Mô
Phạm Đức Tin: Đức Maria
Nếu Mạc Khải là việc "Thiên Chúa
nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Heb.1:2) th́
"Lời đă hố thành nhục thể và ở giữa chúng ta"
(Jn.1:14) là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) Thiên
Chúa muốn tỏ ra cho loài người chúng ta biết.
Bởi thế, ai có "Người Con duy nhất đến từ Cha,
đầy chân lư" (Jn.1:14), "Đấng tỏ Cha ra"
(Jn.1:18) này là có "tất cả sự thật", tức có tất
cả những ǵ "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện
thân đích thực của hữu thể Cha" (Heb.1:3). Mà ai
trong cả nhân loại nói riêng và toàn thể tạo vật
nói chung, kể cả các thiên thần, có Con Thiên
Chúa bằng Đấng được miệng lưỡi đầy Thánh Linh
chúc tụng "Người có phúc v́ đă tin những lời của
Chúa phán cùng Người sẽ được thực hiện"
(Lk.1:45).
Và nếu Mạc Khải là việc Thiên
Chúa tỏ ra yêu thương nhân loại chúng ta, qua
việc Ngài "yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của
Ngài để ai tin Con th́ không phải chết song được
sự sống đời đời" (Jn.3:16), th́ ai có "Người Con
duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng" (Jn.1:14),
Đấng là chính "sự sống đời đời hằng ở nơi Cha đă
trở nên hữu h́nh cho chúng ta" (1Jn.1:2) này "là
có sự sống" (1Jn.5:12), cho bằng vị Trinh Nữ đă
được sứ thần Thiên Chúa kính chào "đầy ơn phúc"
(Lk.1:28) và báo tin "sẽ thụ thai và hạ sinh...
Con Đấng Tối Cao" (Lk.1:31,32).
Như thế, t́nh trạng và mức độ
"đầy ơn phúc" của Người Nữ tự nhận và chúc tụng
"Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng đă làm những sự
trọng đại" (Lk.1:49) cho ḿnh là Mẹ Maria ở đây
là t́nh trạng và mức độ đầy "Người Con duy nhất
đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14).
Căn cứ vào thời điểm của lời sứ thần chào kính,
Mẹ Maria thực sự đă đầy "Người Con duy nhất đến
từ Cha" trước khi Mẹ được "thụ thai và hạ
sinh... Con Đấng Tối Cao".
Tuy nhiên, v́ là một tạo vật
thuần túy, t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc"
của Mẹ không giống như và không phải là t́nh
trạng và mức độ "đầy ân sủng" theo bản tính của
Lời nhập thể, Con Mẹ. Thế nhưng, cũng không phải
v́ thế mà t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi
Mẹ Maria chỉ "đầy" khi Mẹ bắt đầu thụ thai Lời
nhập thể, mà là ngay giây phút Mẹ được đầu thai,
một t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" cũng
không phải một khi đă được bắt đầu từ giây phút
đầu thai như thế sẽ không c̣n có thể "đầy" hơn
được nữa.
Sau đây là phần tŕnh bày về Mẹ
Maria: Mô Phạm Đức Tin, một Đức Tin Ân Phúc và
là một Đức Tin Cứu Độ. Cũng giống như các phần
khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi
vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Đức Maria: Đức Tin Ân Phúc
Xác Tín
Mẹ Maria là Mô
Phạm Đức Tin v́ Mẹ có một Đức Tin Ân Phúc, ở chỗ,
Mẹ luôn lắng nghe lời Chúa và giữ lời của Ngài,
được gieo vào ḷng Mẹ là một mảnh đất hết sức
ph́ nhiêu và mầu mỡ, như một Hạt Giống Thần Linh
đă trổ sinh hoa trái gấp trăm.
Mạc Khải
"'Phúc cho ḷng đă cưu mang Ngài
và vú đă cho Ngài bú'. Người (Chúa Giêsu) đáp: 'Phúc
hơn cho kẻ nghe lời của Thiên Chúa và giữ lấy
lời của Ngài'" (Lk.11:28).
Nhận Thức
Đúng thế, như trang 358 đă nhận
định, không phải chỉ vào lúc được thụ thai Con
Đấng Tối Cao Mẹ Maria mới được "đầy ơn phúc",
như lời sứ thần kính chào Mẹ trong ngày truyền
tin Lời nhập thể cho Mẹ. Trái lại, Mẹ đă được "đầy
ơn phúc" ngay từ giây phút vừa đầu thai trong
ḷng mẹ của ḿnh.
