Môi Trường Đức Tin: Thế Gian

 

"Nói đến mạc khải, trước tiên và trên hết, phải nói đến chủ thể mạc khải, tức mạc khải từ đâu mà có hay ai đă thực hiện việc mạc khải" (trang 31). Cũng thế, nói đến Đức Tin, trước hết và trên hết, phải nói đến nguồn gốc đức tin, tức đức tin từ đâu mà có hay tác nhân làm nên đức tin. Ngoài ra, nói đến mạc khải không phải chỉ là nói đến "những sự thế gian" (Jn.3:12), mà là "những sự thuộc về trời cao" (Jn.3:12), tức những sự cao siêu mầu nhiệm chỉ có thể được "Đấng từ trời xuống là Con Người, Đấng ở trên trời" (Jn.3:13) tỏ ra cho loài người tạo vật sống trên trần gian này th́ họ mới có thể biết được mà thôi. Bởi thế mới nói Môi Trường của Đức Tin là thế gian.

 

Thật vậy, "những sự thế gian" vốn là những mầm mống có sẵn nơi nhân tính của con người, nghĩa là con người, với lương tâm chân chính và nhờ lư trí lành mạnh, cũng có thể nhận thức được những mầm mống này, chẳng hạn như nhận thức được thân phận của ḿnh trước Đấng Tối Cao nơi mầm nguyên lư tối căn bản là: "Xác thịt th́ hạ sinh xác thịt' Thần Linh th́ sinh hạ thần linh" (Jn.3:6), bởi thế con người mới cần phải được "tái sinh từ trên cao" (Jn.3:3).

 

Nếu "những sự thế gian" là những mầm mống có sẵn nơi nhân tính của con người, như hạt giống vốn ở nơi ḷng đất chỉ chờ có cơ hội sẽ mọc lên theo tầm vốc và mức độ của chúng thế nào, th́ mạc khải của Thiên Chúa, tức "những sự thuộc về trời cao", theo tính cách truyền đạt của ḿnh, cũng sẽ là một hạt giống cần phải được gieo xuống mảnh đất trần gian là nhân tính của con người như vậy, để nhờ mảnh đất và nơi mảnh đất trần gian là nhân tính này, hạt giống Lời Chúa có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái thần linh, ở chỗ hạt giống Lời Chúa sẽ làm cho con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (x.Gen.1:26) có thể "đạt đến tầm mức viên trọn của chính Thiên Chúa" (Eph.3:19) là "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mt.5:48). Một con người càng nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành th́ họ lại càng chứng tỏ đức tin của họ càng phản ảnh trung thực mạc khải thần linh, hay nói cách khác, họ lại càng làm cho mạc khải thần linh, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Jn.1:5), được sáng tỏ nơi họ và qua họ hơn nữa. 

 

Sau đây là phần tŕnh bày về Thế Gian là Môi Trường của Đức Tin, ở chỗ Văn Hóa cần đến Đức Tin để  Văn Hóa có thể dậy men Đức Tin. Cũng giống như các phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:

1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).

2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).

3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).

 

 

Văn Hóa cần đến Đức Tin

 

 

Xác Tín           

 

 

                Nếu không có Đức Tin th́ chỉ có văn hóa sự chết chứ không thể nào có văn hóa sự sống, một thứ văn hóa xứng với nhân phẩm của con người là loài được dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa.

 

 

Mạc Khải

 

"Qúi vị thuộc về hạ giới' Tôi thuộc về thượng giới. Qúi vị thuộc về thế giới này - một thế giới không thể nào giữ được Tôi. Đó là lư do Tôi đă nói rằng qúi vị chắc chắn sẽ chết trong tội lỗi của ḿnh trừ phi qúi vị chân nhận được TÔI" (Jn.8:23-24).

 

"Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng c̣n bởi mọi lời phát ra từ miệng Thiên Chúa" (Mt.4:4).

