Hoạt Động Đức
Tin: Truyền Giáo
Nếu Mạc Khải là "tỏ ra" th́ Mạc
Khải đúng là việc "Thiên Chúa là ánh sáng"
(1Jn.1:5) "chiếu soi cho những ai c̣n ngồi trong
tối tăm và trong bóng chết" (Lk.1:79). Bởi thế,
như trang 209 đă nhận định, "Đức Tin là phản ánh
nơi con người 'ánh sáng chiếu trong tăm tối'
(Jn.1:5)". Nếu "Đức Tin là phản ánh nơi con
người 'ánh sáng chiếu trong tăm tối' (Jn.1:5)"
th́ Đức Tin quả thực chính là ngọn đèn được thắp
lên để soi sáng cho tất cả mọi người trong nhà
(x.Mt.15:5). Như thế, bản thân người Kitô hữu
đúng "là ánh sáng thế gian" (Mt.5:14), và việc
họ sống Đức Tin hay sống đạo chính là việc họ
làm cho ánh sáng của họ cũng như nơi họ chiếu
soi trên thế gian, để thế gian có thể nhờ đó mà
nhận biết cùng chúc tụng Cha trên trời của họ
(x.Mt.5:16).
Nếu mục đích của việc truyền giáo
là làm cho thế gian nhận biết Thiên Chúa th́
sống đạo hay sống Đức Tin, tự bản chất, cũng là
việc truyền giáo. Bởi thế mới nói Hoạt Động của
Đức Tin là Truyền Giáo, hay Truyền Giáo là Hoạt
Động của Đức Tin cũng vậy. V́ mọi và mỗi tác
động của Đức Tin đều là tác động soi sáng, là
tác động tỏ "Thiên Chúa là ánh sáng" ra. Đó là
lư do bất cứ việc làm nào của Đức Tin và với Đức
Tin, như cầu nguyện trong pḥng hay tham dự
Phụng Vụ Thánh trong thánh đường, hoặc ăn chay
hăm ḿnh âm thầm trong viện tu, cũng là việc
truyền giáo.
Đó cũng là lư do không phải làm
thánh rồi mới truyền giáo, không theo nguyên tắc
của triết lư phải có đă mới cho được, không có
lấy ǵ mà cho, tức là phải đầy Chúa Kitô mới có
thể tràn Chúa Kitô ra cho người khác, nghĩa là
Kitô hữu phải thực sự là hiện thân sống động của
Chúa Kitô đă họ mới có thể làm cho thế gian nhận
biết Chúa Kitô. Nếu thế th́ sẽ không có một ai
dám xưng ḿnh là thánh, mà không có ai là thánh
th́ cũng không bao giờ có việc truyền giáo, một
lập luận hoàn toàn có tính cách phản Kitô.
Tuy nhiên, cũng không thể nào phủ
nhận được công hiệu của tầm mức thánh thiện, một
tầm mức đạt đến tŕnh độ thần hiệp của các Phúc
Đức Trọn Lành, một tŕnh độ Kitô hữu "ở trong
Thày và Thày ở trong họ" (Jn.5:5), để họ có thể
"sinh muôn vàn hoa trái" (Jn.15:5) cho Người
trong công cuộc tông đồ truyền giáo. Thật vậy,
Kitô hữu có thể nào rao giảng và nên chứng tá
Chúa Kitô, Mạc Khải Thần Linh, nếu họ không biết
Người theo Đức Tin Tông Truyền.
Sau đây là phần tŕnh bày về
Truyền Giáo là Rao Giảng Chúa Kitô và Truyền
Giáo là Chứng Tá Chúa Kitô. Cũng giống như các
phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh
bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Truyền Giáo là Rao Giảng Chúa
Kitô
Xác Tín
Truyền Giáo là
Rao Giảng Chúa Kitô, ở chỗ làm cho thế gian nhận
biết Chúa Kitô là Đường và là Sự Thật, bằng
chính Tin Mừng gồm tóm tất cả những ǵ Người đă
truyền dạy Giáo Hội của Người.
Mạc Khải
"Các con hăy đi
khắp thế gian mà công bố tin mừng cho tất cả mọi
tạo vật. Ai tin tin mừng và lănh nhận phép rửa
sẽ được cứu rỗi' kẻ nào không chịu tin tin mừng
sẽ bị luận xử" (Mk.16:15-16).
