|
|
Bài
Giáo Lư số 17
CƠ CẤU GIÁO HỘI
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
ịch sử cho thấy, có những lúc xă hội loài người,
ở một nơi nào đó và ở một thời điểm nào đó đă
hoàn toàn bị chi phối bởi các đạo giáo, nhất là
đạo ấy lại là quốc giáo của cả một dân tộc, như
tại Ấn Độ, Trung Hoa và Do Thái v.v. Ấn Giáo
có tất cả 5 giai cấp (castes) xă hội, mỗi giai
cấp đóng một vai tṛ và giữ một địa vị đặc biệt
của ḿnh. Theo thứ tự giá trị từ cao xuống thấp
th́ thứ nhất là giai cấp tư tế (Brahmin), thứ
hai là giai cấp là binh sĩ (Kshatriya), thứ ba
là giai cấp thương gia (Vaishya), thứ bốn là
giai cấp công nghệ (Shudra) và thứ năm là giai
cấp cùng đinh (Dalit). Khổng Giáo, một
tôn giáo thiên về tổ chức xă hội “tề gia trị
quốc b́nh thiên hạ”, hơn là chỉ chuyên chú sống
nội tâm chủ trương “vô vi” siêu thoát như Lăo
Giáo, th́ theo các Nho Gia, như Nguyễn Công Trứ,
cũng chia xă hội làm 4 giai cấp là Sĩ, Nông,
Công, Thương, trong đó Sĩ đứng đầu, như trong
câu phú bài Kẻ Sĩ của ông đă cho thấy rơ chủ
trương này: “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, dân hữu
tứ sĩ vi chi tiên”. Do Thái Giáo cũng có
một cơ cấu tổ chức lănh đạo tối cao, từ thế kỷ
thứ ba hay thứ bốn BC cho tới khi Gialiêm thành
sụp đổ vào năm 70 AD, được gọi là Hội Đồng Do
Thái, một hội đồng có 71 thành viên, gồm 3 thành
phần là kỳ lăo, thượng tế và luật sĩ. Ngoài ra,
Do Thái Giáo c̣n có hẳn một chi tộc chuyên lo về
việc phụng tự đó là chi tộc Lêvi là chi tộc đứng
thứ ba trong 12 chi tộc Yến Duyên. Chưa hết, căn
cứ vào việc giữ lề luật, dân gian c̣n tự động
chia ḿnh ra làm hai thành phần đặc biệt nữa, đó
là thành phần lành thánh công chính (điển h́nh
là phái Pharisiêu v.v) và thành phần tội nhân
bất chính (tiêu biểu là đám người thu thuế và
gái điếm v.v). Kitô Giáo nói chung và
Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng chia phần tử
của ḿnh ra làm hai thành phần chính yếu, đó là
giáo sĩ và giáo dân, tức thành phần mục tử (hay
mục sư) lănh đạo và thành phần chiên cần phải
được chăn dắt.
Trong Giáo Hội Công Giáo Rôma, thành phần
giáo sĩ, tức thành phần có chức thánh, bao gồm
ba phẩm cấp là phó tế, linh mục và giám mục. Thế
nhưng, phẩm trật cao nhất trong Giáo Hội Công
Giáo Rôma là hàng giáo phẩm, một phẩm trật bao
gồm tất cả mọi vị giám mục, trong đó vị giám mục
Rôma là chính, đóng vai tṛ giáo hoàng. Ngoài ra,
c̣n một thành phần không thuộc về phẩm trật lănh
đạo song cũng không sống đời sống trần gian
thuần túy như thành phần giáo dân, đó là những
người sống đời tận hiến tu tŕ.
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1.
HÀNG GIÁO PHẨM
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo, hàng giáo phẩm có liên quan
trực tiếp đến thừa tác vụ nhân danh Chúa Kitô để
phục vụ Dân Chúa, đứng đầu là Giáo Hoàng cùng
với toàn thể hàng Giáo Phẩm, trong việc chăn dắt
toàn thể Giáo Hội bằng vai tṛ giảng dạy, thánh
hóa và quản trị.