 

Nhận Thức

 

Xét về yếu tố làm nên hữu thể, con người khác với con vật ở tại linh hồn của ḿnh. Bởi linh hồn và nhờ linh hồn này, con người có thể nhận biết ḿnh và biết sống sao cho xứng hợp với thân phận của ḿnh trong việc "làm chủ trái đất" (Gen.1:28). Như thế, xét về yếu tố sinh hoạt, con người tỏ ra trổi vượt hơn con vật ở tại văn hóa của ḿnh. Văn hóa chính là bộ mặt của con người và là chân tướng của con người. Đến nỗi, nếu không có văn hóa con người cũng không c̣n là con người nữa, hay có là con người cũng không hơn ǵ một con vật.

 

Vậy nói đến con người là nói đến văn hóa. Mà văn hóa là ǵ, nếu không phải, về phẩm chất, là tinh hoa của con người, và về tính chất, là nhân cách của con người, hay là chính chủ trương sống của con người, được thể hiện qua luật pháp và tục lệ của họ, qua tín ngưỡng và giáo dục của họ, qua văn học và nghệ thuật của họ, qua khoa học và kỹ thuật của họ v.v. Tuy nhiên, v́ văn hóa là "những ǵ thế gian", những ǵ phát xuất từ con người và thuộc về con người, mà con người lại "nhân vô thập toàn". Do đó, thực tế cho thấy, văn hóa hoàn toàn có tính cách tương đối, tức có thể sai lầm và bất toàn, có thể thay đổi và nghịch nhau.

 

Văn hố của con người không sai lầm và bất toàn là ǵ, khi mà, trong chính thời điểm hầu như văn minh tuyệt đỉnh ngày nay, con người lại chủ trương làm những việc phạm đến chính nhân phẩm linh thiêng bất khả xâm phạm của con người, như đă từng xẩy ra trong chế độ cộng sản chuyên chế độc tài hay đang xẩy ra nơi các ống nghiệm tạo nhân, cũng như phạm đến sự sống hết sức cao qúi của con người, như luật cho phép phá thai hay luật cho phép giết người cách êm dịu thành phần già yếu vô phương cứu chữa, sống chỉ thêm gánh nặng và tốn phí cho xă hội.

 

Ngoài ra, văn hóa của con người cũng không tương đối ở chỗ nó có thể thay đổi và tỏ ra đối nghịch nhau là ǵ, giữa văn hóa của dân tộc này với dân tộc kia, giữa văn hóa của thời này với thời khác. Không phải hay sao, trong khi văn hóa của dân tộc Ấn Độ theo đạo Bà-La-Môn coi trọng con ḅ như một vị thần linh bất khả xúc phạm và đáng tôn kính, th́ đối với văn hóa Việt Nam con ḅ chỉ là một con vật kéo cầy và là biểu tượng cho ngu si đần độn: "Ngu như con ḅ!"

 

Cũng không phải hay sao, văn hóa c̣n thay đổi theo thời thế, theo thị hiếu của con người, điển h́nh nhất là trong vấn đề thời trang, được thể hiện qua nhiều kiểu cách ăn mặc cũng như trang điểm đầu tóc nơi cả hai phái nam nữ, đến nỗi có những lúc nh́n đằng sau không c̣n phân biệt là nam hay nữ. Về phương diện văn hóa thay đổi theo thời thế liên quan đến phái tính này không thể không kể đến luật pháp cho phép hôn nhân đồng tính luyến ái tại Hoa Kỳ cũng như tại Âu Châu. 