"Thày được toàn
quyền trên trời dưới đất' bởi vậy các con hăy đi
thâu nạp môn đồ nơi tất cả mọi dân nước. Các con
hăy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần. Hăy dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đă
truyền dạy các con. Và các con hăy biết rằng
Thày luôn măi ở cùng các con cho đến tận thế"
(Mt.28:18-20).
Nhận Thức
Nói đến truyền giáo là nói đến
việc đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thành
phần chưa nhận biết "Cha là Thiên Chúa chân thật
duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô"
(Jn.17:3). Nhóm dân ngoại được nghe rao giảng
Tin Mừng và lănh nhận phép rửa đầu tiên bởi
chính Thánh Phêrô phải kể đến gia đ́nh của ông
đại độ trưởng Cornêliô người Rôma (x.Acts
10:1-48), và cộng đoàn Kitô hữu được thành lập
đầu tiên nơi dân ngoại là Antiôkia (x.11:19-26).
Thánh Phaolô được chọn riêng để thực hiện việc
truyền giáo cho dân ngoại (x.Acts 9:15,13:3),
nên thánh nhân mang danh hiệu là Vị Tông Đồ Dân
Ngoại. Ngoài ra, tên tuổi của mỗi Thánh Tông Đồ,
theo truyền tụng, cũng gắn liền với một địa
phương, như Thánh Phêrô với thành Rôma, Thánh
Giacôbê Tiền với nước Tây Ban Nha (Thánh Giacôbê
Hậu ở Giêrusalem), Thánh Tôma với Ấn Độ v.v.
Sau công cuộc truyền giáo của các
Thánh Tông Đồ ở thế kỷ thứ nhất AD trong vùng
Trung Đông, Tiểu Á và Đông Nam Âu Châu và Bắc
Phi Châu, Ánh Sáng Tin Mừng bắt đầu chiếu tới Âu
Châu trong ngàn năm thứ nhất. Ở Pháp với Thánh
Denis vào thế kỷ thứ 2, ở Bỉ với Thánh Amand từ
thế kỷ thứ 4, ở Ái Nhĩ Lan với Thánh Patrick từ
thế kỷ thứ 5, ở Tô Cách Lan với Thánh Columban
từ hậu bán thế kỷ thứ 6, ở Anh với Thánh
Augustinô Canterbury cuối thế kỷ thứ 6, ở Đức
với Thánh Bônifaciô từ thế kỷ thứ 8, ở
Czenchoslovakia với Thánh Cyrillô và Mêthôđiô từ
thế kỷ thứ 9, ở Thụy Điển, Na-Uy, Đan Mạch với
Thánh Ansgar cũng từ thế kỷ thứ 9 v.v.
Tuy nhiên, từ Âu Châu, công cuộc
truyền giáo chỉ bắt đầu được lan truyền khắp thế
giới kể từ cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16, thời
điểm có phong trào thám hiểm các miền tân thế
giới. Đầu tiên là vùng các mạn biển ở Phi Châu
từ thế kỷ 15, theo thứ tự được kể đến, có
Madeira, Nigeria, Guinea, Azores, Senegal, Sao
Tome & Principe, Nam Phi, Zarie v.v.. Rồi đến
Nam Mỹ Châu từ cuối thể kỷ 15 sang đầu thế kỷ
16, cũng theo thứ tự, được kể đến như Bahamas,
Ba Tây, Burma, Cộng Ḥa Đôminican, Haitii,
Puerto Rico v.v. Tiếp đến là Miền Á Đông từ đầu
thế kỷ 16, có thể kể theo thứ tự, như Nam Dương,
Mă lai, Singapore, Nhật Bản, Việt Nam, Cambốt,
Ma Cao, Phi Luật Tân, Trung Hoa (đợt hai, đợt
nhất từ năm 1294), Đài Loan, Đại Hàn v.v. Cuối
cùng là Đại Dương Châu kể từ đầu thế kỷ 19, bao
gồm vùng đảo Thái B́nh Dương, từ Hạ-Uy-Di tới
Tân Tây Lan và từ Tân Đề Li tới Đảo Phục Sinh.