Không phải hay sao, nếu "Thiên
Chúa đă ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự
sống đời đời này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con
là có sự sống, ai không có Con Thiên Chúa th́
không có sự sống" (1Jn.5:11-12), th́ ngay từ khi
vừa được đầu thai trong ḷng mẹ ḿnh, Mẹ Maria
mà không "có" "Đức Kitô, Con Thiên Chúa"
(Mt.16:16) tức khắc th́ Mẹ đă bị ở trong sự chết
như "tất cả mọi người" (Rm.3:23), nghĩa là Mẹ đă
bị ở trong t́nh trạng được sinh bởi "cha ḿnh là
ma qủi... tên sát nhân ngay từ ban đầu"
(Jn.8:44). Chẳng lẽ Lời nhập thể là Con Thiên
Chúa và là chính Thiên Chúa (x.Jn.1:1) lại được
thụ thai và hạ sinh bởi một người mẹ là "gịng
dơi" (Gen.3:15) của "con cựu xà" (Rev.12:9) th́
làm sao có thể "tỏ ḿnh ra để phá hủy các công
việc của ma qủi" (1Jn.3:8) được.
Bởi thế, Mẹ Maria phải được hưởng
trước công ơn cứu chuộc của "Người Con duy nhất
đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14),
khi Mẹ được Thiên Chúa ban cho đặc ân Vô Nhiễm
Nguyên Tội ngay từ giây phút thoạt đầu thai
trong ḷng mẹ ḿnh. Bởi "có" Chúa Kitô ngay từ
giây phút vừa đầu thai trong ḷng mẹ ḿnh như
thế mà Mẹ Maria đă "có" sự sống đời đời, nghĩa
là trở thành một tạo vật đầu tiên đă "được tái
sinh bởi trên cao" (Jn.3:3). Và cũng chính v́ là
một tạo vật đầu tiên "được tái sinh từ trên cao"
khi Lời chưa hố thành nhục thể mà Mẹ phải nhận
được "sự sống đời đời" ở một mức độ trọn vẹn
nhất và "đầy" nhất, nghĩa là Mẹ phải "có" Con
Thiên Chúa hoàn toàn, hay phải "có" "đầy" Chúa
Kitô, "quả phúc của ḷng Mẹ" (Lk.1:42).
Nói rằng Mẹ Maria được "đầy" Chúa
Kitô, "đầy" sự sống đời đời ngay từ giây phút
thoạt đầu thai trong ḷng mẹ của ḿnh, th́ không
có nghĩa là "sự sống đời đời" nơi Mẹ từ đó không
c̣n "hơn" được nữa, và Chúa Kitô nơi Mẹ không
cần lớn lên trong Mẹ nữa. Bởi v́, mức độ và t́nh
trạng đầy sự sống đời đời, đầy Chúa Kitô của Mẹ
ngay từ giây phút thoạt đầu thai trong ḷng thai
mẫu của Mẹ này mới chỉ là mức độ và t́nh trạng "đầy
ơn phúc" được hưởng trước của Mẹ mà thôi, nghĩa
là đầy tất cả những ǵ Thiên Chúa đă và đang
ban cho Mẹ, và về phần Mẹ, mức độ và t́nh trạng
"đầy" này cứ tăng lên theo đà Thiên Chúa sẽ tỏ
ḿnh cho Mẹ.
Bởi thế, nơi trường hợp của Mẹ
Maria, t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ
được hiểu về phía Thiên Chúa và về phía Mẹ
Maria. Về phía Thiên Chúa, Ngài đă ban tất cả
bản thân Ngài là chính Con Ngài cho Mẹ, và về
phía Mẹ, Mẹ cũng đă "chấp nhận" (Jn.1:12) Ngài
như Ngài ban cho, không khi nào và không mất đi
một chút nào, đúng như lời mẹ của thai nhi Gioan
Tiền Hô đă nói: "Phúc cho chị v́ đă tin rằng
những lời Chúa nói cũng chị sẽ được thực hiện"
(Lk.1:45).
Mà việc Thiên Chúa ban Con Ngài
cho Mẹ đây là ǵ, khi Mẹ chưa chính thức được
thụ thai Con Ngài trong cung ḷng toàn trinh của
Mẹ, nếu không phải là Ngài đă hoàn toàn tỏ ḿnh
ra cho Mẹ, tức đă mạc khải cho một ḿnh Mẹ "tất
cả sự thật" (Jn.16:13). Nói như thế không có
nghĩa là Mẹ Maria đă hoàn toàn thấu triệt "tất
cả sự thật" được Thiên Chúa tỏ ra cho Mẹ ngay từ
giây phút đầu thai trong ḷng thai mẫu, v́ sau
này, lúc Mẹ t́m thấy Hài Nhi Giêsu trong đền
thánh Gia-Liêm qua 3 ngày lạc mất, Mẹ cũng không
hiểu lời Con Mẹ nói với Mẹ và thánh Giuse bấy
giờ (x.Lk.2:50). Đó là lư do cho thấy rằng t́nh
trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ Maria là
một t́nh trạng và mức độ cứ "đầy đặn" và không
bao giờ vơi, ở chỗ, về phía Thiên Chúa, Ngài
luôn luôn tỏ ḿnh ra cho Mẹ cho đến khi Mẹ có
thể biết được "tất cả sự thật", hay cho đến khi
Ngài tỏ hết ḿnh ra cho Mẹ, và về phía Mẹ, Mẹ
hằng liên lỉ không bao giờ thôi lắng nghe và giữ
lời Thiên Chúa từng li từng tí (x.Lk.11:28),
bằng cách Mẹ luôn luôn có một thái độ tỉnh thức
để suy niệm trong ḷng tất cả những ǵ xẩy ra
cho Mẹ hay liên quan đến cuộc đời của Mẹ
(x.Lk.2:19,3:51).