 

Một sự kiện hiển nhiên hơn nữa có thể chứng minh văn hóa của con người hoàn toàn có tính cánh tương đối, v́ nó thay đổi theo thời gian và không gian (địa phương), đó là các thể chế chính trị. Trước cách mạng Pháp 1789, các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ. Sau đó, chế độ dân chủ bắt đầu h́nh thành cho tới nay. Tuy nhiên, vẫn c̣n một số nước, chưa hoàn toàn dứt bỏ chế độ quân chủ này, ở chỗ có cả vua lẫn quốc hội, như Anh Quốc, Nhật Bản, Thái Lan v.v. Thế rồi, sau cách mạng Nga 1917, chế độ cộng sản đă ra đời và, cho đến năm 1989 là năm cộng sản Đông Âu sụp đổ và năm 1991 là năm Liên Bang Sô Viết từ bỏ cả chủ nghĩa lẫn chế độ cộng sản, chế độ này đă tràn lan đến cả nửa phần địa dư của thế giới. Ngoài ra, c̣n có một thể chế chính trị có tính cách trung dung giữa cộng sản và dân chủ, đó là chế độ xă hội vẫn được các nước Bắc Âu theo đuổi, như Đan Mạch, Thụy Điển, Na-Uy v.v.

 

Nếu văn hóa của con người có tính cách tương đối, bất toàn, bất nhất và đổi thay như thế, th́ cho dù về khoa học và kỹ thuật con người có tiến hóa đến đâu đi nữa, văn hóa cũng không thể nào làm cho con người thăng tiến và hoàn toàn đạt đến tầm vóc nhân bản cao qúi của ḿnh. Cũng chính v́ không có một nền văn hóa hết sức kiện toàn mà, trong thời điểm văn minh vật chất vượt bậc này, văn hóa của con người đă trở thành một thứ "văn hóa tử vong", một thứ văn hóa tác hại đến chính nhân phẩm làm nên con người cũng như sát hại đến cả sự sống c̣n của con người, một thứ văn hóa làm cho con người sống trong thù hằn ghen ghét cũng như trong lo âu sợ hăi bị diệt vong.

 

Đó là lư do tại sao văn hóa của con người cần đến Đức Tin Kitô Giáo hơn bao giờ hết, nhất là kể từ thập niên 1960 đến nay, một thập niên đánh dấu một nền văn minh vật chất càng ngày càng lên đến tuyệt đỉnh của con người, qua việc con người bắt đầu thám hiểm không gian, và qua những phát minh tân kỳ cả về kỹ thuật điện tử lẫn điện tốn, ngoài ra, thập niên này cũng đánh dấu một cuộc cách mạng nhân bản hầu như muốn lật đổ đến tận gốc rễ tất cả những ǵ làm nên xă hội loài người, qua việc bắt đầu ban bố những luật pháp cho phép ly dị và phá thai v.v.

 

Nhận thấy thế giới loài người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa bắt đầu phiêu lưu vào một qũi đạo văn hóa chết chóc như thế, với trách nhiệm ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian của ḿnh (x.Jn.17:11,13-15), Giáo Hội Công Giáo Rôma đă triệu tập một Công Đồng Chung tại Vatican lần thứ hai, từ ngày 11-10-1962 đến 8-12-1965, để làm sao có thể trở thành "Ánh Sáng Muôn Dân" ("Lumen Gentium" - danh xưng của Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội, một văn kiện chính yếu nhất trong 16 văn kiện của Công Đồng này), nhờ đó Giáo Hội có thể mang lại cho thế giới tân tiến "Niềm Vui và Hy Vọng" ("Gaudium et Spes" - danh xưng của Hiến Chế Mục Vụ diễn đạt tính cách đối ngoại của Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến, phản ảnh và quảng diễn văn kiện có tính cách đối nội trên đây).