Tuy nhiên, các dân ngoại từ thời
Giáo Hội sơ khai cho tới nay đă được nghe Các
Thánh Tông Đồ cũng như các vị truyền giáo sau
các ngài rao giảng những ǵ, nếu không phải rao
giảng Chúa Kitô, Mạc Khải của Thiên Chúa. Chúa
Kitô mà các Thánh Tông Đồ cũng như các vị truyền
giáo sau các ngài rao giảng chỉ là "một Chúa
Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời"
(Heb.13:8), nghĩa là một Chúa Giêsu Kitô lịch sử
đă tỏ ḿnh ra cho dân Do Thái mà các Thánh Tông
Đồ là những chứng nhân tiên khởi. Tuy nhiên,
Chúa Giêsu Kitô mà các Thánh Tông Đồ là thành
phần chứng nhân tiên khởi ấy, đối với ḷng mong
đợi của dân Do Thái phải là một Đấng Thiên Sai
đầy quyền năng về chính trị để có thể giải thốt
dân tộc họ khỏi lệ thuộc dân ngoại, tiêu biểu là
quyền lực của đến quốc Rôma bấy giờ, c̣n Chúa
Giêsu Kitô mà các dân ngoại trông mong và cần
được rao giảng phải là một Đấng Cứu Thế Phục
Sinh có toàn quyền năng trên trời dưới đất
(x.Mt.28:18) để có thể giải thốt họ khỏi tội lỗi
và sự chết.
Như thế, Chúa Giêsu Kitô được rao
giảng cho dân Do Thái là một nhân vật lịch sử,
như chính Người mang huyết tộc Do Thái
(x.Mt.1:1-25' Lk.3:23-38) đă tỏ ḿnh ra cho họ
Người thực sự là một "Đấng phải đến"
(x.Mt.11:3), theo đúng Sách Thánh của họ cũng
như Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của
thời Cựu Ước, loan báo. Trong khi đó, Chúa Giêsu
Kitô được rao giảng cho các dân ngoại lại là một
đối tượng thuần túy của Đức Tin, tức một "Thiên
Chúa là Thần Linh" (Jn.4:24) đă hóa thành nhục
thể và ở giữa chúng sinh (x.Jn.1:14' Mt.1:23),
để ban cho những ai tin Người quyền trở nên con
cái Thiên Chúa (x.Jn.1:12), một "Thiên Chúa là
t́nh yêu" (1Jn.4:8,16), Cha trên trời của họ
(x.Mt.5:48,6:9).
Vậy phải rao giảng Chúa Kitô cho
các dân ngoại thế nào để họ có thể tin Người
cũng chính là Chúa Kitô lịch sử xuất thân từ dân
tộc Do Thái, một Thiên Chúa nhập thể để giải
thốt con người khỏi tội lỗi và sự chết, chứ
Người không phải là một nhân vật hoang đường
theo thần thoại, hay chỉ là một thuần nhân với
một mớ lư thuyết không có sức cứu độ ǵ cả, nếu
không phải bằng việc rao giảng chính Tin Mừng
của Người.
Thật ra, Tin Mừng mà các Thánh
Tông Đồ cũng như các vị truyền giáo sau các ngài
cần phải được rao giảng cho thành phần dân ngọai
đây cũng chính là "tin mừng của Thiên Chúa"
(Mk.1:14) mà Chúa Kitô đă công bố và rao giảng
khi Người c̣n sống nơi phần đất Thiên Chúa hứa
ban cho dân Do Thái (x.Gn.12:1). "Tin mừng của
Thiên Chúa" này không phải là một lư thuyết cho
bằng là một nhân vật, đó là "con người Đức Giêsu
Kitô" (1Tim.2:5). Chính v́ thế, sau khi loan báo,
Chúa Kitô đă rao giảng "tin mừng của Thiên Chúa"
này bằng việc chứng tỏ ḿnh thực sự là Đấng
Thiên Sai cho dân Do Thái biết, qua cả việc làm
cũng như lời nói của Người. Về lời nói, Chúa
Kitô đă viện dẫn đến Thánh Gioan Tẩy Giả là nhân
vật đang có uy tín đối với dân Do Thái bấy giờ
(x.Jn.5:33-34), nhất là Người viện dẫn đến chính
Sách Thánh của dân Do Thái (x.Jn.5:39).
