Môi
Trường Đức Tin: Thế Gian
"Nói đến mạc khải, trước tiên và
trên hết, phải nói đến chủ thể mạc khải, tức mạc
khải từ đâu mà có hay ai đă thực hiện việc mạc
khải" (trang 31). Cũng thế, nói đến Đức Tin,
trước hết và trên hết, phải nói đến nguồn gốc
đức tin, tức đức tin từ đâu mà có hay tác nhân
làm nên đức tin. Ngoài ra, nói đến mạc khải
không phải chỉ là nói đến "những sự thế gian"
(Jn.3:12), mà là "những sự thuộc về trời cao"
(Jn.3:12), tức những sự cao siêu mầu nhiệm chỉ
có thể được "Đấng từ trời xuống là Con Người,
Đấng ở trên trời" (Jn.3:13) tỏ ra cho loài người
tạo vật sống trên trần gian này th́ họ mới có
thể biết được mà thôi. Bởi thế mới nói Môi
Trường của Đức Tin là thế gian.
Thật vậy, "những sự thế gian" vốn
là những mầm mống có sẵn nơi nhân tính của con
người, nghĩa là con người, với lương tâm chân
chính và nhờ lư trí lành mạnh, cũng có thể nhận
thức được những mầm mống này, chẳng hạn như nhận
thức được thân phận của ḿnh trước Đấng Tối Cao
nơi mầm nguyên lư tối căn bản là: "Xác thịt th́
hạ sinh xác thịt' Thần Linh th́ sinh hạ thần
linh" (Jn.3:6), bởi thế con người mới cần phải
được "tái sinh từ trên cao" (Jn.3:3).
Nếu "những sự thế gian" là những
mầm mống có sẵn nơi nhân tính của con người, như
hạt giống vốn ở nơi ḷng đất chỉ chờ có cơ hội
sẽ mọc lên theo tầm vốc và mức độ của chúng thế
nào, th́ mạc khải của Thiên Chúa, tức "những sự
thuộc về trời cao", theo tính cách truyền đạt
của ḿnh, cũng sẽ là một hạt giống cần phải được
gieo xuống mảnh đất trần gian là nhân tính của
con người như vậy, để nhờ mảnh đất và nơi mảnh
đất trần gian là nhân tính này, hạt giống Lời
Chúa có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái thần linh,
ở chỗ hạt giống Lời Chúa sẽ làm cho con người
được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương
tự như Thiên Chúa (x.Gen.1:26) có thể "đạt đến
tầm mức viên trọn của chính Thiên Chúa"
(Eph.3:19) là "nên trọn lành như Cha trên trời
là Đấng trọn lành" (Mt.5:48). Một con người càng
nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn
lành th́ họ lại càng chứng tỏ đức tin của họ
càng phản ảnh trung thực mạc khải thần linh, hay
nói cách khác, họ lại càng làm cho mạc khải thần
linh, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối"
(Jn.1:5), được sáng tỏ nơi họ và qua họ hơn nữa.
Sau đây là phần tŕnh bày về Thế
Gian là Môi Trường của Đức Tin, ở chỗ Văn Hóa
cần đến Đức Tin để Văn Hóa có thể dậy men Đức
Tin. Cũng giống như các phần khác trong cuốn
sách này, thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo
thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Văn Hóa cần đến Đức Tin
Xác Tín
Nếu không có Đức
Tin th́ chỉ có văn hóa sự chết chứ không thể nào
có văn hóa sự sống, một thứ văn hóa xứng với
nhân phẩm của con người là loài được dựng nên
theo h́nh ảnh của Thiên Chúa và tương tự như
Thiên Chúa.
Mạc Khải
"Qúi vị thuộc về hạ giới' Tôi
thuộc về thượng giới. Qúi vị thuộc về thế giới
này - một thế giới không thể nào giữ được Tôi.
Đó là lư do Tôi đă nói rằng qúi vị chắc chắn sẽ
chết trong tội lỗi của ḿnh trừ phi qúi vị chân
nhận được TÔI" (Jn.8:23-24).