 

Không riêng ǵ Công Đồng Chung Vaticanô II này, trong suốt gịng lịch sử của ḿnh, tùy theo thời thế và cách thế, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nhất là kể từ Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, với Thông Điệp "Rerum Novarum" về điều kiện của những giai cấp làm việc, ban hành ngày 15-5-1891, đă mở màn cho học thuyết xă hội của Kitô Giáo vào thời điểm chủ thuyết cộng sản sắp sửa hiện thân trở thành chế độ cộng sản vô thần sắt máu, một học thuyết xây dựng trên nền tảng bất biến là mạc khải thần linh, để ít là làm như muối ướp (x.Mt.5:13) giữ cho văn hóa thế gian khỏi bị thối rữa và băng hoại. Học thuyết xă hội của Kitô Giáo này đă được các vị giáo hoàng kế tiếp khai triển và áp dụng vào thời điểm của ḿnh, theo thứ tự thời gian, có thể kể đến như sau:

 

                Thông Điệp "E Supremi" của Đức Piô X ban hành ngày 4-10-1903, về việc phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô'

                Thông Điệp "Ad Beatissimi Apostolorum" của Đức Bênêđictô XV ban hành ngày 1-1-1914, về việc kêu gọi ḥa b́nh'

                Các Thông Điệp của Đức Piô XI, như "Divini Redemptoris" về cộng sản, ban hành ngày 19-3-1937, và Thông Điệp "Nova Impendet" về việc khủng hoảng kinh tế, ban hành ngày 2-10-1931'

                Thông Điệp "Summi Pontificatus" của Đức Piô XII ban hành ngày 20-10-1939, về việc hiệp nhất của xă hội loài người'

                Các Thông Điệp của Đức Gioan XXIII, như "Mater et Magistra" về Kitô Giáo và việc phát triển xă hội, ban hành ngày 15-5-1961, và Thông Điệp "Pacem in Terris" về t́nh trạng b́nh an hoàn vũ trong chân lư, chính trực, bác ái và tự do, ban hành ngày 11-4-1963'

                Các Thông Điệp của Đức Phaolô VI, như Humane Vitae" về sự sống con người liên quan đến việc ngừa thai, ban hành ngày 25-7-1968, và Thông Điệp "Populorum Progressio" về việc phát triển của các dân tộc, ban hành ngày 26-3-1967'

                Các Thông Điệp của Đức Gioan-Phaolô II, như "Laborem Exercens" về công việc làm của con người, ban hành ngày 14-9-1981' Thông Điệp "Sollicitudo Rei Socialis" về việc quan tâm đến xă hội, ban hành ngày 30-12-1987' Thông Điệp "Mulieris Dignitatem" về phẩm vị và ơn gọi của phụ nữ, ban hành ngày 15-8-1988' Thông Điệp "Centesimus Annus" về những vấn đề xă hội và kinh tế, ban hành để kỷ niệm 100 năm Thông Điệp "Rerum Novarum" (1891-1991)' và Thông Điệp "Evangelium Vitae" về giá trị và tính cách bất khả xâm phạm của sự sống con người, ban hành ngày 25-3-1995.

  

 

Văn Hóa dậy men Đức Tin

 

 

Xác Tín       

 

                Văn Hóa của con người, thành phần được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa, chỉ đạt đến tầm vóc toàn hảo của ḿnh khi nó hoàn toàn được Đức Tin soi dẫn để có thể trung thực phản ảnh Lời Chúa là thần linh và là sự sống.

  

Mạc Khải

 

"Triều đại của Thiên Chúa giống như men mà người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột. Dần dần cả khối bột trộn men bắt đầu phồng lên" (Mt.13:33).

 

"Hạt giống được gieo trên đất tốt là người nghe và chấp nhận sứ điệp. Họ chính là người trổ sinh gấp trăm, hay gấp sáu mươi hoặc gấp ba mươi lần" (Mt.13:23).

 

Nhận Thức

 

Đất không thể tự ḿnh xanh tươi nếu các hạt giống nơi nó không mọc lên thế nào th́ thế gian cũng không thể nào có một bộ mặt nhân bản nếu không có văn hóa của con người như vậy. Tuy nhiên, cho dù có xanh tươi nhờ các hạt giống nơi nó mọc lên đi nữa, đất cũng chỉ là những cánh đồng hoang hay những khu rừng rậm, nơi ẩn nấp của loài dă thú. Cũng thế, qua gịng thời gian của lịch sử thế giới, nhất là giai đoạn BC (trước Chúa Kitô giáng sinh), văn hóa của con người vẫn c̣n là nơi chất chứa những con dă thú của sức mạnh, của rừng rú, của chộp bắt nhau, ăn thịt nhau.