Tuy nhiên, theo các Phúc Âm thuật
lại, khi rao giảng về ḿnh, "tin mừng của Thiên
Chúa", nghĩa là khi phải tự chứng về ḿnh cho
dân Do Thái biết thân phận đích thực của Người:
"Ta LÀ" (Jn.8:24,28,58'13:19), Chúa Kitô không
bao giờ tự xưng ḿnh một cách tỏ tường minh bạch:
"Tôi là Đức Kitô" hay "Tôi là Con Thiên Chúa"
hoặc "Tôi là vua". Thế nhưng, tất cả cuộc sống
cùng với giáo thuyết mà Người rao giảng đă gián
tiếp chứng minh thân phận đích thực của Người.
Không phải hay sao, qua đời sống
của Người nói chung cũng như qua những lời rao
giảng tự chứng về Người nói riêng, Chúa Giêsu
Kitô đă được "dân riêng của Người" (x.Jn.1:11)
chân nhận: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống", những lời tuyên xưng được phát xuất
từ niềm tin của thành phần môn đệ Người
(x.Mt.16:16), cũng là phản ảnh những điều tra
thắc mắc và t́m kiếm đến cùng của Hội Đồng lănh
đạo Do Thái, bao gồm các thượng tế, kỳ lăo và
luật sĩ, tiêu biểu cho giáo quyền Do Thái
(x.Mt.26:63). Ngoài ra, Người c̣n được Philatô
là hiện thân của riêng chính quyền thế gian cũng
như của chung dân ngoại bấy giờ cho rằng Người "là
vua" (Jn.18:37).
Quả thật, Lời nhập thể chính "là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa đă đến trong thế gian"
(Jn.11:27) để giải phóng con người khỏi tội lỗi
và sự chết đến từ một người (x.Rm.5:12), bằng
toàn quyền năng phục sinh của Người
(x.Mt.28:18), nhờ đó, Người có thể thiết lập cho
Cha Người "là tất cả trong mọi sự" (1Cor.15:28)
một Nước Thiên Chúa trường sinh vĩnh cửu của "sự
sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân
thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô"
(Jn.17:3), một vương quốc "không c̣n Do Thái hay
Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ. Tất cả chỉ
là một trong Đức Giêsu Kitô"
(x.Gal.3:28'1Cor.12:13), một vương quốc hoàn
toàn yêu thương hiệp nhất với nhau như "một thân
thể" (1Cor.13:12), có chính Chúa Kitô là đầu
(x.Col.1:18), Đấng là "trưởng tử của mọi tạo vật"
(Col.1:15) cùng là "trưởng tử của kẻ chết"
(Col.1:17).
Như thế, "tin mừng của Thiên
Chúa" mà Chúa Kitô công bố và rao giảng cho dân
Do Thái là Tin Mừng Yêu Thương, Tin Mừng Sự
Sống, một Tin Mừng Người đă truyền cho các Tông
Đồ phải rao giảng (x.Mk.16:15) chỉ sau khi Người
phục sinh từ trong kẻ chết, tức là sau khi Người
đă phục hồi nơi bản thân (nhân tính) của Người
tất cả những ǵ nguyên tổ gây ra là tội lỗi và
sự chết, một t́nh trạng đổ vỡ và phân rẽ ngay
nơi nhân tính có hai phần của con người, được
biểu lộ qua cảm thức trần truồng xấu hổ của họ
(x.Gn.3:7), từ đó, t́nh trạng phân rẽ bản thân
này chẳng những làm mất đi mối liên hệ đồng loại
loài người, tiêu biểu nhất là nơi mối liên hệ
giữa vợ chồng với nhau (x.Gn.3:16), hay nơi mối
liên hệ giữa anh em ruột thịt với nhau
(x.Gn.4:1-15), mà c̣n làm mất đi cả mối liên hệ
giữa loài người với thế giới tạo vật hữu h́nh,
như được diễn tả trong bản án nguyên tội cho
thân phận Adong (x.Gn.3:17-19).