Thật ra Thiên Chúa không chỉ tỏ
cho một ḿnh Mẹ Maria biết "tất cả sự thật" mà
thôi, Ngài c̣n tỏ "tất cả sự thật" là Lời nhập
thể và nơi Chúa Giêsu Kitô cho chung loài người
biết nữa. Thế nhưng, v́ Mẹ được ơn Vô Nhiễm
Nguyên Tội, tức không bị ngăn trở ǵ trước Mạc
Khải Thần Linh là "ánh sáng chiếu trong tăm tối"
(Jn.1:5), do đó, chỉ có một ḿnh Mẹ trong cả
loài người mới được "đầy ơn phúc", mới "có phúc
hơn mọi người nữ" (Lk.42). Mẹ Maria "có phúc hơn
mọi người nữ" ở đây có thể hiểu là Mẹ "có phúc
hơn" tất cả mọi tạo vật nói chung và loài người
nói riêng, v́ "người nữ" ở đây nói lên thân phận
đích thực của tạo vật cũng như của loài người
được Thiên Chúa dựng nên để Ngài có thể thông
ban sự sống của Ngài cho họ là chính mạc khải
của Ngài, như người chồng thiết tha yêu thương
bạn ḿnh (x.Is.54:5' Hos.2:18). Với đặc ân Vô
Nhiễm Nguyên Tội được Thiên Chúa ban riêng cho
này, Mẹ Maria nhờ đó mới có thể hoàn toàn phản
ánh "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5).
Đó là lư do cuốn Hận Thù Quyết
Thắng ở trang 410 đă nhận định: "Có thể nói
Thiên Chúa ban cho Mẹ Maria đặc ân Vô Nhiễm
Nguyên Tội là để Ngài có thể hoàn toàn tỏ ḿnh
Ngài ra cho chung tạo vật qua con người của Mẹ.
Bởi đó, nơi Mẹ Maria, đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội
là tấm gương thần linh phản ảnh 'Thiên Chúa là
Thần Linh' (Jn.4:24), là khả năng siêu nhiên để
Mẹ có thể 'nhận biết và chấp nhận' (Jn.1:10,11)
mạc khải của Ngài. Thế nên Mẹ Maria tỏ ra 'có
phúc v́ đă tin' (Lk.1:45), đến nỗi, cả thân xác
của Mẹ được 'thụ thai và hạ sinh' (Lk.1:31) 'Lời
đă hố thành nhục thể' (Jn.1:14)".
Như thế phải chăng hai nguyên tổ
trước khi sa ngă phạm tội cũng đă được đầy ơn
phúc như Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội? Không sai,
khi c̣n ở trong t́nh trạng công chính nguyên
thủy, hai nguyên tổ cũng được đầy ơn phúc. Tuy
nhiên, t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc ngay từ
ban đầu nơi nguyên tổ loài người so với t́nh
trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô
Nhiễm Nguyên Tội hoàn toàn khác nhau. Bởi v́
t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc nơi nguyên tổ
loài người ngay từ ban đầu là t́nh trạng và mức
độ của một thứ ánh sáng phát ra từ một cây đèn
c̣n đầy dầu, trong khi t́nh trạng và mức độ "đầy
ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội khi Mẹ
vừa đầu thai trong ḷng thai mẫu là t́nh trạng
và mức độ của ánh sáng b́nh minh, một thứ "ánh
sáng thật chiếu soi cho tất cả mọi người (sẽ)
đến trong thế gian" (Jn.1:9), tức là một thứ ánh
sáng phát quang từ "Mặt Trời công chính sẽ mọc
lên" (Mal.3:20) là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy, nếu "Thiên Chúa là ánh sáng"
(1Jn.1:5) không thể nào không tỏa sáng, tức
không thể nào không tỏ ḿnh ra, không mạc khải
chính ḿnh, và một khi đă tỏ ḿnh ra, đă mạc
khải chính ḿnh, th́ Thiên Chúa sẽ mạc khải, sẽ
tỏ ḿnh ra hết cỡ, chứ không chỉ tỏ một phần
ḿnh. Cũng thế, nếu "Thiên Chúa là t́nh yêu"
(1Jn.4:8,16) không thể nào không yêu, và một khi
đă yêu th́ phải "yêu cho đến cùng" (Jn.13:1),
yêu cho đến giọt máu cuối cùng, cho đến khi "máu
cùng nước chảy ra" (Jn.19:34), chứ không phải
chỉ yêu một chút hay yêu một lúc. Bằng chứng là
"Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con
Một ḿnh" (Jn.3:16), Đấng là tất cả bản thân
Ngài (x.Heb.1:3), là tất cả những ǵ Ngài muốn
nói với tạo vật (x.Heb.1:2), tức là tất cả mạc
khải Ngài muốn tỏ ra cho tạo vật biết nơi nhân
tính loài người của Con Ngài.