 

Thật vậy, về thể lư, văn hóa của con người trong giai đoạn BC không là nơi ẩn nấp của loài dă thú, sặc mùi máu tanh và tử khí bốc lên từ sức mạnh của các đế quốc là ǵ? Như đế quốc Akkadian từ 2360 BC ở vùng Mesopotamia và Ba Tư, đế quốc Cựu Babylon cũng ở vùng này từ 1728 BC, đế quốc Hittite từ 1296 BC ở vùng Anatonia và Syria, đế quốc Assyria từ 883 BC ở vùng Mesopotamia và Persia, đế quốc Tân Babylon từ 605 BC rồi đến đế quốc Ba Tư từ 550 BC cũng ở vùng này, đế quốc Alexander từ 323 BC ở vùng Hy Lạp và Rôma, đế quốc Seleucid từ 280 BC ở vùng Anatolia và Syria, đế quốc Parthian ở vùng Mesopotamia và Ba Tư và đế quốc Rôma ở vùng Hy Lạp và Rôma cùng một thời sau 200 BC, đế quốc Rôma ở Palestine từ 50 BC v.v.,

 

Chưa hết, về luân lư, văn hóa của loài người trong giai đoạn BC cũng c̣n là nơi ẩn nấp cho loài dă thú, loài sống theo luật rừng mạnh được yếu thua, được tỏ hiện qua những khuynh hướng triết lư hay đạo lư khinh thường vật chất, hạ giá xác thịt, và coi thường phụ nữ nơi các tục đa thê v.v.

 

Thế nhưng, kể từ khi "có người kia đi gieo giống tốt trong thửa ruộng của ḿnh" (Mt.13:24), đó là Lời nhập thể đi rao giảng Tin Mừng, đi truyền bá Phúc Âm trên thế gian và cho con người, bắt đầu từ vùng đất Do Thái, th́ đất đă bắt đầu "trổ sinh muôn vàn sinh hoa trái" (Jn.12:24,15:5).

 

Đúng vậy, kể từ khi "hạt giống tốt" là mạc khải thần linh, là tinh thần đức ái trọn hảo, được trời cao gieo xuống thửa ruộng thế gian, th́ văn hóa nhân bản bắt đầu lên men thần linh. Không phải hay sao, kể từ giai đoạn AD là "năm của Chúa", tức kể từ thời điểm Chúa Kitô giáng sinh, thời điểm "sự sống đă tỏ hiện cho chúng ta" (1Jn.1:2), thời điểm "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một ḿnh để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Jn.3:16), văn hóa nhân bản, như một mầm thai tới thời khắc được hồn thiêng hóa để bắt đầu sống động như một con người thế nào, thực sự cũng đă được Phúc Âm hóa để trổ sinh "sự sống viên măn hơn" (Jn.10:10) cho loài người như thế.

 

Nh́n vào thế giới hiện nay, sau gần 2000 AD, tức sau gần 2000 năm Chúa Kitô giáng sinh, chúng ta nhận thấy ǵ đặc biệt, nếu không phải là tinh thần yêu thương phục vụ do Kitô giáo khởi xướng, bắt đầu từ Âu Châu, một đại lục có thể nói là đại lục Kitô giáo, đă được nẩy nở khắp nơi trên thế giới, về cả lănh vực văn hóa cũng như xă hội.