"Người ta sống không nguyên bởi
bánh, nhưng c̣n bởi mọi lời phát ra từ miệng
Thiên Chúa" (Mt.4:4).
Nhận Thức
Xét về yếu tố làm nên hữu thể,
con người khác với con vật ở tại linh hồn của
ḿnh. Bởi linh hồn và nhờ linh hồn này, con
người có thể nhận biết ḿnh và biết sống sao cho
xứng hợp với thân phận của ḿnh trong việc "làm
chủ trái đất" (Gen.1:28). Như thế, xét về yếu tố
sinh hoạt, con người tỏ ra trổi vượt hơn con vật
ở tại văn hóa của ḿnh. Văn hóa chính là bộ mặt
của con người và là chân tướng của con người.
Đến nỗi, nếu không có văn hóa con người cũng
không c̣n là con người nữa, hay có là con người
cũng không hơn ǵ một con vật.
Vậy nói đến con người là nói đến
văn hóa. Mà văn hóa là ǵ, nếu không phải, về
phẩm chất, là tinh hoa của con người, và về tính
chất, là nhân cách của con người, hay là chính
chủ trương sống của con người, được thể hiện qua
luật pháp và tục lệ của họ, qua tín ngưỡng và
giáo dục của họ, qua văn học và nghệ thuật của
họ, qua khoa học và kỹ thuật của họ v.v. Tuy
nhiên, v́ văn hóa là "những ǵ thế gian", những
ǵ phát xuất từ con người và thuộc về con người,
mà con người lại "nhân vô thập toàn". Do đó,
thực tế cho thấy, văn hóa hoàn toàn có tính cách
tương đối, tức có thể sai lầm và bất toàn, có
thể thay đổi và nghịch nhau.
Văn hố của con người không sai
lầm và bất toàn là ǵ, khi mà, trong chính thời
điểm hầu như văn minh tuyệt đỉnh ngày nay, con
người lại chủ trương làm những việc phạm đến
chính nhân phẩm linh thiêng bất khả xâm phạm của
con người, như đă từng xẩy ra trong chế độ cộng
sản chuyên chế độc tài hay đang xẩy ra nơi các
ống nghiệm tạo nhân, cũng như phạm đến sự sống
hết sức cao qúi của con người, như luật cho phép
phá thai hay luật cho phép giết người cách êm
dịu thành phần già yếu vô phương cứu chữa, sống
chỉ thêm gánh nặng và tốn phí cho xă hội.
Ngoài ra, văn hóa của con người
cũng không tương đối ở chỗ nó có thể thay đổi và
tỏ ra đối nghịch nhau là ǵ, giữa văn hóa của
dân tộc này với dân tộc kia, giữa văn hóa của
thời này với thời khác. Không phải hay sao,
trong khi văn hóa của dân tộc Ấn Độ theo đạo
Bà-La-Môn coi trọng con ḅ như một vị thần linh
bất khả xúc phạm và đáng tôn kính, th́ đối với
văn hóa Việt Nam con ḅ chỉ là một con vật kéo
cầy và là biểu tượng cho ngu si đần độn: "Ngu
như con ḅ!"
Cũng không phải hay sao, văn hóa
c̣n thay đổi theo thời thế, theo thị hiếu của
con người, điển h́nh nhất là trong vấn đề thời
trang, được thể hiện qua nhiều kiểu cách ăn mặc
cũng như trang điểm đầu tóc nơi cả hai phái nam
nữ, đến nỗi có những lúc nh́n đằng sau không c̣n
phân biệt là nam hay nữ. Về phương diện văn hóa
thay đổi theo thời thế liên quan đến phái tính
này không thể không kể đến luật pháp cho phép
hôn nhân đồng tính luyến ái tại Hoa Kỳ cũng như
tại Âu Châu.