Như thế t́nh trạng và mức độ "đầy
ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội là
t́nh trạng và mức độ của một "sự sống viên măn
hơn" (Jn.10:10) t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc
nơi nguyên tổ ngay từ ban đầu. Chính v́ t́nh
trạng và mức độ chưa trọn đầy ơn phúc nơi nguyên
tổ, mà "Thiên Chúa là ánh sáng" đă lợi dụng việc
sa ngă của nguyên tổ để "chiếu soi trong tăm tối",
bằng việc "Lời hố thành nhục thể và ở giữa chúng
ta" (Jn.1:14), mà thông ban Sự Sống Thần Linh
của Ngài "cho chiên được sự sống viên măn hơn"
(Jn.10:10). Và chỉ khi nào "sự sống viên măn hơn"
này được trọn vẹn thông ban, "Thiên Chúa là t́nh
yêu" mới hoàn toàn thỏa nguyện, "Thiên Chúa là
Thần Linh" (Jn.4:24) mới thấy tương xứng với bản
tính của Ngài, và "Thiên Chúa là ánh sáng" mới
được tỏ hiện qua dự án của Ngài (x.Eph.1:5,10)
nơi "mầu nhiệm Chúa Kitô" (Eph.3:4).
Thế nhưng, không phải v́ được đặc
ân Vô Nhiễm Nguyên Tội th́ Mẹ Maria "đầy ơn phúc"
ngay từ lúc vừa đầu thai trong ḷng thai mẫu sẽ
không bao giờ c̣n có thể phạm tội được nữa,
nghĩa là không bao giờ c̣n có thể làm giảm đi
mức độ "đầy ơn phúc" của ḿnh nữa. Trái lại,
càng đầy lại càng dễ tràn và đổ ra ngoài thế nào,
th́ t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc của nguyên
tổ loài người đă xẩy ra đúng như vậy. Không phải
hay sao, ngay từ ban đầu, với bản tính c̣n hết
sức tốt lành, hết sức ngây thơ trong trắng, hoàn
toàn không biết đến tội lỗi là ǵ, thế mà nguyên
tổ loài người, với tự do Thiên Chúa ban cho để
có thể nhận biết và yêu mến Ngài là Đấng đă dựng
nên họ theo h́nh ảnh và tương tự như Ngài
(x.Gn.1:26-27), cũng đă phạm tội được, chỉ v́ họ
muốn tự động lên bằng Thiên Chúa (x.Gn.3:5-6),
tức đă làm nghiêng lệch trật tự Thiên Chúa đă an
bài, nên cũng làm đổ mất t́nh trạng và mức độ
đầy ơn phúc của ḿnh ngay từ ban đầu.
Trường hợp của Mẹ Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội cũng thế. Nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên
Tội, về phương diện tích cực, Mẹ đă nhận biết
Thiên Chúa ngay từ khi vừa được thụ thai trong
ḷng thai mẫu, và về phương diện tiêu cực, Mẹ
không có đam mê nhục dục, tức không bị phần hạ
lấn át và chi phối phần thượng như nơi tất cả
mọi người sinh ra trên thế gian bị quyền lực sự
chết thống trị. Tuy nhiên, đặc ân Vô Nhiễm
Nguyên Tội của Mẹ vẫn không giữ Mẹ khỏi mọi cám
dỗ, mà trái lại, đặc ân này càng làm cớ cho Mẹ
bị cám dỗ nhiều hơn nữa bởi "Satan là tên cám dỗ
cả thế gian" (Rev.12:9), ở chỗ hắn có thể cám dỗ
Mẹ kiêu căng đưa ḿnh lên và khinh người khác v́
họ không "có phúc" như Mẹ, "được ơn nghĩa với
Thiên Chúa" (Lk.1:30) như Mẹ, được thụ thai và
sinh hạ Con Đấng Tối Cao như Mẹ. Với tự do sẵn
có, Mẹ cũng có thể "sa chước cám dỗ" (Mt.6:13)
trong việc đưa ḿnh lên, như con khổng long hay
Evà.
Thế nhưng, trong suốt cuộc đời
trần gian của ḿnh, Mẹ Maria đă không bao giờ
làm hao hụt đi một chút nào t́nh trạng và mức độ
"đầy ơn phúc" của Mẹ. Trái lại, Mẹ đă sống t́nh
trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ và làm cho
nó càng ngày càng "viên măn hơn" (Jn.10:10),
chẳng khác ǵ như ánh sáng càng lúc càng nóng
nẩy hơn, càng rực rỡ hơn, từ lúc b́nh minh cho
đến chính ngọ. Bởi thế Mẹ Maria đă được Thánh
Kinh Cựu Ước ngỡ ngàng chiêm ngưỡng thấy: "đang
tiến lên như rạng đông... rực rỡ như mặt trời"
(Sgs.6:10), và trong Thánh Kinh Tân Ước Mẹ "như
một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên không trung...
mặc áo mặt trời" (Rev.12:1).