 

Về lănh vực văn học là lănh vực đầu năo chi phối các lănh vực khác, phải kể đến các đại học là môi trường giáo dục cao cấp do Kitô giáo khởi xướng từ thời trung cổ. Như Đại Học Bologna ở Ư có từ năm 1100, Đại Học Oxford ở Anh Quốc cũng bắt đầu h́nh thành từ năm 1100, Đại Học Ba Lê năm 1200, Đại Học Toulouse do Đức Thánh Cha Gregoriô X thiết lập năm 1229, Đại Học Napoli do hoàng đế Frederic thiết lập năm 1224, Đại Học Salamanca do vua Ferđinand xứ Castilla sáng lập năm 1243, các đại học ở Đức và Bắc Âu măi tới thế kỷ 14 mới có, như Đại Học Praga năm 1348, Đại Học Vienna năm 1365, Đại Học Heidelberg năm 1386, Đại Học Cologne năm 1388 v.v. Tại Hoa Kỳ, đại học đầu tiên là Đại Học Harvard ở Cambridge tiểu bang Massachusetts được thành lập từ năm 1636, trước hết, là để dạy chủng sinh theo học thần học, sau đó mới trở thành một đại học đời như bây giờ. Đối với việc giáo dục học đường, cách riêng ở Việt Nam, nổi tiếng nhất phải kể đến trường của các Sư Huynh Lasan, như trường trung học Tabert Sài G̣n, một học đường thu hút được không biết bao nhiêu là con cái của những bậc vị vọng ngoại giáo. Ngày nay, chính các cán bộ cộng sản theo chủ thuyết chống Công Giáo lại chỉ yên tâm khi mang con cái của ḿnh đến học ở các trường có các bà sơ dạy mà thôi.

 

Về lănh vực xă hội, một lănh vực tim gan, (so với lănh vực văn học là lănh vực đầu năo), Kitô giáo cũng đă là khai sáng viên trong các việc phục vụ con người về mọi phương diện, như việc mở các nhà thương để chữa trị thương đau xác thân của con người, lập các viện mồ côi để chăm nuôi dưỡng dục trẻ em không cha không mẹ, mở các trại cùi để săn sóc thành phần bị người đời ghê sợ tránh lánh v.v.

 

Theo lịch sử Giáo Hội, việc bác ái xă hội bắt đầu triển nở từ cuối thể kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17. Khởi sự với Ḍng Thánh Gioan Thiên Chúa ở Bồ Đào Nha mở các bệnh viện nên ḍng này c̣n được gọi là Ḍng Bệnh Viện. Tiếp đến là  Văn Pḥng Bác Ái Công Giáo do vua Henri IV lập năm 1606 để kiểm sốt các tổ chức bác ái xă hội và xây cất nhiều bệnh viện mới. Nổi tiếng nhất là Ḍng Nữ Tử Bác Ái Thánh Phaolô lập năm 1633 để chuyên chăm sóc người bệnh hoạn, tật nguyền, già nua cũng như các trẻ em mồ côi. Thế nhưng, công cuộc bác ái xă hội phát triển nhanh nhất (từ năm 1950) và rộng nhất (tới 126 quốc gia, kể cả nước cộng sản) phải kể đến việc phục vụ "người nghèo nhất trong các người nghèo" của Ḍng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta lập, một hiện thân đúc ái Kitô giáo thời đại đă được cả thế giới tiếc thương khi mẹ qua đi ngày 5-9-1997. Ngoài ra, việc bác ái xă hội Công Giáo c̣n ôm ấp chính thành phần người cùi nữa, mà hai vị tông đồ người cùi c̣n lưu danh là cha Đa-miêng và đức cha Cát-Sanh.