Hàng giáo phẩm có liên quan trực
tiếp đến thừa tác vụ nhân danh Chúa Kitô để phục
vụ Dân Chúa:
·
“... Không một ai, cá nhân cũng như đoàn thể,
có thể loan báo Phúc Âm cho chính ḿnh: ‘Đức tin
do nghe mà có’ (Rm
10:17).
Không một ai tự trao cho ḿnh lệnh truyền và sứ
vụ loan báo Phúc Âm. Người được Chúa Kitô sai đi
không nói và làm theo quyền bính của ḿnh, mà là
bởi quyền bính Chúa Kitô; không phải như một
phần tử của cộng đồng để nói với cộng đồng song
nhân danh Chúa Kitô mà nói. Không ai có thể tự
ban ơn cho ḿnh, song phải được ban phát và hiến
tặng. Sự kiện này cho thấy cần phải có những
thừa tác viên ân sủng là thành phần Chúa Kitô
ban thẩm quyền và năng quyền cho. Họ nhận
lănh từ Người sứ vụ và khả năng (‘quyền linh’)
để tác hành với tư cách Chúa Kitô là Đầu in
persona Christi Capitis. Thừa tác vụ mà
các vị thừa hành của Chúa Kitô thực hiện và ban
phát bởi ơn Chúa, những ǵ họ không thể nào tự
ḿnh có khả năng thực hiện và ban phát, th́ theo
truyền thống của Giáo Hội, được gọi là ‘bí tích’.
Thật vậy, sứ vụ của Giáo Hội lănh nhận được
ban cho bởi một bí tích đặc biệt”. (số
875)
·
“Bản chất có tính cách bí tích nơi sứ vụ
của Giáo Hội tự ḿnh gắn liền với đặc tính phục
vụ... V́ lời và ơn mà các vị là thừa
tác viên không phải là của các vị mà là do các
vị được Chúa Kitô ban cho v́ những người khác,
bởi thế các vị phải tự nguyện trở thành tôi tớ
cho mọi người”. (số 876)
·
“Cũng thế, bản chất có tính cách bí tích
nơi thừa tác vụ của Giáo Hội c̣n có đoàn tính
nữa. Thật vậy, ngay từ đầu sứ vụ của ḿnh,
Chúa Giêsu đă thiết lập 12 Vị như ‘những hạt
giống của một tân Yến Duyên và là khởi đầu cho
hàng phẩm trật linh thánh’ (Sắc
Lệnh Ad Gentes, 5)…...
V́ lư do này, mọi vị giám mục thi hành thừa
tác vụ của ḿnh từ bên trong hàng giáo phẩm hiệp
thông với giám mục Rôma, vị thừa kế Thánh Phêrô
cũng là vị thủ lănh hàng giáo phẩm. Các vị linh
mục cũng thi hành thừa tác vụ của ḿnh từ bên
trong hàng tư tế của giáo phận dưới quyền điều
hành của vị giám mục ḿnh”. (số 877)
·
“Sau hết, bản chất có tính cách bí
tích nơi thừa tác vụ của Giáo Hội c̣n có cá tính
nữa. Mặc dù các vị thừa tác viên của
Chúa Kitô có tác hành hiệp thông với nhau, các
vị lúc nào cũng c̣n có thể tác hành theo cách
thức riêng của ḿnh nữa. Mỗi người đều được Chúa
kêu gọi một cách riêng tư: ‘Phần con, hăy theo
Thày’ (Jn
21:22; Mt 4:19.21; Jn 1:4),
để lấy bản thân ḿnh làm chứng cho sứ vụ chung,
để chịu trách nhiệm của ḿnh trước Đấng trao ban
sứ vụ ấy, khi tác hành ‘với tư cách của Người’
cho kẻ khác: ‘Tôi rửa con nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần...’; ‘Tôi tha tội cho con...’”.
(số 878)
Giáo Hoàng cùng với toàn thể hàng
Giáo Phẩm chăn dắt toàn thể Giáo Hội:
·
“Chúa Kitô làm cho một ḿnh Simon,
vị được Người đặt tên là Phêrô, là ‘tảng đá’
của Giáo Hội Người. Người ban cho thánh nhân
ch́a khóa Giáo Hội của Người và đặt thánh nhân
làm vị mục tử chăn dắt tất cả đàn chiên (x
Mt 16:18-19; Jn 21:15-17).
‘Vai tṛ cầm buộc và tháo cởi Người đă ủy
thác cho Thánh Phêrô th́ Người cũng trao cho cả
tông đồ đoàn hiệp nhất với đầu của các vị’
(Hiến
Chế Lumen Gentium, 22.2)...”.
(số 881)
·
“Giáo Hoàng, Vị Giám Mục Rôma
và là Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, ‘là nguồn mạch
và là nền tảng tồn tại hữu h́nh cho mối hiệp
nhất của cả giám mục lẫn cộng đồng tín hữu’
(cùng
hiến chế vừa dẫn, 23).
‘Bởi vai tṛ là Đại Diện của Chúa Kitô, làm
mục tử chăn dắt toàn thể Giáo Hội, Giáo Hoàng
Rôma có toàn quyền, thượng quyền và phổ quyền
trên toàn thể Giáo Hội, một quyền bính ngài được
tùy ư hành sử’ (cùng
hiến chế, 22; xem Sắc Lệnh Christus Dominus,
2, 9)”.
(số 882)
·
“Giám mục đoàn hay cơ chế các vị giám mục
không có thẩm quyền ǵ nếu không hiệp nhất với
Giáo Hoàng Rôma, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, là đầu
của ḿnh...” (số 883). “Giám mục đoàn
thi hành quyền bính của ḿnh trên Giáo Hội hoàn
vũ một cách trọng thể qua một công đồng chung”
(số 884). “Mỗi vị giám mục là
nguồn mạch và là nền tảng hữu h́nh cho mối hiệp
nhất nơi Giáo Hội riêng biệt của ḿnh... Thế
nhưng, là một phần tử của hàng giáo phẩm, mỗi vị
giám mục c̣n phải chia sẻ mối quan tâm đối với
tất cả mọi Giáo Hội nữa (x
sắc lệnh vừa dẫn, 3)”
(số 886).
Vai tṛ giảng dạy, thánh hóa và
quản trị của Hàng Giáo Phẩm:
·
“Để bảo toàn Giáo Hội trong một đức tin tinh
tuyền do các tông đồ truyền lại, Chúa Kitô, Đấng
là Sự Thật, đă muốn cho Giáo Hội được thông phần
vào vô ngộ tính của Người...” (số 889). “Giáo
Hoàng Rôma, thủ lănh của giám mục đoàn, được
hưởng ơn vô ngộ v́ vai tṛ của ḿnh, khi ngài
lấy tư cách là vị mục tử tối cao và là thày dạy
tất cả mọi tín hữu, bằng một hành động dứt khoát
để tuyên bố một tín lư liên quan
đến đức tin và luân lư... Ơn vô ngộ được
Chúa Kitô hứa ban cho Giáo Hội cũng hiện diện
nơi cả giám mục đoàn nữa, khi các vị, cùng với
vị thừa kế Thánh Phêrô, thi hành Huấn Quyền tối
thượng’ nhất là bằng một Công Đồng Chung
(cùng
hiến chế, 25; xem Công Đồng Chung Vaticanô I: DS
3074).
Khi Giáo Hội lấy Huấn Quyền tối thượng của
ḿnh nêu lên một tín lư ‘phải tin như được thần
linh mạc khải’ (Hiến
Chế Dei Verbum, 10.2)
và như giáo huấn của Chúa Kitô, th́ những
xác định đó ‘phải được nắm giữ bằng một đức tin
tuân phục’ (cùng
hiến chế, 25.2).