Và Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
đă sống t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của
Mẹ cho đến tuyệt đỉnh của cấp trật ân sủng, đến
được tận biên giới của Thần Tính Thiên Chúa như
thế nào, nếu không phải Mẹ đă sống bằng một tinh
thần đức tin của một tôi tớ xin vâng
(x.Lk.1:38), một tinh thần được Mẹ diễn tả trong
ca vịnh "Ngợi Khen" tuyệt vời của Mẹ, đó là tinh
thần kính sợ Thiên Chúa (x.Lk.1:50) trong nỗi
hèn mọn của ḿnh (x.Lk.1:52) và không khao khát
ǵ hơn là Đấng cứu chuộc của ḿnh
(x.Lk.1:53,47).
Với tinh thần đức tin là tôi tớ
xin vâng này, Mẹ Maria chẳng những đă bù đắp lại
"những ư nghĩ kiêu căng" (Lk.1:51) và ham hố
lăng loàn (x.Lk.1:52-53) của Evà cũng như Satan
đă tỏ ra ngay từ ban đầu, Mẹ c̣n thực hiện được
cả giấc mộng lên bằng Thiên Chúa của Evà nữa,
khi Mẹ trở thành con đường thông thương để Thiên
Chúa từ Mẹ đến với loài người cũng như với "tất
cả mọi tạo vật" (Mk.16:16). Như thế, tinh trạng
và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ là t́nh trạng và
mức độ "đầy ơn phúc" cho "tất cả mọi tạo vật"
nữa vậy.
Đức Maria: Đức Tin Cứu Độ
Xác Tín 43
Mẹ Maria là Mô
Phạm Đức Tin v́ Mẹ chẳng những có Đức Tin Ân
Phúc, Mẹ c̣n có cả một Đức Tin Cứu Độ nữa, ở chỗ,
Lời nhập thể là Đức Kitô, Con Mẹ, chẳng những
được Mẹ cưu mang và hạ sinh vào thế gian về thể
lư mà c̣n được Mẹ cưu mang và hạ sinh cho loài
người một cách thần linh nữa.
Mạc Khải
"Ai làm theo ư
Cha trên trời của Tôi là anh chị em và là Mẹ đối
với Tôi" (Mt.12:50)
"Thấy mẹ ḿnh
đứng đó (kề bên thập giá) cùng với người môn đệ
Người thương, Chúa Giêsu nói với Mẹ Người rằng:
'Này bà, đấy là đứa con của bà'. Đoạn nói cùng
người môn đệ rằng: 'Người Mẹ của con đó'"
(Jn.19:26-27).
Nhận Thức
Nếu t́nh trạng và mức độ "đầy ơn
phúc" nơi Mẹ Maria hoàn toàn phản ánh trung
thực "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5), "là
t́nh yêu" (1Jn.4:8,16), "là Thần Linh"
(Jn.4:24), Đấng muốn tỏ ḿnh cho "tất cả mọi tạo
vật" nói chung và cho con người nói riêng, th́
đức tin của Mẹ phải là một đức tin chân thực
nhất, tuyệt đối nhất, và tinh tuyền nhất. Bởi
thế, Mẹ Maria "đầy ơn phúc" chẳng những là một
trinh nữ hoàn toàn trong trắng về thể lư trước
con mắt thế gian, Mẹ c̣n là một trinh nữ hoàn
toàn tinh tuyền về tu đức trước Thánh Nhan Thiên
Chúa nữa. Mẹ Maria đă chứng thực vai tṛ trinh
nữ lưỡng diện này của Mẹ khi Mẹ tŕnh bày cùng
sứ thần Ga-Biên đến truyền tin Lời nhập thể cho
Mẹ rằng: "Tôi không hề biết đến nam nhân"
(Lk.1:34).
Phải, Mẹ Maria "không hề biết đến
nam nhân" tức là, về thể lư, Mẹ vốn giữ ḿnh
đồng trinh, dù Mẹ đă đính hôn với thánh Giuse
(x.Lk.1:27), và về tu đức, Mẹ chỉ biết đến Thiên
Chúa qua việc Mẹ gắn bó tuân giữ tất cả những ǵ
Ngài truyền dạy, điển h́nh nhất là qua "lời sứ
thần truyền" (Lk.1:38). Việc Mẹ Maria liên lỉ
trung thành tuân giữ tất cả những ǵ Thiên Chúa
truyền dạy đây chẳng những nói lên ḷng yêu mến
của Mẹ đối với "Thiên Chúa là Đấng toàn năng đă
làm cho (Mẹ) những sự trọng đại" (Lk.1:49), mà
c̣n nói lên đức tin của Mẹ luôn sẵn sàng đáp ứng
một cách hết sức tương xứng tất cả những tác
động Thần Linh, tức tất cả những ǵ Thiên Chúa
muốn tỏ ra cho Mẹ và nơi Mẹ.