 

Phải, nhờ tinh thần hy sinh phục vụ của con cái Giáo Hội, thành phần truyền giáo nơi các xứ dân ngoại, cũng như thành phần làm việc tông đồ ngay trong ḷng xă hội, được thực hiện bởi thành phần giáo sĩ và tu sĩ sống đời tận hiến, theo lệnh truyền của Chúa Kitô phục sinh: "Các con hăy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:15), mà đức tin nhỏ như hạt cải, nhỏ đến nỗi không thể nh́n thấy bằng con mắt tự nhiên, đă mọc lên xum xuê thành một Giáo Hội hoàn vũ vĩ đại, đến nỗi, các linh hồn như chim trời đến làm tổ nương thân nơi các cành của nó (x.Mt.13:31-32) là các chi thể thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô được hiện thân qua các Giáo Hội chuyên biệt địa phương, các ḍng tu, các vị đại thánh thời đại v.v.

 

Tuy nhiên, v́ Phúc Âm Kitô giáo dạy những điều hoàn toàn đi ngược lại với đường lối và chủ trương tự nhiên của thế gian, do đó, Phúc Âm mang thân phận giống như một hạt lúa miến cần phải bị mục nát đi để có thể sinh muôn vàn hoa trái (x.Jn.12:24). Thực tế đă cho thấy hạt lúa miến Phúc Âm đă bị mục nát đi nơi những cuộc bắt bớ, tiêu diệt ngay từ đầu, tại chính nơi phát xuất ra Kitô giáo là Thành Thánh Gia-Liêm. Để rồi, từ đó, về thời gian cũng như không gian, máu của vị tử đạo tiên khởi là Thánh Stêphanô đă liên tục chảy đến tất cả mọi xứ truyền giáo, nhất là đến vùng đất Á Đông, từ thế kỷ 16 đến 19, như Đại Hàn, với 103 vị tử đạo được Đức Gioan Phaolô II phong thánh năm 1984, và Việt Nam, với 117 vị tử đạo cũng được cùng vị Giáo Hoàng phong thánh năm 1989, thậm chí cho tới thế kỷ 20, đặc biệt vào bán thập niên 1990 của cuối thế kỷ 20 này, một thời điểm loài người văn minh tột bậc mà máu tử đạo vẫn c̣n loang chảy tại Phi Châu.

 

Tuy nhiên, v́ Phúc Âm là hạt giống thần linh, "một hạt giống không hư nát" (1Pt.1:23), nên Phúc Âm không thể bị quyền lực thế gian tiêu diệt, trái lại, hơn lúc nào hết, Phúc Âm nhờ đó càng sáng tỏ trên thế gian. Thực tế đă cho thấy, trong tất cả mọi tôn giáo chỉ có Kitô giáo là tôn giáo dễ bị bắt bớ nhất, bị bắt bớ nhiều nhất, bị bắt bớ lâu nhất, bị bắt bớ ở mọi đời và khắp mọi nơi. Đến nỗi, có thể nói, Chúa Kitô không tử nạn không thực là Chúa Kitô thế nào, th́ Kitô giáo không bị bắt bớ không là Kitô giáo như vậy.

 

Thế mà, càng bị thế gian bắt bớ, Kitô giáo chẳng những không bị tiêu diệt, trái lại, như có đà, Kitô giáo càng phát triển hơn nữa, phát triển đến "tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:15), "đến tận cùng thời gian" (Mt.28:20), một tầm mức phát triển đúng như ư nguyện của Đấng Sáng Lập Kitô giáo khi Người sai các môn đệ của ḿnh đi "như chiên giữa sói rừng" (Mt.10:16), một phát triển "vĩ đại nhất"  (Mt.13:32) và kiên vững nhất (x.Mt.7:24-25), một phát triển vượt trội hơn hết mọi thứ cây tôn giáo, thể chế và ư hệ, một phát triển không lấn át trần gian song thu hút trần gian cho đến khi đạt được sứ mệnh của ḿnh là làm cho trần gian dậy men Phúc Âm thần linh.