Một sự kiện hiển nhiên hơn nữa có
thể chứng minh văn hóa của con người hoàn toàn
có tính cánh tương đối, v́ nó thay đổi theo thời
gian và không gian (địa phương), đó là các thể
chế chính trị. Trước cách mạng Pháp 1789, các
nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ. Sau
đó, chế độ dân chủ bắt đầu h́nh thành cho tới
nay. Tuy nhiên, vẫn c̣n một số nước, chưa hoàn
toàn dứt bỏ chế độ quân chủ này, ở chỗ có cả vua
lẫn quốc hội, như Anh Quốc, Nhật Bản, Thái Lan
v.v. Thế rồi, sau cách mạng Nga 1917, chế độ
cộng sản đă ra đời và, cho đến năm 1989 là năm
cộng sản Đông Âu sụp đổ và năm 1991 là năm Liên
Bang Sô Viết từ bỏ cả chủ nghĩa lẫn chế độ cộng
sản, chế độ này đă tràn lan đến cả nửa phần địa
dư của thế giới. Ngoài ra, c̣n có một thể chế
chính trị có tính cách trung dung giữa cộng sản
và dân chủ, đó là chế độ xă hội vẫn được các
nước Bắc Âu theo đuổi, như Đan Mạch, Thụy Điển,
Na-Uy v.v.
Nếu văn hóa của con người có tính
cách tương đối, bất toàn, bất nhất và đổi thay
như thế, th́ cho dù về khoa học và kỹ thuật con
người có tiến hóa đến đâu đi nữa, văn hóa cũng
không thể nào làm cho con người thăng tiến và
hoàn toàn đạt đến tầm vóc nhân bản cao qúi của
ḿnh. Cũng chính v́ không có một nền văn hóa hết
sức kiện toàn mà, trong thời điểm văn minh vật
chất vượt bậc này, văn hóa của con người đă trở
thành một thứ "văn hóa tử vong", một thứ văn hóa
tác hại đến chính nhân phẩm làm nên con người
cũng như sát hại đến cả sự sống c̣n của con
người, một thứ văn hóa làm cho con người sống
trong thù hằn ghen ghét cũng như trong lo âu sợ
hăi bị diệt vong.
Đó là lư do tại sao văn hóa của
con người cần đến Đức Tin Kitô Giáo hơn bao giờ
hết, nhất là kể từ thập niên 1960 đến nay, một
thập niên đánh dấu một nền văn minh vật chất
càng ngày càng lên đến tuyệt đỉnh của con người,
qua việc con người bắt đầu thám hiểm không gian,
và qua những phát minh tân kỳ cả về kỹ thuật
điện tử lẫn điện tốn, ngoài ra, thập niên này
cũng đánh dấu một cuộc cách mạng nhân bản hầu
như muốn lật đổ đến tận gốc rễ tất cả những ǵ
làm nên xă hội loài người, qua việc bắt đầu ban
bố những luật pháp cho phép ly dị và phá thai
v.v.
Nhận thấy thế giới loài người
được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương
tự như Thiên Chúa bắt đầu phiêu lưu vào một qũi
đạo văn hóa chết chóc như thế, với trách nhiệm ở
trong thế gian mà không thuộc về thế gian của
ḿnh (x.Jn.17:11,13-15), Giáo Hội Công Giáo Rôma
đă triệu tập một Công Đồng Chung tại Vatican lần
thứ hai, từ ngày 11-10-1962 đến 8-12-1965, để
làm sao có thể trở thành "Ánh Sáng Muôn Dân"
("Lumen Gentium" - danh xưng của Hiến Chế Tín Lư
về Giáo Hội, một văn kiện chính yếu nhất trong
16 văn kiện của Công Đồng này), nhờ đó Giáo Hội
có thể mang lại cho thế giới tân tiến "Niềm Vui
và Hy Vọng" ("Gaudium et Spes" - danh xưng của
Hiến Chế Mục Vụ diễn đạt tính cách đối ngoại của
Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến, phản ảnh và
quảng diễn văn kiện có tính cách đối nội trên
đây).
