn nhất của Đức
Tin, phản ảnh trung thực tất cả những ǵ Thiên
Chúa muốn Mạc Khải cho con người.
Tuy nhiên, trên thực hành, nếu
không có Đức kiến tạo ḥa b́nh cũng sẽ không có
Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện được, và do đó
cũng không có Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở
tầm mức hoàn toàn nhất của nó nơi thụ tạo sống
Đức Tin. Thực hành c̣n cho thấy, cũng chính v́
ánh sáng đức ái tỏa ra từ thành phần khao khát
nhân đức trọn lành được gọi là con cái Thiên
Chúa trong việc họ kiến tạo ḥa b́nh, mà họ đă
bị thế gian "yêu tối tăm hơn ánh sáng" (Jn.3:19)
chống đối, khủng bố và bắt bớ họ
(x.Wís.2:12-20).
Thế nhưng, bóng tối không thể lấn
át ánh sáng thế nào, ánh sáng đức ái trọn lành
tỏa ra từ thành phần có Đức kiến tạo ḥa b́nh
qua Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện cũng sẽ
làm tan biến đi dần dần bóng tối sự chết trên
thế gian như vậy, để ánh sáng thế gian là Chúa
Kitô (x.Jn.8:12), Mạc Khải của Thiên Chúa, được
thế gian nhận biết. Nếu việc Thiên Chúa Mạc Khải
là việc Thiên Chúa yêu thương th́ thành phần
được Phúc gọi là con cái Thiên Chúa, khi chỉ
biết "yêu thương kẻ thù ḿnh và cầu nguyện cho
những kẻ bắt bớ ḿnh" (Mt.5:44), "chứng tỏ ḿnh
là con cái của Cha trên trời" (Mt.5:45), th́ họ
đă hoàn thành "cuộc tỏ hiện của con cái Thiên
Chúa" (Rm.8:19) nơi thế giới tạo vật, nhờ đó họ
cũng đồng thời làm cho "Nước Cha trị đến"
(Mt.6:10).
Thứ chín là Đức chịu nhục mạ, bắt
bớ và rủa xả v́ Thày đi với Phúc được phần
thưởng lớn lao ở trên trời. Theo cấp trật về
Phúc trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa
Giêsu, Phúc được phần thưởng lớn lao ở trên trời
đây là Phúc cuối cùng, được kể đến tên ngay sau
Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa. Như thế, Phúc
chiếm được Nước Thiên Chúa và Phúc được phần
thưởng lớn lao ở trên trời là hai Phúc hoàn toàn
khác biệt, chứ không phải chỉ là một Phúc, như
Phúc tử đạo chẳng hạn, v́ nơi hai Đức liên quan
đến hai Phúc này đều nói đến việc chịu "bắt bớ".
Tuy nhiên, cả về Đức cũng thế, chúng cũng khác
biệt nhau, ở chỗ, một Đức chịu bắt bớ v́ sự
thánh thiện, c̣n một Đức chịu bắt bớ v́ Thày.
Nếu "chịu bắt bớ v́ sự thánh
thiện" là chịu bắt bớ v́ cuộc sống trong Chúa
Kitô, một cuộc sống yêu mến Thày th́ tuân giữ
những lời Thày truyền (x.Jn.14:23), th́ "chịu
bắt bớ v́ Thày" tức là chịu bắt bớ v́ Chúa Kitô
sống trong kẻ bị bắt bớ, kẻ được Người thương và
tỏ ḿnh ra cho họ (x.Jn.14:21). Như thế, Đức
chịu bắt bớ v́ Thày chứng tỏ con người chịu bắt
bớ v́ Thày này đă thực sự nên một với Chúa Kitô,
nên ánh sáng thế gian (x.Mt.5:14) như Người là
ánh sáng thế gian (x.Jn.8:12). Điển h́nh là
trường hợp của Thánh Stephanô, vị tử đạo tiên
khởi, đối đáp khôn ngoan vô địch (x.Acts 6:10),
mặt mũi sáng láng như thiên thần (x.Acts 6:15),
được thấy trời mở ra và thấy Con Người ngự bên
hữu Thiên Chúa (x.Acts 7:55). Hay Maximilianô
Kolbe yêu như Thày đến chết thay cho tha nhân ở
thế chiến II.
Cũng có thể phân tách hai Đức
chịu bắt bớ này như sau. Đức chịu bắt bớ v́ sự
thánh thiện có thể xẩy ra cho tất cả mọi Kitô
hữu chân chính sống ngược lại với chiều hướng
của thế gian, khiến cho những người sống theo
thế gian, kể cả bạn bè hay gia đ́nh, cảm thấy
khó chịu, xa lánh, làm khó dễ, c̣n Đức chịu bắt
bớ v́ Thày thường xẩy ra cho những nhà truyền
giáo, hay những vị có thẩm quyền tháo gỡ trong
Giáo Hội, gây ra bởi quyền lực thế gian, hay bởi
chính áp lực nội bộ, có thể làm thương tổn đến
cả mạng sống của nhà truyền giáo hay của vị có
thẩm quyền.
Bởi vậy, xét khách quan về tính
cách cũng như h́nh thức của sự việc th́ Đức chịu
bắt bớ v́ Thày có giá hơn Đức chịu bắt bớ v́ sự
thánh thiện. Do đó, Phúc được phần thưởng lớn
lao trên trời, xét về giá trị công nghiệp, vẫn
đáng ước mong hơn, v́ đó chính là Phúc được Tử
Đạo, Phúc được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa ngay
sau khi chết, mà không cần qua lửa luyện tội.
Trong khi đó, một vị thánh sống đến đâu đi nữa,
sau khi chết, chưa chắn đă được về thẳng Thiên
Đàng, hay là c̣n phải chờ đền tội một thời gian,
cho dù rất ngắn đi nữa.
Tuy nhiên, việc được về hưởng
kiến Thánh Nhan Thiên Chúa ngay cũng chưa phải
là Phúc được phần thưởng lớn lao trên trời của
thành phần có Đức chịu bắt bớ v́ Thày. Phúc được
phần thưởng lớn lao trên trời của họ cũng không
phải ở chỗ họ sẽ cùng với Thày ngồi trên ṭa mà
phán xét 12 chi tộc Yến Duyên (x.Mt.19:28), cho
bằng Người ở đâu họ cũng ở đó để chiêm ngắm vinh
hiển Người (x.Jn.17:24)