Chính v́ đức tin tuyệt đối vào "những
ǵ Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện" (Lk.1:45)
này mà Mẹ Maria đă cưu mang Con Thiên Chúa, "Đấng
tỏ Cha ra" (Jn.1:18) đồng thời cũng là chính mạc
khải của Cha, trong linh hồn Vô Nhiễm Nguyên Tội
của Mẹ, ngay từ khi Mẹ vừa đầu thai làm người,
tức ngay cả trước khi Mẹ chính thức được thụ
thai Người trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ.
Phải, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria
đă được Thiên Chúa là chủ ruộng gieo vào linh
hồn Mẹ Lời của Ngài như một Hạt Giống Thần Linh
cần phải được nẩy mầm và mọc lên để sinh muôn
vàn hoa trái gấp trăm. Và Hạt Giống Thần Linh là
Lời "hằng ở nơi Cha" (Jn.1:18) "được gieo vào
mảnh đất tốt" (Mt.13:8) là Maria "đầy ơn phúc"
này đă thực sự phát triển và nẩy sinh được "quả
phúc của ḷng (Mẹ)" (Lk.1:45) "là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian"
(Jn.11:27).
Tuy nhiên, không phải v́ đă thực
sự "được thụ thai và sinh hạ... Con Đấng Tối
Cao" (Lk.1:31-32), hay là khi "sự sống hằng ở
nơi Cha đă trở nên hữu h́nh" (1Jn.1:2) như thế
với Mẹ để làm con của ḿnh mà Mẹ Maria không c̣n
cần đức tin nữa, tức không c̣n phải sống đức tin
nữa. Trái lại, để được thụ thai và hạ sinh Con
Đấng Tối Cao Mẹ Maria phải có một đức tin tinh
tuyền thế nào th́ để sống với Người, Mẹ càng
phải có một đức tin tuyệt đối như vậy. Bằng
không, vào một lúc nào đó, Mẹ cũng có thể hồ
nghi không biết con ḿnh sinh ra có phải là Con
Thiên Chúa thực sự hay không? Chẳng hạn như
trường hợp Mẹ thấy Con Thiên Chúa, cũng là Con
của Mẹ, khi lên 12 tuổi đă tỏ ra thái độ khác
thường, ở chỗ, cố ư ở lại đền thờ 3 ngày mà
không xin phép trước hay ít là báo cho cha mẹ
biết ngay bằng cách nào đó, để "cha mẹ buồn khổ
t́m con" (Lk.2:48).
Đức tin của Mẹ Maria c̣n bị thử
thách hơn nữa khi Con của Mẹ tỏ ra hoàn toàn bất
lực hơn bao giờ hết và hơn ai hết trong việc
không thể "xuống khỏi thập giá" (Mk.15:30), "cứu
được những người khác mà không thể cứu được ḿnh"
(Mk.15:31), như Người bị nhóm dân chúng và các
thượng tế thách thức và chế nhạo. Thế nhưng, v́
t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ không
bao giờ bị hao hụt một chút nào, tức là Mẹ đă
trung thành với Thiên Chúa trong hết mọi sự và
trong tất cả mọi lúc, do đó, không như "tất cả (các
môn đệ) đă bỏ Người mà tẩu thốt" (Mk.14:50), Mẹ
vẫn theo sát và gắn bó với Con Mẹ cho đến khi "đừng
kề bên thập giá" (Jn.19:25) của Người, nơi mà Mẹ
đă chính thức được Con Mẹ trao quyền làm mẹ
thiêng liêng của Gioan (x.Jn.19:26), người môn
đệ Người yêu, biểu hiệu cho Giáo Hội nhiệm thể
của Người.
Nếu trước khi tắt thở, Chúa Giêsu
trao môn đệ Người yêu là tông đồ Gioan, vị tông
đồ là biểu hiệu và là đại diện cho Giáo Hội hiền
thê của Người bấy giờ, th́ không phải hay sao,
Người muốn cho riêng Gioan cũng như cho chung
Giáo Hội của Người biết rằng Mẹ Maria đă sinh ra
họ dưới cây thập giá của Người, bằng đức tin "đầy
ơn phúc" của Mẹ.
Thật ra, Giáo Hội đă được cứu
chuộc bởi Chúa Kitô chứ không phải bởi Mẹ Maria,
nghĩa là Giáo Hội "được sự sống và được sự sống
viên măn hơn" (Jn.10:10) chính thức và trực tiếp
từ Vị Mục Tử Tối Cao nhân lành của ḿnh là Chúa
Kitô, Đấng "tự hiến cho họ được thánh hố trong
chân lư" (Jn.17:19), chứ không phải từ Mẹ Maria,
một con người cũng được thừa hưởng ơn cứu chuộc
của Chúa Kitô, dù được thừa hưởng trước Giáo Hội.
Thế nhưng, Đấng Cứu Thế của Giáo Hội này lại là
người con thực sự của Mẹ Maria, và giá máu để
Người có thể tự hiến cho Giáo Hội là do từ đức
tin tinh tuyền của Mẹ Maria đáp ứng lời Chúa mà
có. Bởi thế, theo đường lối vô cùng khôn ngoan
trọn lành của Thiên Chúa, công cuộc cứu chuộc
của Chúa Kitô không phải chỉ có một ḿnh Người
thực hiện, mà là có cả sự cộng tác của Mẹ Maria
Vô Nhiễm Nguyên Tội nữa.
Nếu mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt
Qua của Chúa Kitô là mô thể chính yếu làm nên Ơn
Cứu Độ, th́ đức tin tuyệt đối của Mẹ Maria trong
ngày truyền tin cho đến khi đứng dưới chân thập
giá Chúa Giêsu chính là chất thể thiết yếu để
Người thực hiện Ơn Cứu Độ. Và nếu Chúa Kitô là "sự
sống" (Jn.11:25,14:6' 1Jn.1:2) được Thiên Chúa
ban cho nhân loại nói riêng và cho "tất cả mọi
tạo vật" (Mk.16:15) nói chung, th́ linh hồn Vô
Nhiễm Nguyên Tội và cung dạ Trinh Nguyên của Mẹ
Maria chính là thửa ruộng được Thiên Chúa chôn
giấu kho tàng (x.Mt.13:44) sự sống vô cùng qúi
giá này của Ngài.
Thật vậy, Mẹ Maria đă thụ thai và
hạ sinh Con Đấng Tối Cao về thể lư thế nào, Mẹ
cũng thụ thai và hạ sinh Người cách thiêng liêng
như vậy. Bởi v́, nếu ai làm theo ư Cha trên trời
là mẹ cưu mang và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng
liêng (x.Mt.12:50), th́ c̣n ai xứng đáng cưu
mang và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng liêng bằng
Mẹ Maria, Đấng đă hằng liên lỉ lắng nghe và giữ
lời Thiên Chúa (x.Lk.11:28), Đấng có phúc v́ đă
tin vào lời Thiên Chúa sẽ được thực hiện
(x.Lk.1:45), cho đến khi đứng bên thập giá Chúa
Giêsu, Con Mẹ.
Như thế, việc Mẹ Maria cưu mang
và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng liêng cho riêng
Giáo Hội cũng như cho chung nhân loại dưới chân
thập giá Chúa Giêsu là do đức tin của Mẹ tuyệt
đối gắn bó với Người cho đến cùng, hơn là do
quyền linh thánh hố như ở nơi Giáo Hội, một
quyền linh được Chúa Kitô ban cho các thánh Tông
Đồ (x.Jn.20:22-23' Mt.28:18-20), cũng như cho
các vị được các ngài đặt tay truyền chức thánh,
để các đấng có thể nhân danh Chúa Kitô và đóng
vai Chúa Kitô mà rao giảng tin mừng và ban các
phép Bí Tích, nhất là phép rửa tái sinh cho
những ai tiếp nhận tin mừng của Người do các
đấng rao giảng để được cứu rỗi (x.Mk.16:15-16).
Mang thân phận người nữ, Mẹ Maria
không có chức thánh để làm thừa tác viên ơn cứu
chuộc như các Thánh Tông Đồ và các vị linh mục,
nhờ đó, như các ngài, Mẹ có thể tái sinh Chúa
Kitô nơi các linh hồn bằng việc rao giảng tin
mừng, cũng như có thể hạ sinh các linh hồn trong
Chúa Kitô bằng việc ban phép rửa cho họ. Tuy
nhiên, ơn cứu chuộc mà các Thánh Tông Đồ cùng
các vị tư tế thừa tác ban phát qua các bí tích
có được là do Mẹ Maria đă đồng công cứu chuộc
với Chúa Kitô bằng đức tin tuyệt đối xin vâng
của Mẹ.
Bởi thế, con cái được Giáo Hội
sinh ra trong Chúa Kitô bằng quyền linh thánh hố
của Giáo Hội cũng là con cái của Mẹ Maria, Đấng
đă cưu mang Chúa Kitô trong linh hồn Vô Nhiễm
Nguyên Tội của ḿnh trước khi chính thức thụ
thai và hạ sinh Người theo thể lư thế nào, cũng
là Đấng, trước khi họ được chính thức tái sinh
nhờ Bí Tích Rửa Tội, đă cưu mang họ trong Chúa
Kitô như vậy, ngay từ lúc Mẹ được đầu thai làm
người cho đến khi Mẹ đứng kề bên thập giá Chúa
Kitô. Trong ư định của Đấng tiền định cho những
ai được làm nghĩa tử của Ngài trong Đức Kitô
(x.Eph.1:5) th́ Mẹ Maria đă là Mẹ của họ bằng
đức tin cứu độ của Mẹ.
Mẹ Maria chẳng những là Mẹ của
Kitô hữu mà c̣n là Mẹ của cả Giáo Hội Chúa Kitô
nữa. Đức Thánh Cha Phaolô VI đă tuyên nhận Mẹ
Maria là Mẹ Giáo Hội trong Công Đồng Chung
Vaticanô II ngày 21-11-1964 như sau: "Maria Mẹ
của Giáo Hội, nghĩa là Mẹ của toàn Dân Chúa, của
cả giáo dân cũng như các Vị Mục Tử. Bởi thế Đức
Trinh Nữ phải được tất cả dân Kitô giáo tôn kính
và kêu cầu bằng tước hiệu này". Theo Công Đồng
Chung Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lư về Giáo
Hội Lumen Gentium, một hiến chế được công bố
ngày 21-11-1964, ở chương 8, đoạn 53, Mẹ Maria
cũng chỉ là một trong những chi thể của Giáo Hội.
Tuy nhiên, Công Đồng đă công nhận Mẹ là một "phần
thể siêu đẳng" trong Giáo Hội, và "Giáo Hội Công
Giáo được Chúa Thánh Linh dạy tôn kính Người
bằng t́nh con thảo sùng mộ như là một người mẹ
yêu dấu nhất của ḿnh".
Thật vậy, Mẹ Maria cũng chỉ là
một phần thể trong Giáo Hội, v́ Mẹ cũng nhận
lănh ơn cứu chuộc từ cùng một Đầu của Giáo Hội
là Chúa Kitô. Thế nhưng, Mẹ lại là một "phần thể
siêu đẳng" của Giáo Hội, v́ Mẹ đă được hưởng
trước ơn cứu độ này một cách trọn đầy nhất và đă
là một phần thể gương mẫu cho riêng Kitô hữu
cũng như cho chung Giáo Hội về vai tṛ trinh nữ
và làm mẹ. Nếu Mẹ Maria có thể vừa là con của
Thiên Chúa và là Mẹ Thiên Chúa thế nào, th́
Người cũng có thể vừa là phần thể của Giáo Hội
vừa là Mẹ của Giáo Hội như vậy.
Tuy nhiên, Mẹ là Mẹ của Giáo Hội
không phải v́ Mẹ chỉ là gương mẫu cho Giáo Hội
về đức tin, mà chính nhờ đức tin "đầy ơn phúc"
của ḿnh, một đức tin đă hoàn toàn phản ảnh tất
cả những ǵ Thiên Chúa muốn mạc khải cho chung
nhân loại cũng như riêng Giáo Hội, một mạc khải
đă "viên trọn" (Jn.19:30) trong cuộc tử nạn của
Chúa Kitô trên thập giá, nơi Mẹ đứng kề bên, Mẹ
c̣n thực sự thụ thai, cưu mang và hạ sinh Giáo
Hội một cách thiêng liêng nữa, như Mẹ đă thực sự
thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao là Chúa
Giêsu Kitô về thể lư vậy. Trong loạt bài Giáo Lư
về Mẹ Maria, bài 63, vào các ngày thứ tư hằng
tuần, ngày 17-9-1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đă diễn giải mối liên hệ Mẹ Maria là Mẹ Giáo
Hội theo Tân Ước như sau:
"Từ Ngày Truyền Tin, Mẹ Maria đă
được kêu gọi để đồng ư với việc thiết lập vương
quốc thiên sai là vương quốc sẽ hiện thực bằng
cuộc h́nh thành của Giáo Hội. Ở Cana, khi Mẹ
Maria xin Con thực thi quyền năng thiên sai của
Ngài, Mẹ đă thực hiện một đóng góp cần thiết
trong việc gieo mầm đức tin vào cộng đồng tiên
khởi các môn đệ, và Mẹ đă cộng tác trong việc
xướng suất nên vương quốc của Thiên Chúa, một
vương quốc có 'mầm mống' và 'khởi sự' nơi Giáo
Hội (x.Lumen Gentium, 5). Trên Canvê, Mẹ Maria
đă hiệp nhất chính ḿnh với hy sinh của Con Mẹ
và đă thực hiện một đóng góp từ mẫu của ḿnh vào
công cuộc cứu độ, một công cuộc mặc h́nh thức
tập hợp tất cả những ai tản mác các nơi lại
thành con cái của Thiên Chúa (x.Jn.11:52), chứng
tỏ việc sinh ra của Giáo Hội như hoa trái của hy
sinh cứu độ mà Mẹ Maria đă hợp tác với tính cách
là một người mẹ. Thánh Kư Luca đề cập đến việc
hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu
tiên ở Gia-Liêm (x.Acts 1:14). Như thế, mặc dầu
không có rơ ràng về mặt chữ nghĩa, thánh kư cũng
muốn nhấn mạnh đến tính cách làm mẹ của Mẹ Maria
trong công cuộc của Chúa Kitô và v́ thế trong cả
công cuộc của Giáo Hội nữa. Theo thánh Irênêô,
Mẹ Maria 'đă trở nên nguồn mạch cứu độ cho toàn
thể gịng giống loài người'... Điều này được
vang vọng nơi lời thánh Ambrôsiô: 'Một Trinh Nữ
đă sinh hạ ơn cứu độ cho thế giới, một Trinh Nữ
đă ban sự sống cho tất cả mọi sự', và các vị
Giáo Phụ khác gọi Mẹ Maria là 'Mẹ ơn cứu rỗi'".
(L'Ósevatore Romano, bản Anh Ngữ, số 39,
24-9-1997).