Không riêng ǵ Công Đồng Chung
Vaticanô II này, trong suốt gịng lịch sử của
ḿnh, tùy theo thời thế và cách thế, Giáo Hội
Công Giáo Rôma, nhất là kể từ Đức Giáo Hoàng Lêô
XIII, với Thông Điệp "Rerum Novarum" về điều
kiện của những giai cấp làm việc, ban hành ngày
15-5-1891, đă mở màn cho học thuyết xă hội của
Kitô Giáo vào thời điểm chủ thuyết cộng sản sắp
sửa hiện thân trở thành chế độ cộng sản vô thần
sắt máu, một học thuyết xây dựng trên nền tảng
bất biến là mạc khải thần linh, để ít là làm như
muối ướp (x.Mt.5:13) giữ cho văn hóa thế gian
khỏi bị thối rữa và băng hoại. Học thuyết xă hội
của Kitô Giáo này đă được các vị giáo hoàng kế
tiếp khai triển và áp dụng vào thời điểm của
ḿnh, theo thứ tự thời gian, có thể kể đến như
sau:
Thông Điệp "E
Supremi" của Đức Piô X ban hành ngày 4-10-1903,
về việc phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô'
Thông Điệp "Ad
Beatissimi Apostolorum" của Đức Bênêđictô XV ban
hành ngày 1-1-1914, về việc kêu gọi ḥa b́nh'
Các Thông Điệp
của Đức Piô XI, như "Divini Redemptoris" về cộng
sản, ban hành ngày 19-3-1937, và Thông Điệp
"Nova Impendet" về việc khủng hoảng kinh tế, ban
hành ngày 2-10-1931'
Thông Điệp "Summi
Pontificatus" của Đức Piô XII ban hành ngày
20-10-1939, về việc hiệp nhất của xă hội loài
người'
Các Thông Điệp
của Đức Gioan XXIII, như "Mater et Magistra" về
Kitô Giáo và việc phát triển xă hội, ban hành
ngày 15-5-1961, và Thông Điệp "Pacem in Terris"
về t́nh trạng b́nh an hoàn vũ trong chân lư,
chính trực, bác ái và tự do, ban hành ngày
11-4-1963'
Các Thông Điệp
của Đức Phaolô VI, như Humane Vitae" về sự sống
con người liên quan đến việc ngừa thai, ban hành
ngày 25-7-1968, và Thông Điệp "Populorum
Progressio" về việc phát triển của các dân tộc,
ban hành ngày 26-3-1967'
Các Thông Điệp
của Đức Gioan-Phaolô II, như "Laborem Exercens"
về công việc làm của con người, ban hành ngày
14-9-1981' Thông Điệp "Sollicitudo Rei Socialis"
về việc quan tâm đến xă hội, ban hành ngày
30-12-1987' Thông Điệp "Mulieris Dignitatem" về
phẩm vị và ơn gọi của phụ nữ, ban hành ngày
15-8-1988' Thông Điệp "Centesimus Annus" về
những vấn đề xă hội và kinh tế, ban hành để kỷ
niệm 100 năm Thông Điệp "Rerum Novarum"
(1891-1991)' và Thông Điệp "Evangelium Vitae" về
giá trị và tính cách bất khả xâm phạm của sự
sống con người, ban hành ngày 25-3-1995.
Văn Hóa dậy men Đức Tin
Xác Tín
Văn Hóa của con
người, thành phần được dựng nên theo h́nh ảnh
Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa, chỉ đạt
đến tầm vóc toàn hảo của ḿnh khi nó hoàn toàn
được Đức Tin soi dẫn để có thể trung thực phản
ảnh Lời Chúa là thần linh và là sự sống.
Mạc Khải
"Triều đại của Thiên Chúa giống
như men mà người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba
đấu bột. Dần dần cả khối bột trộn men bắt đầu
phồng lên" (Mt.13:33).
"Hạt giống được gieo trên đất tốt
là người nghe và chấp nhận sứ điệp. Họ chính là
người trổ sinh gấp trăm, hay gấp sáu mươi hoặc
gấp ba mươi lần" (Mt.13:23).
Nhận Thức
Đất không thể tự ḿnh xanh tươi
nếu các hạt giống nơi nó không mọc lên thế nào
th́ thế gian cũng không thể nào có một bộ mặt
nhân bản nếu không có văn hóa của con người như
vậy. Tuy nhiên, cho dù có xanh tươi nhờ các hạt
giống nơi nó mọc lên đi nữa, đất cũng chỉ là
những cánh đồng hoang hay những khu rừng rậm,
nơi ẩn nấp của loài dă thú. Cũng thế, qua gịng
thời gian của lịch sử thế giới, nhất là giai
đoạn BC (trước Chúa Kitô giáng sinh), văn hóa
của con người vẫn c̣n là nơi chất chứa những con
dă thú của sức mạnh, của rừng rú, của chộp bắt
nhau, ăn thịt nhau.
Thật vậy, về thể lư, văn hóa của
con người trong giai đoạn BC không là nơi ẩn nấp
của loài dă thú, sặc mùi máu tanh và tử khí bốc
lên từ sức mạnh của các đế quốc là ǵ? Như đế
quốc Akkadian từ 2360 BC ở vùng Mesopotamia và
Ba Tư, đế quốc Cựu Babylon cũng ở vùng này từ
1728 BC, đế quốc Hittite từ 1296 BC ở vùng
Anatonia và Syria, đế quốc Assyria từ 883 BC ở
vùng Mesopotamia và Persia, đế quốc Tân Babylon
từ 605 BC rồi đến đế quốc Ba Tư từ 550 BC cũng ở
vùng này, đế quốc Alexander từ 323 BC ở vùng Hy
Lạp và Rôma, đế quốc Seleucid từ 280 BC ở vùng
Anatolia và Syria, đế quốc Parthian ở vùng
Mesopotamia và Ba Tư và đế quốc Rôma ở vùng Hy
Lạp và Rôma cùng một thời sau 200 BC, đế quốc
Rôma ở Palestine từ 50 BC v.v.,
Chưa hết, về luân lư, văn hóa của
loài người trong giai đoạn BC cũng c̣n là nơi ẩn
nấp cho loài dă thú, loài sống theo luật rừng
mạnh được yếu thua, được tỏ hiện qua những
khuynh hướng triết lư hay đạo lư khinh thường
vật chất, hạ giá xác thịt, và coi thường phụ nữ
nơi các tục đa thê v.v.
Thế nhưng, kể từ khi "có người
kia đi gieo giống tốt trong thửa ruộng của ḿnh"
(Mt.13:24), đó là Lời nhập thể đi rao giảng Tin
Mừng, đi truyền bá Phúc Âm trên thế gian và cho
con người, bắt đầu từ vùng đất Do Thái, th́ đất
đă bắt đầu "trổ sinh muôn vàn sinh hoa trái"
(Jn.12:24,15:5).
Đúng vậy, kể từ khi "hạt giống
tốt" là mạc khải thần linh, là tinh thần đức ái
trọn hảo, được trời cao gieo xuống thửa ruộng
thế gian, th́ văn hóa nhân bản bắt đầu lên men
thần linh. Không phải hay sao, kể từ giai đoạn
AD là "năm của Chúa", tức kể từ thời điểm Chúa
Kitô giáng sinh, thời điểm "sự sống đă tỏ hiện
cho chúng ta" (1Jn.1:2), thời điểm "Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một ḿnh để ai
tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống
đời đời" (Jn.3:16), văn hóa nhân bản, như một
mầm thai tới thời khắc được hồn thiêng hóa để
bắt đầu sống động như một con người thế nào,
thực sự cũng đă được Phúc Âm hóa để trổ sinh "sự
sống viên măn hơn" (Jn.10:10) cho loài người như
thế.
Nh́n vào thế giới hiện nay, sau
gần 2000 AD, tức sau gần 2000 năm Chúa Kitô
giáng sinh, chúng ta nhận thấy ǵ đặc biệt, nếu
không phải là tinh thần yêu thương phục vụ do
Kitô giáo khởi xướng, bắt đầu từ Âu Châu, một
đại lục có thể nói là đại lục Kitô giáo, đă được
nẩy nở khắp nơi trên thế giới, về cả lănh vực
văn hóa cũng như xă hội.
Về lănh vực văn học là lănh vực
đầu năo chi phối các lănh vực khác, phải kể đến
các đại học là môi trường giáo dục cao cấp do
Kitô giáo khởi xướng từ thời trung cổ. Như Đại
Học Bologna ở Ư có từ năm 1100, Đại Học Oxford ở
Anh Quốc cũng bắt đầu h́nh thành từ năm 1100,
Đại Học Ba Lê năm 1200, Đại Học Toulouse do Đức
Thánh Cha Gregoriô X thiết lập năm 1229, Đại Học
Napoli do hoàng đế Frederic thiết lập năm 1224,
Đại Học Salamanca do vua Ferđinand xứ Castilla
sáng lập năm 1243, các đại học ở Đức và Bắc Âu
măi tới thế kỷ 14 mới có, như Đại Học Praga năm
1348, Đại Học Vienna năm 1365, Đại Học
Heidelberg năm 1386, Đại Học Cologne năm 1388
v.v. Tại Hoa Kỳ, đại học đầu tiên là Đại Học
Harvard ở Cambridge tiểu bang Massachusetts được
thành lập từ năm 1636, trước hết, là để dạy
chủng sinh theo học thần học, sau đó mới trở
thành một đại học đời như bây giờ. Đối với việc
giáo dục học đường, cách riêng ở Việt Nam, nổi
tiếng nhất phải kể đến trường của các Sư Huynh
Lasan, như trường trung học Tabert Sài G̣n, một
học đường thu hút được không biết bao nhiêu là
con cái của những bậc vị vọng ngoại giáo. Ngày
nay, chính các cán bộ cộng sản theo chủ thuyết
chống Công Giáo lại chỉ yên tâm khi mang con cái
của ḿnh đến học ở các trường có các bà sơ dạy
mà thôi.
Về lănh vực xă hội, một lănh vực
tim gan, (so với lănh vực văn học là lănh vực
đầu năo), Kitô giáo cũng đă là khai sáng viên
trong các việc phục vụ con người về mọi phương
diện, như việc mở các nhà thương để chữa trị
thương đau xác thân của con người, lập các viện
mồ côi để chăm nuôi dưỡng dục trẻ em không cha
không mẹ, mở các trại cùi để săn sóc thành phần
bị người đời ghê sợ tránh lánh v.v.
Theo lịch sử Giáo Hội, việc bác
ái xă hội bắt đầu triển nở từ cuối thể kỷ 16
sang đầu thế kỷ 17. Khởi sự với Ḍng Thánh Gioan
Thiên Chúa ở Bồ Đào Nha mở các bệnh viện nên
ḍng này c̣n được gọi là Ḍng Bệnh Viện. Tiếp
đến là Văn Pḥng Bác Ái Công Giáo do vua Henri
IV lập năm 1606 để kiểm sốt các tổ chức bác ái
xă hội và xây cất nhiều bệnh viện mới. Nổi tiếng
nhất là Ḍng Nữ Tử Bác Ái Thánh Phaolô lập năm
1633 để chuyên chăm sóc người bệnh hoạn, tật
nguyền, già nua cũng như các trẻ em mồ côi. Thế
nhưng, công cuộc bác ái xă hội phát triển nhanh
nhất (từ năm 1950) và rộng nhất (tới 126 quốc
gia, kể cả nước cộng sản) phải kể đến việc phục
vụ "người nghèo nhất trong các người nghèo" của
Ḍng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta lập,
một hiện thân đúc ái Kitô giáo thời đại đă được
cả thế giới tiếc thương khi mẹ qua đi ngày
5-9-1997. Ngoài ra, việc bác ái xă hội Công Giáo
c̣n ôm ấp chính thành phần người cùi nữa, mà hai
vị tông đồ người cùi c̣n lưu danh là cha
Đa-miêng và đức cha Cát-Sanh.
Phải, nhờ tinh thần hy sinh phục
vụ của con cái Giáo Hội, thành phần truyền giáo
nơi các xứ dân ngoại, cũng như thành phần làm
việc tông đồ ngay trong ḷng xă hội, được thực
hiện bởi thành phần giáo sĩ và tu sĩ sống đời
tận hiến, theo lệnh truyền của Chúa Kitô phục
sinh: "Các con hăy đi khắp thế gian loan báo Tin
Mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:15), mà đức
tin nhỏ như hạt cải, nhỏ đến nỗi không thể nh́n
thấy bằng con mắt tự nhiên, đă mọc lên xum xuê
thành một Giáo Hội hoàn vũ vĩ đại, đến nỗi, các
linh hồn như chim trời đến làm tổ nương thân nơi
các cành của nó (x.Mt.13:31-32) là các chi thể
thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô được hiện thân qua
các Giáo Hội chuyên biệt địa phương, các ḍng tu,
các vị đại thánh thời đại v.v.
Tuy nhiên, v́ Phúc Âm Kitô giáo
dạy những điều hoàn toàn đi ngược lại với đường
lối và chủ trương tự nhiên của thế gian, do đó,
Phúc Âm mang thân phận giống như một hạt lúa
miến cần phải bị mục nát đi để có thể sinh muôn
vàn hoa trái (x.Jn.12:24). Thực tế đă cho thấy
hạt lúa miến Phúc Âm đă bị mục nát đi nơi những
cuộc bắt bớ, tiêu diệt ngay từ đầu, tại chính
nơi phát xuất ra Kitô giáo là Thành Thánh
Gia-Liêm. Để rồi, từ đó, về thời gian cũng như
không gian, máu của vị tử đạo tiên khởi là Thánh
Stêphanô đă liên tục chảy đến tất cả mọi xứ
truyền giáo, nhất là đến vùng đất Á Đông, từ thế
kỷ 16 đến 19, như Đại Hàn, với 103 vị tử đạo
được Đức Gioan Phaolô II phong thánh năm 1984,
và Việt Nam, với 117 vị tử đạo cũng được cùng vị
Giáo Hoàng phong thánh năm 1989, thậm chí cho
tới thế kỷ 20, đặc biệt vào bán thập niên 1990
của cuối thế kỷ 20 này, một thời điểm loài người
văn minh tột bậc mà máu tử đạo vẫn c̣n loang
chảy tại Phi Châu.
Tuy nhiên, v́ Phúc Âm là hạt
giống thần linh, "một hạt giống không hư nát"
(1Pt.1:23), nên Phúc Âm không thể bị quyền lực
thế gian tiêu diệt, trái lại, hơn lúc nào hết,
Phúc Âm nhờ đó càng sáng tỏ trên thế gian. Thực
tế đă cho thấy, trong tất cả mọi tôn giáo chỉ có
Kitô giáo là tôn giáo dễ bị bắt bớ nhất, bị bắt
bớ nhiều nhất, bị bắt bớ lâu nhất, bị bắt bớ ở
mọi đời và khắp mọi nơi. Đến nỗi, có thể nói,
Chúa Kitô không tử nạn không thực là Chúa Kitô
thế nào, th́ Kitô giáo không bị bắt bớ không là
Kitô giáo như vậy.
Thế mà, càng bị thế gian bắt bớ,
Kitô giáo chẳng những không bị tiêu diệt, trái
lại, như có đà, Kitô giáo càng phát triển hơn
nữa, phát triển đến "tất cả mọi tạo vật"
(Mk.16:15), "đến tận cùng thời gian" (Mt.28:20),
một tầm mức phát triển đúng như ư nguyện của
Đấng Sáng Lập Kitô giáo khi Người sai các môn đệ
của ḿnh đi "như chiên giữa sói rừng"
(Mt.10:16), một phát triển "vĩ đại nhất"
(Mt.13:32) và kiên vững nhất (x.Mt.7:24-25), một
phát triển vượt trội hơn hết mọi thứ cây tôn
giáo, thể chế và ư hệ, một phát triển không lấn
át trần gian song thu hút trần gian cho đến khi
đạt được sứ mệnh của ḿnh là làm cho trần gian
dậy men Phúc Âm thần linh.
Hiện nay, trước ngưỡng cửa của
ngàn năm thứ ba, kể từ thập niên 1960, Phúc Âm
không phải chỉ bị một thể chế, một quyền lực hay
một địa phương nào đàn áp nữa, mà là đang bị cả
một trào lưu văn hóa trần tục ở khắp nơi, nhất
là văn hóa Âu Mỹ, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng
Kitô giáo và mang tinh thần Kitô giáo, chống đối,
áp đảo và muốn hoàn toàn triệt hạ, bằng những
luật pháp cho phép phá hủy đi những giá trị luân
lư phổ quát làm nên nhân phẩm con người, (như
luật cho phép mang thai mướn và cấy thai trong
ống nghiệm), làm nên yếu tính hôn nhân, (như
luật cho phép hôn nhân đồng phái tính), và làm
nên cơ cấu gia đ́nh, (như luật cho phép ly dị và
phá thai).
Tuy nhiên, hiện tượng băng hoại
nơi các nền văn hóa nói chung, nhất là nơi nền
văn hóa Âu Mỹ, một nền văn hóa thăng hoa bởi
Phúc Âm Kitô giáo qua bao thế kỷ và cũng là một
nền văn hóa ảnh hưởng khắp thế giới cho đến nay
nhờ các cuộc truyền giáo, không phải là v́ Phúc
Âm Kitô giáo đă đến lúc hoàn toàn bị lỗi thời,
nhất là vào thời của khoa học và kỹ thuật, thời
của tự do và nhân quyền. Bởi v́, như thực tế cho
thấy, hiện tượng duy nhân bản trong tân thời đại
khoa học thực nghiệm này chẳng những không làm
con người thăng tiến về mặt tâm linh là yếu tố
làm nên con người đích thực, mà càng văn minh
con người lại càng cảm thấy bất nhất (về thể chế
xă hội theo chủ thuyết cộng sản ngược lại với
chủ nghĩa tư bản), bất an (về mối lo sợ thế
chiến thứ ba xẩy ra sẽ tiêu diệt cả loài người
bằng chính những sản phẩm khoa học do con người
tạo ra là bom nguyên tử và khinh khí), bất ḥa (với
những cuộc Thế Chiến I và II, cùng các cuộc
chiến dằng dai ở khắp nơi dọc suốt thế kỷ 20 này,
như các cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Chiến Tranh
Đại Hàn, Chiến Tranh Trung Đông, chiến tranh ở
Phi Châu, chiến tranh ở Âu Châu), và bất hạnh (với
những đứa trẻ mồ côi bất đắc dĩ v́ cha mẹ ly dị
nhau, những thai nhi vô tội bị giết chết ngay
trong bụng mẹ, những thanh thiếu niên nam lập
băng đảng phạm pháp, những thanh thiếu nữ chửa
hoang, những người tàn tật và bị bệnh vô phương
cứu chữa trở thành gánh nặng cho xă hội cần phải
thanh tốn món nợ của ḿnh, những người đồng tính
luyến ái bị triệu chứng Aids là triệu chứng hoại
kháng tố v.v.).
Như thế, nếu trong giai đoạn lịch
sử của nền văn hóa chịu ảnh hưởng Kitô giáo đang
c̣n được Phúc Âm hóa xưa kia không hề xẩy ra
những hiện tượng băng hoại càng ngày càng lở
loét như một căn bệnh ung thư bất trị khắp nơi
như được đề cập trên đây, cho đến thời khoa học
và kỹ thuật, thời tự do và duy nhân bản mới có,
th́ không phải hay sao, đó là bằng cớ hiển nhiên
và hùng hồn nhất nói lên rằng, khoa học và kỹ
thuật, tự do và duy nhân bản không phải là chúa
tể hay là cứu chúa của con người, hơn là một con
ḅ vàng ngẫu tượng mà con người sùng bái thôi.
Nếu con người hạ bệ Phúc Âm, loại
trừ Phúc Âm ngàn đời ra khỏi văn hóa của ḿnh,
làm cho văn hóa nhạt mất chất mặn của muối Phúc
Âm (x.Mt.5:13), con người đă, đang và sẽ như "cá
không ăn muối cá ươn" thế nào th́ hiện tượng con
người văn minh băng hoại ngày nay đúng là một
cuộc trắc nghiệm chứng thực là chỉ được Phúc Âm
hố văn hóa của con người mới thực sự là văn hóa
sự sống mà thôi.