 

Hiện nay, trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba, kể từ thập niên 1960, Phúc Âm không phải chỉ bị một thể chế, một quyền lực hay một địa phương nào đàn áp nữa, mà là đang bị cả một trào lưu văn hóa trần tục ở khắp nơi, nhất là văn hóa Âu Mỹ, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng Kitô giáo và mang tinh thần Kitô giáo, chống đối, áp đảo và muốn hoàn toàn triệt hạ, bằng những luật pháp cho phép phá hủy đi những giá trị luân lư phổ quát làm nên nhân phẩm con người, (như luật cho phép mang thai mướn và cấy thai trong ống nghiệm), làm nên yếu tính hôn nhân, (như luật cho phép hôn nhân đồng phái tính), và làm nên cơ cấu gia đ́nh, (như luật cho phép ly dị và phá thai).

 

Tuy nhiên, hiện tượng băng hoại nơi các nền văn hóa nói chung, nhất là nơi nền văn hóa Âu Mỹ, một nền văn hóa thăng hoa bởi Phúc Âm Kitô giáo qua bao thế kỷ và cũng là một nền văn hóa ảnh hưởng khắp thế giới cho đến nay nhờ các cuộc truyền giáo, không phải là v́ Phúc Âm Kitô giáo đă đến lúc hoàn toàn bị lỗi thời, nhất là vào thời của khoa học và kỹ thuật, thời của tự do và nhân quyền. Bởi v́, như thực tế cho thấy, hiện tượng duy nhân bản trong tân thời đại khoa học thực nghiệm này chẳng những không làm con người thăng tiến về mặt tâm linh là yếu tố làm nên con người đích thực, mà càng văn minh con người lại càng cảm thấy bất nhất (về thể chế xă hội theo chủ thuyết cộng sản  ngược lại với chủ nghĩa tư bản), bất an (về mối lo sợ thế chiến thứ ba xẩy ra sẽ tiêu diệt cả loài người bằng chính những sản phẩm khoa học do con người tạo ra là bom nguyên tử và khinh khí), bất ḥa (với những cuộc Thế Chiến I và II, cùng các cuộc chiến dằng dai ở khắp nơi dọc suốt thế kỷ 20 này, như các cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Chiến Tranh Đại Hàn, Chiến Tranh Trung Đông, chiến tranh ở Phi Châu, chiến tranh ở Âu Châu), và bất hạnh (với những đứa trẻ mồ côi bất đắc dĩ v́ cha mẹ ly dị nhau, những thai nhi vô tội bị giết chết ngay trong bụng mẹ, những thanh thiếu niên nam lập băng đảng phạm pháp, những thanh thiếu nữ chửa hoang, những người tàn tật và bị bệnh vô phương cứu chữa trở thành gánh nặng cho xă hội cần phải thanh tốn món nợ của ḿnh, những người đồng tính luyến ái bị triệu chứng Aids là triệu chứng hoại kháng tố v.v.).

 

Như thế, nếu trong giai đoạn lịch sử của nền văn hóa chịu ảnh hưởng Kitô giáo đang c̣n được Phúc Âm hóa xưa kia không hề xẩy ra những hiện tượng băng hoại càng ngày càng lở loét như một căn bệnh ung thư bất trị khắp nơi như được đề cập trên đây, cho đến thời khoa học và kỹ thuật, thời tự do và duy nhân bản mới có, th́ không phải hay sao, đó là bằng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất nói lên rằng, khoa học và kỹ thuật, tự do và duy nhân bản không phải là chúa tể hay là cứu chúa của con người, hơn là một con ḅ vàng ngẫu tượng mà con người sùng bái thôi.

 

Nếu con người hạ bệ Phúc Âm, loại trừ Phúc Âm ngàn đời ra khỏi văn hóa của ḿnh, làm cho văn hóa nhạt mất chất mặn của muối Phúc Âm (x.Mt.5:13), con người đă, đang và sẽ như "cá không ăn muối cá ươn" thế nào th́ hiện tượng con người văn minh băng hoại ngày nay đúng là một cuộc trắc nghiệm chứng thực là chỉ được Phúc Âm hố văn hóa của con người mới thực sự là văn hóa sự sống mà thôi.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL