Bài
Giáo Lư số 10
CHÚA GIÊSU KITÔ, CON THIÊN CHÚA NHẬP THỂ
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Dựa vào quan sát của ḿnh, con người có thể lư
luận một cách chắc chắn là có Thiên Chúa Hiện
Hữu. Cũng theo lư luận tự nhiên, con người c̣n
có thể đi sâu hơn nữa vào thực tại Thiên Chúa
Hiện Hữu này, bằng việc lập luận rằng, đă là
Thiên Chúa th́ phải là Đấng Tối Cao, nghĩa là
Ngài chẳng những là Đấng Tối Cao về quyền năng,
nên Ngài cũng được tôn kính là Đấng Toàn Năng,
Ngài c̣n là Đấng Tối Cao về bản tính, nên Ngài
mới đáng được gọi là Đấng Toàn Thiện nữa, bằng
không Ngài cũng tầm thường như loài người vậy
thôi, hay không hơn ǵ tạo vật của ḿnh, nghĩa
là Ngài không phải là Thiên Chúa.
Thế nhưng, lư luận hạn hẹp của con người tạo vật
đă hoàn toàn dừng lại ở ngay chỗ này, đúng hơn
đă bị tắc nghẹn ở ngay khi lư trí của họ nhận
biết Thiên Chúa là Đấng Tối Cao Toàn Năng và
Toàn Thiện, hoàn toàn không thể nhúc nhích và
tiến xa hơn nữa. Thậm chí t́nh cảm của họ v́ thế
c̣n đi ngược chiều. Ở chỗ, sau khi lập luận thấy
rằng Thiên Chúa là Đấng Tối Cao Toàn Năng và
Toàn Thiện như thế, con người lại càng cảm thấy
có một khoảng cách không thể vượt qua giữa Thiên
Chúa và một loài tạo vật bất lực, bất toàn và
bất xứng như họ. Do đó, họ đă tự động quay đầu
trở lại đi giật lùi, làm cho ḿnh càng xa cách
Đấng Tối Cao, điển h́nh là trường hợp của Simon
Phêrô, người đă cảm thấy ḿnh vô cùng bất xứng
không muốn ở gần Đấng ông gọi là “Chúa” (Lk
5:8),
sau khi được chứng kiến phép lạ Ngài làm để tỏ
ḿnh Ngài ra cho các tay chuyên nghiệp đánh cá
như ông, sau cả một đêm vất vả mà chẳng được ǵ,
đă bắt được một mẻ cá đầy (x.
Lk 5:5-7).
Cảm thức kinh sợ của Simon Phêrô trước Đấng Tối
Cao ấy cũng là cảm thức tôn giáo chung của con
người trước các Vị Thần Linh vô cùng vĩ đại.
Thế mà, theo Mạc Khải Thần Linh
của Kitô giáo, Đấng Tối Cao là Vị Thiên Chúa của
Giao Ước với dân Do Thái ấy đă tự động đến với
loài người và đă thực sự ở với loài người nơi
Con Người Đức Giêsu Kitô qua Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Thế nhưng:
Tại sao Thiên Chúa đă hóa thành nhục thể?
Mầu Nhiệm Nhập Thể được thực hiện như thế nào??
Đức Giêsu Kitô có thực sự là Lời Nhập Thể hay
chăng???
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1-
TẠI SAO THIÊN CHÚA ĐĂ HÓA THÀNH NHỤC THỂ?
Căn cứ vào Thánh Kinh và Thánh Truyền, Giáo
Lư của Giáo Hội Công Giáo cho biết có
4 lư do đă khiến cho Thiên Chúa hóa
thành nhục thể như sau:
1-
“Lời đă hóa thành nhục thể v́ chúng ta để
cứu độ chúng ta bằng việc ḥa giải chúng ta với
Thiên Chúa, Đấng ‘đă yêu thương chúng ta và
đă sai Con Ngài đến để đền bồi tội lỗi cho chúng
ta’: ‘Cha đă sai Con ḿnh đến như Đấng Cứu Thế’,
và ‘Người đă tỏ ḿnh ra để xóa bỏ tội lỗi’ (1Jn
4:10, 4:14, 3:5)”
(số 457)
2-
“Lời đă hóa thành nhục thể để nhờ đó chúng ta
có thể nhận biết được t́nh yêu của Thiên Chúa:
‘T́nh yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ giữa chúng
ta ở chỗ là Thiên Chúa đă sai Người Con duy nhất
của Ngài đến thế gian, để chúng ta nhờ Người mà
được sự sống’ (1Jn
4:9).
‘V́ Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến ban
Người Con duy nhất của ḿnh, để ai tin vào Con
th́ không phải chết song được sự sống trường
sinh’
(Jn
3:16)”
(số 458)
3-
“Lời đă hóa thành nhục thể để nêu gương thánh
thiện cho chúng ta: ‘Hăy mang lấy ách của
Tôi và hăy học cùng Tôi’. ‘Thày là đường, là sự
thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà
không qua Thày’
(Mt
11:29; Jn 14:6).
Trên núi Biến H́nh, Chúa Cha truyền phán:
‘Hăy lắng nghe lời Người!’ (Mk
9:7; x. Deut 6:4-5).
Chúa Giêsu là mẫu gương sống Các Mối Phúc Đức
và là đường lối của tân luật: ‘Các con hăy yêu
thương nhau như Thày đă yêu thương các con’
(Jn
15:12).
T́nh yêu này bao gồm việc con người thực sự
hiến bản thân ḿnh theo gương của Người (x.
Mk 8:34)”
(số 459)
4-
“Lời đă hóa thành nhục thể để làm cho chúng
ta được trở nên ‘những người được thông phần vào
bản tính thần linh’
(2Pt
1:4):
‘V́ đó là lư do tại sao Lời đă làm người, và
Con của Thiên Chúa đă trở thành Con của con
người: để con người được trở nên con của Thiên
Chúa, bằng việc hiệp thông với Lời nhờ đó được
làm con cái thần linh’ (Thánh
Irênêô, Adv. Haeres. 3, 19, 1: PG 7/1,
939).
‘V́ Con Thiên Chúa đă làm người để chúng ta
trở nên Thiên Chúa’ (Thánh
Anathasiô, De Inc., 54, 3: PG 25, 192B).
‘Người Con duy nhất của Thiên Chúa, v́ muốn
làm cho chúng ta trở nên những kẻ tham phần vào
thần tính của ḿnh, đă mặc lấy bản tính của
chúng ta, để Đấng làm người có thể làm cho con
người nên những vị thần linh’ (Thánh
Tôma Aquina, Opusc. 57:1-4)”
(số 460)
2-
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ ĐƯỢC THỰC HIỆN NHƯ THẾ NÀO??
Theo Mạc Khải Thần Linh,
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo
tin tưởng và tuyên xưng rằng Lời Nhập Thể đă
được thụ thai
bởi quyền phép Chúa Thánh Thần và đă
được hạ sinh
bởi Đức Trinh Nữ Maria.
Trước hết, Lời Nhập Thể được thụ thai bởi
quyền phép Chúa Thánh Thần:
·
“Sứ vụ của Chúa Thánh Thần bao giờ cũng liên
hiệp với sứ vụ của Chúa Con và hướng về sứ vụ
của Chúa Con (x.
Jn 16:14-15).
‘Là Chúa và là Đấng ban Sự Sống’, Chúa
Thánh Thần được sai đến để thánh hóa ḷng dạ của
Đức Trinh Nữ Maria và làm cho ḷng dạ của Vị
Trinh Nữ này đậu thai một cách thần linh, ở chỗ
làm cho Trinh Nữ thụ thai Người Con hằng hữu của
Chúa Cha bằng một nhân tính được lấy từ chính
nhân tính của Người” (số 485)
·
“Người Con duy nhất của Chúa Cha,
được thụ thai làm người trong ḷng dạ của Đức
Trinh Nữ Maria, là ‘Chúa Kitô’, tức là,
Người Con ấy đă được xức dầu bởi Chúa Thánh
Thần ngay từ khi bắt đầu cuộc sống trần gian của
ḿnh, mặc dù sự việc xức dầu này chỉ được
tuần tự diễn tiến, từ các mục đồng, tới các nhà
đạo sĩ, rồi đến Gioan Tẩy Giả và các môn đệ
(x.
Mt 1:20, 2:1-12; Lk 1:35, 2:8-20; Jn 1:31-34,
2:11).
Như thế, cả cuôïc sống của Chúa Giêsu Kitô là
một cuộc tỏ hiện việc ‘Thiên Chúa xức dầu cho
Đức Giêsu Nazarét bằng Thánh Thần và bằng quyền
năng’ (Acts
10:38)”
(số 486)
Sau nữa, Lời Nhập Thể đă được hạ sinh bởi
Đức Trinh Nữ Maria.
·
“’Thiên Chúa đă sai Con Ngài đến’, thế
nhưng, để sửa soạn cho Người một thân xác
(Gal
4:4; Heb 10:5),
Ngài đă muốn có sự cộng tác tự do của tạo
vật. Bởi thế, từ đời đời, Thiên Chúa
đă chọn cho Con của Ngài một người mẹ là một nữ
tử trong dân Yến Duyên, một người nữ Do Thái trẻ
trung ở thôn Nazarét xứ Galilêa, một trinh nữ đă
đính hôn với một người tên là Giuse thuộc chi
tộc Đavít; tên của vị trinh nữ này là Maria”
(số 488)
·
“Để trở nên mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria
‘đă được Thiên Chúa trang bị cho bằng những tặng
ân xứng hợp với một vai tṛ như vậy’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 56).
Vào lúc truyền tin thiên thần Gabiên đă chào Mẹ
là ‘đầy ơn phúc’ (Lk
1:28).
Thật vậy, để Đức Maria có thể lấy đức tin của
ḿnh tỏ ra tự do đồng ư với lời loan báo về ơn
gọi của ḿnh, Mẹ cần phải hoàn toàn được sinh
lại bởi ân sủng của Thiên Chúa” (số 490)
·
“Qua các thế kỷ, Giáo Hội càng nhận biết được
rằng Đức Maria, ‘đầy ơn phúc’ bởi Thiên Chúa
(Lk
1:28),
đă được cứu chuộc ngay từ giây phút đầu
thai của ḿnh. Đó là những ǵ tín
điều Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội tuyên xưng,
như được Đức Piô IX công bố năm 1854 (Ineffabilis
Deus,
1854: DS 2803)”
(số 491)
·
“’Ánh quang của sự thánh thiện hoàn toàn
chuyên biệt ấy’ làm cho Đức Maria ’nên phong phú
ngay từ giây phút được khởi sự đầu thai’ hoàn
toàn từ Chúa Kitô mà có, tức là Mẹ được ‘cứu
chuộc một cách cao cả hơn nhờ công nghiệp của
Con ḿnh’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 53 và 56).
Chúa Cha đă chúc phúc cho Đức Maria ‘trong
Chúa Kitô với mọi phúc lành thiêng liêng trên
trời’ hơn bất cứ một con người thụ tạo nào, và
đă chọn Mẹ ‘trong Chúa Kitô trước khi tạo thành
thế gian để nên thánh thiện và vô t́ tích bằng
t́nh yêu thương trước thiên nhan Ngài’ (x.
Eph 1:3-4)”
(số 492)
·
“Được gọi là ‘mẹ của Chúa Giêsu’ ở trong các
Phúc Âm, Đức Maria cũng đă được bà Isave theo
tác động của Thần Linh, ngay cả trước khi Mẹ
sinh con, đă xưng tụng Mẹ là ‘mẹ của Chúa tôi’
(Lk
1:43; Jn 2:1, 19:25; x. Mt 13:55; et al).
Thật vậy, bởi Chúa Thánh Thần, Đấng Mẹ đă
thụ thai như là một con người, Đấng đă thực sự
trở nên Người Con của Mẹ theo xác thịt, không ai
khác hơn là chính Người Con hằng hữu của Chúa
Cha, ngôi hai trong Ba Ngôi Chí Thánh. Bởi
thế Giáo Hội mới tuyên xưng rằng Đức Maria thực
sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ (Theotokos) (Công
Đồng Êphêsô năm 431: DS 251)”
(số 495).
·
“Từ những mẫu đức tin đầu tiên, Giáo Hội đă
tuyên xưng Chúa Giêsu chỉ được thụ thai bởi
quyền phép Chúa Thánh Thần trong ḷng dạ của Đức
Trinh Nữ Maria mà thôi, ở chỗ, Giáo Hội xác nhận
cả về phương diện thể chất của biến cố này, đó
là việc Chúa Giêsu được thụ thai ‘bởi Chúa
Thánh Thần không cần phải có mầm mống loài
người’ (Công
Đồng Chung Latêranô năm 649: DS 503; x. DS 10-64).
Các Vị Giáo Phụ đă thấy nơi việc đầu thai
trinh nguyên này dấu chứng tỏ Con Thiên Chúa
thực sự đă đến trong một nhân tính như chúng ta”
(số 496)
·
“Việc đào sâu niềm tin vào vai tṛ của một
người mẹ khiết trinh đă dẫn Giáo Hội tới việc
tuyên xưng Đức Maria thực sự và trọn đời đồng
trinh, thậm chí ở cả tác động Mẹ hạ sinh Con
Thiên Chúa làm người nữa
(xem
DS 291, 294, 427, 442, 503, 571, 1880).
Thật vậy, việc Chúa Kitô được sinh ra ‘đă
không làm suy giảm đức trinh nguyên của mẹ ḿnh,
trái lại, c̣n thánh hóa cả đức ấy nữa’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 57).
Bởi thế phụng vụ Giáo Hội mới mừng kính Đức
Maria như là một Aeiparthenos, một ‘Nữ Trinh
Nguyên’ (xem
Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 52).
(số 499)
·
“Con mắt đức tin có thể khám phá thấy trong
mối tương quan của toàn thể Mạc Khải những lư do
mầu nhiệm tại sao Thiên Chúa, theo dự án cứu độ
của ḿnh, đă muốn Con của Ngài được hạ sinh bởi
một trinh nữ. Những lư do này chạm đến cả bản
thân của Chúa Kitô cùng với sứ vụ cứu chuộc của
Người, lẫn việc Đức Maria thay thế cho cả loài
người tỏ ra đón nhận sứ vụ cứu chuộc ấy” (số
502, xem cả các số 503-507)
3-
ĐỨC GIÊSU KITÔ CÓ THỰC SỰ LÀ LỜI NHẬP THỂ HAY
CHĂNG???
Theo Mạc Khải và Huấn Quyền của Giáo Hội,
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo đă tuyên xưng
và công bố Đức Giêsu Kitô thực sự là Lời Nhập
Thể, với những xác quyết về thần học, căn cứ vào
những tuyên tín của các Công Đồng Chung tiên
khởi chống lại các lạc giáo (xem
các số 465-468, 471),
liên quan đến vấn đề bản tính của Người, vấn đề
về ngôi vị hay ngôi hiệp nơi Người, và vấn đề về
việc Người sinh động như một con người.
·
“Toàn thể biến cố Nhập Thể độc nhất vô nhị
của Con Thiên Chúa không có nghĩa là Đức Giêsu
Kitô một phần là Thiên Chúa và một phần là loài
người, cũng không có ám chỉ Người là sản phẩm
của việc trộn lẫn giữa những ǵ thần linh và
loài người. Người đă thực sự trở nên con người
mà vẫn thực sự là Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là
Thiên Chúa thật và là người thật”
(số 464, xem cả số 469).
·
“… Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ
thể nào khác ngoài ngôi vị thần linh Con Thiên
Chúa, Đấng đă mặc lấy nhân tính ấy và biến nhân
tính ấy thành nhân tính của ḿnh…”
(số 466)
Những xác quyết của Giáo Hội về thần học liên
quan đến vấn đề bản tính của Lời Nhập Thể là Đức
Giêsu Kitô.
·
“Thuyết Nhất Tính (Monophysites)
chủ trương rằng nhân tính nơi Đức Kitô biến mất
khi ngôi vị thần linh của Con Thiên Chúa mặc lấy
nó. Để đương đầu với lạc thuyết này, công đồng
chung thứ bốn họp tại Chalcêđôn năm 451 đă tuyên
tín rằng:… ‘Đức Kitô duy nhất, là Chúa và là
Người Con duy nhất, phải được nhận biết có hai
bản tính, không lẫn lộn, không chuyển vị, không
chia rẽ hay không phân ly. Việc phân biệt giữa
hai bản tính không bao giờ bị mối hiệp nhất của
hai bản tính này hủy hoại đi, trái lại, đặc điểm
xứng hợp với mỗi một bản tính vẫn c̣n nguyên khi
cả hai làm nên một ngôi vị (prosopon)
và một ngôi hiệp (hypostasis)
duy nhất’
(DS
301; x Heb 4:15)”
(số 467)
Những xác quyết của Giáo Hội về thần học liên
quan đến vấn đề ngôi vị hay ngôi hiệp nơi Lời
Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô.
·
“Sau Công Đồng Chalcêđôn, có một số đă cho rằng
nhân tính của Đức Kitô là một loại chủ thể cá
biệt. Để chống lại các chủ trương này, công đồng
chung thứ năm họp tại Contantinôpôli năm 553 đă
tuyên tín rằng: ‘chỉ có một ngôi hiệp (hay
ngôi vị) đó là Chúa Giêsu Kitô, một trong Ba
Ngôi’
(DS
424).
Như thế, mọi sự nơi nhân tính của Chúa
Kitô, chẳng những các phép lạ Người làm mà cả
đến những khổ đau, thậm chí sự chết của Người
nữa, đều phải được qui về ngôi vị thần linh của
Người là chủ thể xứng hợp của nhân tính ấy:
‘Đấng chịu đóng đanh nơi xác thịt, Chúa Giêsu
Kitô của chúng ta, là Thiên Chúa thật, là Chúa
hiển vinh, và là một trong Ba Ngôi Chí Thánh’ (Công
Đồng Chung Contantinôpôli năm 553: DS 432; xem
DS 424; Công Đồng Chung Êphêsô: DS 255)”
(số 468, xem cả câu thứ hai trong số 470)
Những xác quyết của Giáo Hội về thần học liên
quan đến việc Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô
sinh động như một con người.
·
“V́ ‘nhân tính được mặc lấy chứ không bị
mất đi’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 22.2),
nên đối với việc hiệp nhất nhiệm mầu nơi biến
cố Nhập Thể, trải qua các thế kỷ Giáo Hội đă
tiến đến việc tuyên xưng tất cả thực tại về linh
hồn nhân loại của Đức Kitô, cùng với các
hoạt động của linh hồn ấy qua trí khôn và ḷng
muốn, cũng như qua thân xác con người của Người…
Mọi sự Đức Kitô là và làm nơi bản tính này đều
phát xuất từ ‘một trong Ba Ngôi’. Bởi vậy,
Con Thiên Chúa truyền đạt cho nhân tính của ḿnh
cách thức hiện hữu của riêng ḿnh nơi Ba Ngôi.
Như thế, nơi linh hồn cũng như thân xác của ḿnh,
Đức Kitô đă bộc lộ các đường lối thần linh của
Ba Ngôi theo cách thế loài người
(x. Jn 14:9-10):
‘Con Thiên Chúa… đă làm việc với đôi tay con
người; Người đă suy nghĩ bằng trí khôn con người.
Người đă hoạt động bằng ư muốn của con người, và
Người đă yêu thương bằng trái tim của con người.
Được Trinh Nữ Maria hạ sinh, Người thực sự trở
nên một người trong chúng ta, giống như chúng ta
trong tất cả mọi sự ngoại trừ tội lỗi’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 22.2)”
(số 470)
·
“Linh hồn nhân loại của Con Thiên Chúa
cũng có một kiến thức nhân loại thực sự.
V́ là kiến thức nhân loại, nên
kiến thức ấy tự ḿnh không thể nào là một
kiến thức vô hạn được, tức là kiến
thức ấy được thể hiện theo các điều kiện lịch sử
của cuộc sống của Người trong không gian và thời
gian. Đó là lư do tại sao khi làm người Con
Thiên Chúa có thể ‘lớn lên trong khôn ngoan và
tầm vóc, cũng như trong ơn nghĩa với Thiên Chúa
và loài người’ (Lk
2:52),
thậm chí Người c̣n phải tự ḿnh t́m hiểu những
ǵ con người có thể học biết bằng kinh nghiệm
của ḿnh trong điều kiện của con người (x.
Mk 6:38, 8:27; Jn 11:34 v.v.)…”
(số 472)
·
“Thế nhưng, chính kiến thức thực sự nhân
loại của Con Thiên Chúa ấy cũng thể hiện sự sống
thần linh nơi bản thân của Người
nữa (xem
Thánh Grêgôriô Cả, “Sicut aqua” ad Eulogium,
Epist. Lib, 10, 39: PL 77, 1097Aff.; DS 475).
‘Bản tính loài người của Con Thiên Chúa,
không phải bởi tự ḿnh mà là bởi được nên một
với Lời, đă biết được và tỏ cho thấy nơi ḿnh
hết mọi sự liên quan đến Thiên Chúa’ (Thánh
Maximô Giải Tội, Qu. et dub. 66: PG 90,
840A).
Trường hợp điển h́nh trước nhất là Con
Thiên Chúa làm người có một kiến thức sâu xa và
trực tiếp về Cha của Người (x.
Mk 14:36; Mt 11:27; Jn 1:18, 8:55 v.v.).
Bằng kiến thức loài người của ḿnh, Con
Thiên Chúa làm người cũng cho thấy Người cũng
thấu suốt một cách thần linh các tư tưởng kín
nhiệm của ḷng trí con người (x.
Mk 2:8; Jn 2:25, 6:61 v.v.)”
(số 473)
·
“Hiệp nhất với thượng trí khôn ngoan thần
linh nơi ngôi vị của Lời nhập thể, kiến thức
nhân loại của Đức Kitô cũng hoàn toàn hiểu được
các dự án đời đời mà Người được sai đến để mạc
khải ra cho loài người biết (x.
Mk 8:31, 9:31, 10:33-34, 14:18-20, 26-30).
Những ǵ Người công nhận ḿnh không biết
về phương diện dự án đời đời ấy là Người ngụ ư
nói Người không được sai đến để mạc khải điều
đó (x.
Mk 13:32; Acts 1:7)”
(số 474)
·
“Cũng thế, ở công đồng chung thứ sáu, công
đồng Contantinôpôli III năm 681, Giáo Hội đă
tuyên xưng rằng Đức Kitô có hai ư muốn và hai
hoạt động theo bản tính, một thần linh và một
nhân loại. Hai ư muốn và hai hoạt động ấy
không phản lại nhau, mà lại hợp tác với nhau, ở
chỗ, Lời hóa thành nhục thể muốn tỏ ra vâng phục
Cha Người theo cách thế nhân loại tất cả những
ǵ Người đă quyết định theo đường lối thần linh
cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho phần
rỗi của chúng ta (x.
Công Đồng Contantinôpôli III năm 681: DS 556-559).
Ư muốn nhân loại của Đức Kitô ‘không cưỡng
lại hay chống lại mà là thuận phục ư muốn
thần linh và toàn năng của Người’ (x.
Công Đồng Contantinôpôli III năm 681: DS 556)”
(số 475)
·
“V́ Lời đă hóa thành nhục thể khi mặc lấy
nhân tính thực sự, nên thân thể của Đức Kitô là
một thân thể có giới hạn (x.
Công Đồng Chung Latêranô năm 648: DS 504)”
(số 476, xem cả câu thứ hai của số 476 cùng các
số 477 và 478 về việc hợp lư tỏ ra tôn sùng
thánh nhan, h́nh ảnh và Thánh Tâm Chúa Kitô)
TÓM LẠI:
Căn cứ vào Thánh Kinh và Thánh Truyền, Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo cho biết có 4 lư do đă
khiến cho Thiên Chúa hóa thành nhục thể, thứ
nhất là
“để cứu độ chúng ta bằng việc ḥa giải chúng ta
với Thiên Chúa”
(SGL
số 457);
thứ hai là
“để
nhờ đó chúng ta có thể nhận biết được t́nh yêu
của Thiên Chúa”
(SGL số 458);
thứ ba là “để nêu gương thánh thiện cho chúng ta”
(SGL số 459),
và thứ bốn là
“để
làm cho chúng ta được trở nên những người được
thông phần vào bản tính thần linh”
(SGL số 460).
Theo Mạc Khải Thần Linh, Giáo Lư của Giáo Hội
Công Giáo tin tưởng và tuyên xưng rằng Lời Nhập
Thể đă được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh
Thần
(SGL số
485-486)
và đă được hạ sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria
(SGL số 488, 490, 491-492, 495-496, 499, 502).
Theo Mạc Khải và Huấn Quyền của Giáo Hội, Giáo
Lư của Giáo Hội Công Giáo đă tuyên xưng và công
bố Đức Giêsu Kitô thực sự là Lời Nhập Thể, với
những xác quyết về thần học liên quan đến vấn đề
bản tính của Người
(SGL số
467),
vấn đề về ngôi vị hay ngôi hiệp nơi Người
(SGL số
468),
và vấn đề về việc Người sinh động như một con
người
(SGL số
470, 472-476).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1-
“Việc truyền đạt đức tin Kitô giáo chính là
việc loan truyền Chúa Giêsu Kitô để làm cho
những người khác tin tưởng nơi Người” (số
425). Bởi thế, “dạy giáo lư là ‘tỏ ra cho
thấy nơi Con Người của Đức Kitô toàn thể dự án
đời đời của Thiên Chúa nên trọn trong Con Người
ấy. Nó là việc t́m hiểu ư nghĩa các việc làm,
lời nói và dấu chỉ do Người thực hiện’ (Tông
Huấn Catechesi Tradendae, đoạn 5)”
(số 426), và cũng bởi thế, “hết mọi giáo lư
viên phải làm sao áp dụng vào ḿnh những lời mầu
nhiệm của Chúa Giêsu: ‘Giáo huấn của Tôi không
phải của Tôi mà là của Đấng đă sai Tôi’ (Tông
Huấn Catechesi Tradendae, đoạn 6; x. Jn 7:16)”
(số 427)
2-
“Giêsu theo tiếng Do Thái nghĩa là ‘Thiên
Chúa cứu độ’. Lúc truyền tin, thiên thần Gabiên
đă đặt tên cho Người là Giêsu như là một danh
xưng xứng hợp với Người, một danh xưng nói lên
cho thấy cả căn tính lẫn sứ vụ của Người” (số
430). “... Chỉ có một ḿnh danh xưng thần
linh ấy mới mang lại phần rỗi, bởi thế, tất cả
mọi người đều có thể kêu cầu danh Người, v́ Chúa
Giêsu đă kết hợp bản thân ḿnh với tất cả mọi
người qua việc Nhập Thể của Người (x.
Jn 3:18; Acts 2:21, 5:41; 3Jn 7; Rm 10:6-13),
để ‘không có một tên nào khác dưới gầm trời
này được ban cho loài người nhờ đó chúng ta được
cứu độ’ (Acts
4:12, x. 9:14; Jas 2:7)”
(số 432)
3-
“Chữ ‘Kitô’ dịch sang tiếng Hy Lạp từ chữ
Messiah của tiếng Do Thái, nghĩa là ‘Đấng được
xức dầu’. Danh hiệu này trở nên một xưng gọi
xứng hợp với Chúa Giêsu, chỉ v́ Người đă trọn
vẹn hoàn tất sứ vụ thần linh của ḿnh như chữ
‘Kitô’ nói lên... Chúa Giêsu đă làm cho niềm hy
vọng của dân Yến Duyên được nên trọn nơi vai tṛ
tam diện của ḿnh là tư tế, tiên tri và vương đế”
(số 436). Bởi thế, “có nhiều người Do
Thái, thậm chí có cả một số Dân Ngoại cũng thông
công với niềm hy vọng của họ, đều đă nhận biết
nơi Chúa Giêsu những phẩm tính căn bản của ‘Con
Vua Đavít’ thiên sai như Thiên Chúa đă hứa cho
dân Yến Duyên” (số 439).
4-
“Bằng việc qui về cho Đức Giêsu danh hiệu
thần linh ‘Chúa’, những bản tuyên xưng đức tin
của Giáo Hội tiên khởi muốn xác nhận rằng, ngay
từ đầu, quyền năng, danh dự và vinh quang xứng
hợp với Thiên Chúa là Cha cũng xứng hợp với cả
Chúa Giêsu nữa, v́ ‘Người là thân phận Thiên
Chúa’ (x.
Acts 2:34-36; Rm 9:5; Titus 2:13; Rev 5:13; Phil
2:6),
và Chúa Cha đă biểu lộ quyền thống trị của
Chúa Giêsu ra, bằng việc phục sinh Người từ
trong kẻ chết và cho Người dự phần vào vinh
quang của ḿnh (x.
Rm 10:9; 1Cor 12:3; Phil 2:9-11)”
(số 449). “Từ đầu lịch sử Kitô giáo, việc
công nhận chủ quyền của Đức Kitô trên thế giới
cũng như trên lịch sử đă bao gồm cả việc thừa
nhận là con người không được lấy tự do cá nhân
của ḿnh để tuyệt đối suy phục bất cứ một quyền
lực thế tục nào, ngoài một ḿnh Thiên Chúa là
Cha và Chúa Giêsu Kitô mà thôi, bởi Cêsa không
phải là ‘Chúa’ (x.
Rev 11:15; Mk 12:17; Acts 5:29).
‘Giáo Hội... tin rằng ch́a khóa, tâm điểm và
mục đích của toàn thể lịch sử con người cần phải
được t́m thấy nơi Chúa và nơi Chủ của lịch sử
con người’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 10.3, x. 45.2)”
(số 450)
5-
“Tin tưởng Con Thiên Chúa thực sự Nhập Thể là
một dấu hiệu nổi bật của đức tin Kitô giáo: ‘Anh
em biết được Thần Linh của Thiên Chúa là ở chỗ
mọi thần trí bởi Thiên Chúa mà ra đều tuyên xưng
rằng Đức Giêsu Kitô đă đến trong xác thịt’ (1Jn
4:2).
Giáo Hội đă hân hoan xác tín như thế ngay từ ban
đầu, khi Giáo Hội hát lên ‘mầu nhiệm của đạo
giáo chúng ta’, đó là ‘Người đă tỏ ḿnh ra trong
xác thịt’ (1Tim
3:16)”.
(số 463)