Bởi vậy, rao giảng Tin Mừng của
Chúa Kitô cho thành phần dân ngoại ở đây là làm
sao cho họ được sống trong b́nh an chân thật,
một b́nh an mà Chúa Kitô đă để lại cho các môn
đệ trong Bữa Tiệc Ly (x.Jn.14:27) và đă thực sự
ban cho các ngài sau khi Người sống lại từ cơi
chết (x.Jn.20:19,26), một b́nh an là hiện thân
của thứ tự và hiệp nhất nơi bản thân, với tha
nhân và với tất cả mọi tạo vật. Thế nhưng, b́nh
an của Chúa Kitô là dấu hiệu của yêu thương và
sự sống đây không thể nào có được nếu dân ngoại
không được các vị thừa sai dạy cho họ biết tất
cả những ǵ Chúa Kitô đă truyền cho Giáo Hội
(x.Mt.28:20).
Thật vậy, chỉ ở nơi Phúc Âm Chúa
Kitô, tức ở nơi tất cả những ǵ Chúa Kitô truyền
cho Giáo Hội của Người, dân ngoại mới có thể
khám phá ra thân phận đích thực và vô cùng cao
trọng của ḿnh là con cái Thiên Chúa, và mới có
thể sống sự sống viên măn hơn trong t́nh yêu
thương nhau như anh chị em của cùng một Cha trên
trời. Không phải hay sao, tất cả những ǵ Chúa
Kitô truyền cho Giáo Hội của Người là ǵ, nếu
không phải là chính giới răn mới của Người, một
giới răn làm nên căn tính của môn đệ Người
(x.Jn.13:35): "Thày ban cho các con một giới răn
mới, đó là các con hăy yêu thương nhau. T́nh yêu
thương của Thày đối với các con thế nào, các con
cũng phải đối với nhau như vậy" (Jn.13:34)' "Đây
là giới răn của Thày, đó là các con hăy yêu
thương nhau như Thày đă yêu thương các con"
(Jn.15:12).
Thế nhưng, tại sao nhân loại phải
yêu thương nhau đến một mức độ trọn lành như thế,
một mức độ của Chúa Kitô đă yêu, tức mức độ chết
cho nhau (x.Jn.15:13' Mt.20:28), nếu không phải
tất cả mọi người và từng người trong họ đều là
con cái của cùng một Thiên Chúa là Cha trên trời,
Đấng đă yêu họ đến ban Con Một ḿnh (Jn.3:16).
Đúng thế, nếu loài người không phải là con cái
của Thiên Chúa là Cha trên trời th́ Ngài đă
không yêu thương họ đến thế, đến không tiếc Con
Một ḿnh v́ tất cả mọi người trong họ
(x.Rm.8:32). Và cũng chính v́ được Thiên Chúa
yêu thương như vậy mà loài người mới được tái
sinh bởi trên cao (x.Jn.3:3), để trở nên con cái
của Ngài và là anh chị em của nhau, khi họ lănh
nhận Bí Tích Rửa Tội, nhất là khi họ nghe tiếng
gió (x.Jn.3:8), giữ tất cả những ǵ Chúa Kitô đă
truyền cho họ là giới răn mới của Người.
Cũng chính v́ loài người, ngay từ
ban đầu, có một nguồn gốc thần linh
(x.Gn.1:26-27'2:7) với thân phận là con cái
Thiên Chúa mà họ mới có thể nhận ra Thiên Chúa
là Cha của ḿnh, khi họ nghe thấy tiếng chủ chăn
của ḿnh và đi theo vị chủ chăn của ḿnh
(x.Jn.10:27), "Đấng tỏ Cha ra" (Jn.1:18). Đó là
lư do Tin Mừng Yêu Thương, Tin Mừng Sự Sống của
Chúa Kitô là một Tin Mừng phổ cập, Tin Mừng Công
Giáo, Tin Mừng cho toàn thế giới (x.Mk.16:15),
và đó cũng là lư do Tin Mừng được rao giảng đến
đâu th́ loài người cảm nhận đến đấy, để nhờ Tin
Mừng là "ánh sáng của sự sống" (Jn.8:12) này,
nhân phẩm của con người cũng như an sinh của xă
hội mới được bảo toàn và đầy phúc lợi.
Truyền Giáo là Chứng Tá Chúa Kitô
Xác Tín
Truyền Giáo là
Chứng Tá Chúa Kitô, ở chỗ, làm cho thế gian nhận
biết Chúa Kitô là Sự Sống, bằng chính tinh thần
đến để phục vụ và hiến ḿnh làm giá chuộc muôn
dân của Người được thể hiện nơi vai tṛ của vị
thừa sai.
Mạc Khải
"Thế nên mới có lời chép Đức Kitô
phải chịu đau khổ và ngày thứ ba sống lại từ kẻ
chết. Nhân danh Người, việc thống hối để được
thứ tha tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả
mọi dân nước, bắt đầu từ Gia-Liêm. Các con là
những nhân chứng về sự việc này. Hăy biết rằng
Thày sai xuống trên các con điều Cha Thày hứa.
Các con hăy ở lại đây trong thành này cho đến
khi các con được mặc lấy quyền lực từ trên cao".
(Lk.24:46-49).
Nhận Thức
Nếu Truyền Giáo là Rao Giảng Chúa
Kitô th́ Truyền Giáo cũng đồng nghĩa với Chứng
Tá Chúa Kitô. Bởi v́, để Rao Giảng Chúa Kitô cần
phải biết Chúa Kitô' không biết Chúa Kitô làm
sao có thể Rao Giảng Chúa Kitô. Thế nên các
Thánh Tông Đồ mới được gọi là thành phần chứng
nhân tiên khởi chính thức của Chúa Kitô, thành
phần sống trực tiếp với Chúa Kitô và được Người
tỏ ḿnh ra cho biết. Và cũng chính v́ là thành
phần được tuyển chọn làm những chứng nhân tiên
khởi cho Chúa Kitô mà các Tông Đồ phải Rao Giảng
Chúa Kitô, nghĩa là phải làm chứng về Người
(x.Jn.15:27' Lk.24:48).
Thánh Gioan Tông Đồ đă làm chứng
cho Chúa Kitô qua những ǵ thánh nhân viết ra,
như cuốn Phúc Âm thứ bốn (x.Jn.19:35'21:24), ba
Thánh Thư (x.1Jn.1:1-4'3Jn.12), và cuốn Khải
Huyền (x.Rev.1:1-3,21:18-19). Thánh Phaolô Tông
Đồ Dân Ngoại cũng đă làm chứng cho Chúa Kitô
bằng lời rao giảng của ngài cũng như bằng những
lá thư ngài gửi cho các giáo đoàn mà ngài đă đến
để Rao Giảng Chúa Kitô. Như thế, nếu không sống
trực tiếp với Chúa Kitô và không được Người tỏ
ḿnh ra cho biết, như trường hợp của các Thánh
Tông Đồ, th́ các vị thừa sai không phải thành
phần chứng nhân tiên khởi làm sao có thể Rao
Giảng Chúa Kitô là làm chứng cho Người được.
Thật ra, không phải được diễm
phúc sống trực tiếp với Chúa Kitô th́ các Thánh
Tông Đồ không cần đức tin nữa, trái lại, càng
sống gần Chúa Kitô ngay từ ban đầu lại càng phải
có đức tin hơn, bằng không các ngài sẽ bỏ Người
bất cứ lúc nào một cách dễ dàng và nhanh chóng,
một khi các ngài mắt thấy tai nghe những điều tự
nhiên không thể nào chấp nhận được, như trường
hợp của nhiều môn đệ bỏ đi sau khi nghe bài
giảng Bánh Hằng Sống của Người (x.Jn.6:60,66).
Nếu quả thật các Thánh Tông Đồ hoàn toàn tin
tưởng Chúa Kitô th́ tại sao khi Người bị bắt
trong vườn cầu nguyện th́ "tất cả đều bỏ Người
mà tẩu thốt" (Mk.14:50), thậm chí Vị Trưởng Tông
Đồ Đoàn lại c̣n trắng trợn và phũ phàng chối bỏ
Thày ḿnh 3 lần đang khi Người bị tra xét
(x.Mk.14:66-72).
Do đó, Chúa Kitô mà các Thánh
Tông Đồ sau này Rao Giảng cho dân ngoại không
phải chỉ là một Chúa Kitô lịch sử mà thôi, song
c̣n là một Chúa Kitô của đức tin. Bởi thế, không
lạ ǵ khi thấy Vị Tông Đồ Dân Ngoại, tuy không
được trực tiếp sống với Chúa Kitô ngay từ đầu
như Nhóm 12, ngài chẳng những không sợ sai lầm
về tất cả những ǵ ngài rao giảng, ngài c̣n mạnh
mẽ và quyết liệt lên án một cách hết sức gắt gao
dữ dội những ai rao giảng những ǵ nghịch lại
với chứng từ của ngài:
"Tôi bỡ ngỡ thấy rằng anh em
nhanh chóng bỏ Đấng đă kêu gọi anh em theo ư
định ân nghĩa của Ngài trong Đức Kitô mà ngả
theo một phúc âm khác. Thế nhưng, không có phúc
âm nào khác cả. Kẻ nào muốn thay đổi phúc âm của
Chúa Kitô là kẻ cố ư đánh lừa anh em. V́ đến
ngay cả chúng tôi hay thiên thần nào đó từ trời
xuống dạy cho anh em một phúc âm không hợp với
phúc âm mà chúng tôi đă loan truyền cho anh em,
th́ vô phúc cho kẻ ấy... Phúc âm mà tôi đă công
bố cho anh em không phải là một tạo tĩnh thuần
nhân. Phúc âm này là do Chúa Giêsu Kitô mạc khải
mà có" (Gal.1:6-8,11-12' x.2Cor.11:1-6).
Thế nhưng, làm sao Thánh Phaolô
cũng như Giáo Hội sau thời Các Tông Đồ có thể
bảo đảm không sai lầm trong việc Rao Giảng Chúa
Kitô? Vẫn biết các ngài phải căn cứ vào Các Tông
Đồ là hiện thân và là nguồn gốc của Thánh Truyền,
như trường hợp Thánh Phaolô đă phải về hội ư với
thẩm quyền Tông Đồ ở Gia-Liêm về việc ơn cứu rỗi
không cần phải chịu phép cắt b́ (x.Acts
15:1-29), song nguyên lư chính yếu không sai lầm
về chân lư là do Thánh Thần mà Các Thánh Tông Đồ
được lănh nhận trong ngày lễ Ngũ Tuần ở Gia-Liêm,
như Chúa Kitô trước khi về trời đă hứa sai đến
với các ngài (x.Lk.24:49' Jn.15:26).
Nhờ lănh nhận Chúa Thánh Thần là
Thần Chân Lư, Các Tông Đồ đă được dẫn vào tất cả
sự thật (x.Jn.156:13), để các ngài có thể thấu
triệt lời Chúa Kitô nói (x.Jn.16:12), mà hiên
ngang làm chứng về Người (x.Jn.15:26), không sợ
sai lầm, bất chấp mọi trở ngại, mọi chống đối và
bắt bớ, cho dù có phải hiến mạng sống ḿnh v́
Người. Phải, máu tử đạo chính là chứng từ sống
động nhất trong việc làm chứng cho Chúa Kitô,
Đấng chẳng những dùng lời nói để rao giảng "tin
mừng của Thiên Chúa" mà c̣n dùng chính mạng sống
ḿnh "để làm chứng cho chân lư" (Jn.18:37) nữa.
Đó là lư do máu tử đạo thường đi đôi với việc
truyền giáo, và các vị thừa sai truyền giáo
thường là các vị anh hùng tử đạo, như đă từng
xẩy ra ở hầu hết khắp nơi và qua mọi thời, gần
gũi nhất là các vị thừa sai ngoại quốc ở Việt
Nam đă bị bắt bớ và chịu tử đạo vào thế kỷ 19.
Phần dân ngoại, sở dĩ họ có thể
chấp nhận lời Rao Giảng Chúa Kitô từ các vị thừa
sai truyền giáo không phải là v́ họ đă thấu
triệt được đạo như lời rao giảng về giáo lư của
đạo, cho bằng họ nhận ra chứng từ yêu thương
trọn lành của Người nơi các vị thừa sai, bởi họ
cũng được chính Thánh Thần trong các vị tác động.
Đó là trường hợp rất đúng với thành phần dự ṭng
ở các giáo xứ, v́ họ theo đạo trước khi họ học
đạo, tức họ theo ngọn "gió" (Jn.3:8) Tin Mừng
Yêu Thương phát ra từ Kitô hữu để nhập đạo mà
tham dự vào chính Mầu Nhiệm Sự Sống là Phụng Vụ
Thánh.
Thực ra, tự những lời của Chúa
Kitô mà các vị thừa sai giảng dạy cho dân ngoại
đă có thần lực thu hút tâm linh họ rồi (x.Acts
10:44), chứ không cần đến chứng từ của các vị,
như tác động phụng vụ của vị tư tế thừa tác tự
nó đă hiệu thành, không cần thiết các vị phải
hoàn toàn thánh thiện. Tuy nhiên, nếu Chúa Kitô
không chỉ dùng Sách Thánh của dân Do Thái để
chứng minh thân phận đích thực của Người "là
Đấng phải đến" (Mt.11:3), Người c̣n nại đến
chính chứng từ Cha của Người là Đấng đă sai
Người, đó là tất cả những công việc Cha Người
sai Người làm (x.Jn.5:36), để Mạc Khải của Cha
được toàn sáng, làm thành phần cứng tin dễ dàng
nhận ra Người hơn (x.Jn.8:28), th́ các vị thừa
sai truyền giáo có những trường hợp cũng phải
dùng đến chính mạng sống của ḿnh để làm chứng
cho "tất cả sự thật"(Jn.16:13) là Chúa Kitô, "ánh
sáng thế gian" (Jn.8:12).
Tuy nhiên, nếu tử đạo là chứng tá
sống động và hùng hồn nhất để nói lên "tất cả sự
thật" là Đức Kitô, th́ cũng đâu có khác ǵ sự
thật nơi chủ nghĩa cộng sản, cũng có các đồng
chí dám liều mạng hy sinh cho đảng. Đúng thế, tử
v́ đạo hay tử v́ đảng, tự bản chất, cũng chỉ là
một cái chết hy sinh thế thôi, song nếu không có
Thánh Thần th́ không một đồng chí cộng sản nào
có thể chết với một tâm hồn yêu thương tha thứ
cho cả kẻ thù sát hại ḿnh một cách bất công vô
tội được. Bởi thế, chứng từ tử đạo cũng là Tin
Mừng Yêu Thương, Tin Mừng Sự Sống, có sức thu
hút ḷng người hơn bao giờ hết và hơn bất cứ một
chứng từ nào hết.
Trên thực tế, tuy việc truyền
giáo thường đi liền với tử đạo, nhưng không phải
ai truyền giáo cũng được phúc tử đạo. Do đó,
cuộc sống của các vị thừa sai không tử đạo phải
làm sao để có thể trở nên một chứng từ sống động
nói lên rằng: "Chúng tôi đă gặp được Đức Kitô"
(Jn.1:41). Ở chỗ, Phúc Âm của Chúa Kitô mà họ
rao giảng cho dân ngoại là Tin Mừng Yêu Thương,
một Tin Mừng có sức thu hút ḷng người vốn hướng
về và khao khát Sự Sống Trường Sinh bất diệt. Do
đó, tất cả những việc làm hy sinh bác ái phục vụ
dân ngoại, nhất là nơi những thành phần nghèo
hèn đói khổ về vật chất, bằng việc mở các viện
tế bần hay các nơi cứu tế' nơi thành phần bệnh
hoạn tật nguyền về cả thể lư lẫn tâm lư, bằng
h́nh thức phát thuốc thí hoặc lập trạm cứu
thương hay bệnh xá' nơi thành phần tội lỗi khốn
nạn về luân lư đạo hạnh, bằng cách lập các nhà
tĩnh tâm hay viện cải huấn' nơi các thành phần
bị xă hội áp bức đọa đầy hay bỏ rơi, khinh khi,
quên lăng, bằng việc lập các viện cô nhi, dưỡng
lăo, trại cùi v.v., tất cả đều là những Chứng Tá
Chúa Kitô, Đấng đă tuyên bố ứng nghiệm nơi ḿnh
lời tiên tri Isaia khi bắt đầu đi rao giảng "tin
mừng của Thiên Chúa" (Mk.1:14): "Thần trí của
Chúa ở trên tôi, nên Ngài đă xức dầu cho tôi.
Ngài đă sai tôi ra đi mang tin mừng cho người
nghèo khó, loan báo tự do cho kẻ bị lưu đày,
phục quang cho kẻ mù loà và giải thốt cho các tù
nhân, công bố năm hồng ân của Chúa" (Lk.4:18-19'
Is.61:1).