Ơn vô ngộ này bao gồm ngay cả kho tàng Mạc
Khải thần linh (xem
cùng hiến chế, 25)
(số 891).
·
“... Thánh Thể là tâm điểm cho đời sống của
một Giáo Hội riêng biệt. Giám mục và các linh
mục thánh hóa Giáo Hội bằng việc nguyện cầu và
hoạt động của ḿnh, bằng thừa tác vụ rao giảng
lời Chúa và ban phát các bí tích. Các vị
thánh hóa Giáo Hội bằng gương mẫu của ḿnh,
‘không phải bằng việc thống trị những người
thuộc quyền ḿnh mà là bằng việc nêu gương cho
đàn chiên’ (1Pt
5:3).
Như thế, ‘cùng với đàn chiên được trao phó
cho ḿnh, các vị cũng đạt đến sự sống vĩnh cửu’
(cùng
hiến chế, 26.3)”.
(số 893)
·
“’Các vị giám mục, với tư cách
là đại diện và là khâm mạng của Chúa Kitô,
quản trị các Giáo Hội riêng biệt được ủy
thác cho các vị, bằng các lời khuyên bảo, các
huấn dụ và gương mẫu của các vị, nhất là bằng
quyền bính và bằng quyền linh là những quyền các
vị thực sự phải thi hành để xây dựng trong tinh
thần phục vụ là tinh thần của Thày ḿnh
(cùng
hiến chế, 27; x Lk 22:26-27)”.
(số 894)
2. BẬC GIÁO DÂN
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo, ơn gọi của giáo dân là sống trong ḷng
đời để biến đổi những sự trần thế, bằng việc
sống vai tṛ tư tế, ngôn xứ và vương giả của
ḿnh.
Ơn gọi của giáo dân là sống trong
ḷng đời để biến đổi những sự trần thế:
·
“Chữ ‘giáo dân’ đây
được hiểu là tất cả thành phần tín hữu không
phải là những người có Chức Thánh và những người
thuộc về đời sống tu tŕ được Giáo Hội chuẩn
nhận...” (số 897). “V́ ơn gọi đặc biệt
của ḿnh, giáo dân t́m kiếm vương quốc của Thiên
Chúa bằng cách dấn thân vào những việc trần
thế và hướng chúng theo chiều ư muốn của Thiên
Chúa... ” (số 898). “... ‘Tín hữu
giáo dân ở ngay tuyến đầu của đời sống Giáo Hội;
với họ, Giáo Hội là yếu tố linh hoạt của xă
hội loài người. Bởi thế họ đặc biệt phải ư
thức rơ hơn bao giờ hết là họ chẳng những
thuộc về Giáo Hội mà c̣n là Giáo Hội nữa,
tức là một cộng đồng tín hữu trên thế gian này
dưới quyền lănh đạo của Đức Giáo Hoàng là Đầu
chung cũng như của các vị giám mục hiệp thông
với ngài. Họ là Giáo Hội’ (Đức
Piô XII, Bài Diễn Từ ngày 20/2/1946: AAS 38 năm
1946; Đức Gioan Phaolô II trích lại trong
Tông Huấn Christifideles Laici, 9)”
(số 899).
Vai tṛ tư tế, ngôn xứ và vương
giả của người giáo dân:
·
“V́ được thực sự thánh hiến
cho Chúa Kitô và được xức dầu bởi Thánh Linh,
giáo dân được kêu gọi và sửa soạn một cách lạ
lùng để nơi họ phát sinh ra những hoa trái của
Thần Linh dồi dào hơn. Nếu được thực hiện
trong Thần Linh th́ tất cả mọi hành động, mọi
việc nguyện cầu và mọi trọng trách tông đồ, gia
đ́nh và đời sống hôn nhân, công việc thường nhật,
việc tâm trí và thân xác nghỉ ngơi – ngay cả
những khó nhọc của đời sống nếu được chịu đựng
một cách nhẫn nại – tất cả đều trở nên những hy
sinh đáng Thiên Chúa chấp nhận qua Chúa Giêsu
Kitô. Những hy sinh này xứng đáng
dâng lên Chúa Cha nhất là trong khi cử hành
Thánh Thể cùng với Ḿnh Chúa Kitô...’
(Hiến Chế Lumen Gentium, 34; x cả đoạn
10; 1Pt 2:5)”.
(số 901)
·
“Giáo dân cũng làm trọn vai
tṛ ngôn xứ của ḿnh bằng việc truyền bá phúc âm
hóa, ‘tức là loan báo Chúa Kitô
bằng lời nói và chứng từ cuộc sống’. Đối với
giáo dân th́ ‘việc truyền bá phúc âm hóa này...
có một tính chất đặc biệt và có tác hiệu đặc thù,
v́ nó được thực hiện trong những hoàn cảnh
thường t́nh trên đời’ (cùng
hiến chế, 35.1,2)”.
(số 905)
·
“Giáo dân phải hợp lực để
làm cho các thể chế và t́nh trạng của thế giới,
khi chúng hướng chiều về tội lỗi, trở nên
lành mạnh hơn, hợp với các qui tắc công b́nh,
thuận lợi hơn là ngăn trở đối với việc luyện tập
các nhân đức. Hành động như thế, giáo dân sẽ
làm cho văn hóa và các công tŕnh của loài người
thấm nhuần các giá trị luân lư (cùng
hiến chế, 36.3)”.
(số 909)
3. ĐỜI TẬN HIẾN
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo
cũng cho thấy cả bản chất của đời sống tận hiến
tu tŕ, và tiến tŕnh phát triển của các lối
sống tu tŕ theo lịch sử của Giáo Hội:
Bản chất của đời sống tận hiến tu tŕ:
·
“... Đức ái trọn hảo mà tất cả
mọi tín hữu được gọi để đạt tới, đ̣i buộc những
người tự nguyện theo ơn gọi sống đời tận hiến
(consecrated life) phải thực hành đức thanh
tịnh độc thân v́ Nước Trời, đức thanh bần và đức
tuân phục. Chính lời khấn sống các lời
khuyên Phúc Âm này, trong một lối sống vĩnh
viễn như Giáo Hội công nhận, làm nên đặc tính
của đời sống tận hiến cho Thiên Chúa (x
Hiến Chế Lumen Gentium, 42-; Sắc Lệnh
Perfectae Caritatis, 1)”.
(số 915)
·
“Như thế lối sống tu tŕ (religious state)
là một đường lối diễn đạt ‘sâu xa hơn’ việc
thánh hiến được bắt nguồn từ Phép Rửa cũng
là việc thánh hiến toàn thân cho Thiên Chúa.
Trong đời sống tận hiến, người tín hữu của Chúa
Kitô, được Thánh Linh tác động, cố gắng theo
sát Chúa Kitô hơn, hiến ḿnh cho Thiên
Chúa là Đấng phải được mến yêu trên hết mọi sự
và, khi theo đuổi đức ái trọn hảo trong việc
phụng sự Nước Trời, họ c̣n cho thấy và loan
báo trong Giáo Hội vinh quang của một thế giới
sẽ đến sau này (x
Giáo Luật khoản 573)”
(số 916).
Tiến tŕnh phát triển của các lối sống tu tŕ
theo lịch sử của Giáo Hội:
·
“Không luôn luôn công khai tuyên khấn ba lời
khuyên Phúc Âm, các ẩn sĩ (hermit) ‘hiến
đời ḿnh cho việc chúc tụng Thiên Chúa cũng như
cho phần rỗi thế gian, bằng cách tách ḿnh ra
khỏi thế gian một cách sát nghĩa hơn, âm thầm
sống trong cô quạnh, cùng thiết tha nguyện cầu
và xám hối’ (Giáo
Luật khoản 603.1)”.
(số 920)
·
“Người trinh nữ (virgin), khi
dấn thân cho ước vọng thánh thiện để theo sát
Chúa Kitô hơn, đă hiến ḿnh cho Thiên Chúa
qua vị giám mục giáo phận theo lễ nghi phụng vụ
được chuẩn nhận, đă được mầu nhiệm kết hôn
với Chúa Kitô, và đă hiến thân phụng sự
Giáo Hội’ (Giáo
Luật khoản 604.1)”.
(số 923)
·
“Đời sống tu tŕ (religious
life) phát xuất từ bên Đông Phương trong những
thế kỷ đầu tiên của Kitô Giáo. Sống trong những
viện tu được Giáo Hội thiết lập theo giáo luật,
đời sống tu tŕ nổi hơn các h́nh thức tận hiến
khác ở đặc tính phụng vụ của ḿnh, ở việc
công khai tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm,
ở cuộc sống chung huynh đệ, và ở chứng
từ cho mối hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội
(x
Giáo Luật khoản 607; 573; Sắc Lệnh Unitatis
Redintegratio, 15)”.
(số 925)
·
“Một hội ḍng đời (secular institute) là
một hội ḍng sống đời tận hiến ở chỗ người Kitô
hữu sống trong thế gian nỗ lực đạt đến mức
trọn hảo của đức ái và hoạt động để thánh hóa
thế gian đặc biệt từ bên trong’
(Giáo
Luật khoản 710)”.
(số 928)
·
“Cùng với những h́nh thức khác nhau của đời tận
hiến là ‘các hội tông đồ (society of
apostolic life) với những phần tử không khấn
hứa tu tŕ song theo đuổi một mục đích tông đồ
đặc biệt của tổ chức ḿnh, và sống chung
như anh em hay chị em với nhau, nỗ lực đạt
đến mức độ trọn hảo của đức ái bằng việc giữ
hiến pháp của hội. Trong số những hội này
cũng có những hội có phần tử nắm giữ các lời
khuyên Phúc Âm’
(x
Giáo Luật khoản 731.1 và 2)
theo hiến pháp của họ”. (số 930)
TÓM LẠI:
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo, hàng giáo
phẩm có liên quan trực tiếp đến thừa tác vụ nhân
danh Chúa Kitô để phục vụ Dân Chúa
(SGL số 875-878), đứng đầu là Giáo Hoàng cùng
với toàn thể hàng Giáo Phẩm (SGL số 881-884,
886), trong việc chăn dắt toàn thể Giáo Hội
bằng vai tṛ giảng dạy, thánh hóa và quản trị
(SGL số 889, 891, 893-894). Theo Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo, ơn gọi của giáo dân là
sống trong ḷng đời để biến đổi những sự trần
thế (SGL số 897-899), bằng việc sống vai
tṛ tư tế, ngôn xứ và vương giả của ḿnh (SGL
số 901, 905, 909). Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo cũng cho thấy cả bản chất của đời sống tận
hiến tu tŕ (SGL số 915-916) và tiến
tŕnh phát triển của các lối sống tu tŕ theo
lịch sử của Giáo Hội (SGL số 920, 923, 925,
928, 930).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
iáo sử cho thấy, đă có thời Giáo
Hội phải theo chiều hướng giáo sĩ và cũng có
thời Giáo Hội lại nhấn mạnh đến chiều hướng giáo
dân. Giáo Hội đă theo chiều hướng giáo sĩ nổi
bật nhất từ thời Công Đồng Chung Triđentinô
(1545-1563), v́ Công Đồng này muốn lấy lại thẩm
quyền và thế giá của chung Giáo Quyền cũng như
của riêng hàng giáo sĩ trước những tấn công mănh
liệt của các trào lưu thệ phản ở thế kỷ 16 thời
bấy giờ. Chiều hướng này đă đạt đến tuyệt đỉnh
của ḿnh tại Công Đồng Chung Vaticanô I
(1869-1870), một Công Đồng đă tuyên bố Tín
Điều Giáo Hoàng Vô Ngộ.
Tuy
nhiên, một khi đă nắm vững được thế đứng của
ḿnh, nhất là thấy được vai tṛ của ḿnh cần
phải dấn thân hơn nữa vào một thế giới càng ngày
càng văn minh tân tiến song lại xa ĺa đức tin
và phá sản văn hóa hơn bao giờ hết, do đó, qua
Công Đồng Chung Vaticanô II
(11/10/1962-8/12/1965), một Công Đồng về Giáo
Hội và Mục Vụ, được tiêu biểu qua Hiến Chế
Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến Gaudium et Spes,
Giáo Hội đă hết sức chú trọng đến vai tṛ của
giáo dân, một vai tṛ mà nếu thiếu đi, Giáo Hội
chân nhận là Giáo Hội sẽ không thể nào đi sâu
vào ḷng đời để có thể làm cho cả đấu bột thế
gian dậy hết lên Men Phúc Âm, đến nỗi Công Đồng
đă dành hẳn một trong 16 văn kiện cho vấn đề hết
sức khẩn thiết và hợp thời này, đó là Sắc
Lệnh Tông Đồ Giáo Dân Apostolicum Actuositatem.
Dấu
chứng cho thấy rơ chiều hướng giáo dân hiện nay
của Giáo Hội này là việc canh tân phụng vụ, được
tỏ ra qua ba việc làm sau đây: thứ nhất là việc
làm lễ quay xuống giáo dân, thứ hai là việc cử
hành phụng vụ bằng tiếng bản xứ để cho giáo dân
hiểu hơn, và thứ ba là việc chính giáo dân được
tham dự vào các tác động phụng vụ thánh, với vai
tṛ làm thừa tác viên Lời Chúa hay thừa tác viên
Thánh Thể, nhất là vai tṛ Thày Sáu Vĩnh Viễn
v.v. Tuy nhiên, không phải v́ thế, v́ phong trào
giáo dân đang được coi trọng, nhất là trong thời
đoạn khan hiếm ơn gọi linh mục hiện nay, mà nữ
giới đ̣i phải làm linh mục, nam giới có gia đ́nh
cũng cần phải làm linh mục, hay ngược lại linh
mục cũng cần phải được lập gia đ́nh mới tránh
khỏi t́nh trạng khan hiếm v.v.
Vẫn
biết, về cơ cấu, Giáo Hội bao giờ cũng có hai
thành phần, giáo sĩ và giáo dân. Tuy nhiên, về
sinh hoạt, Giáo Hội lại được Thần Linh Chúa tác
động theo cả hệ phẩm trật lẫn hệ đoàn
sủng. Hệ phẩm trật là để điều khiển và hệ
đoàn sủng là để phát triển. Nếu trước khi được
làm tông đồ (theo hệ phẩm trật), các môn đệ đầu
tiên của Chúa Kitô đă được Người kêu gọi (theo
hệ đoàn sủng) thế nào, th́ hệ đoàn sủng có trước
hệ phẩm trật. Tuy nhiên, không phải v́ giáo dân,
qua Mai-Đệ-Liên, đến mồ trước, nhận ra hiện
tượng phục sinh trước, nhất là được Đấng Phục
Sinh hiện ra cho thấy trước, mà có thể tự động
“đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo
vật” (Mk 16:15), trái lại, theo chính ư của Đấng
Phục Sinh, thành phần này phải “đến với anh em
Thày mà cho họ biết” (Jn 20:17), v́ chính các vị
tông đồ mới là thành phần trực tiếp lănh nhận
Lệnh Truyền Phục Sinh của Chúa Kitô: “Các con
hăy đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân tộc và
rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần. Các con hăy dạy họ tuân giữ hết mọi điều
Thày đă truyền cho các con. Và hăy biết rằng
Thày luôn ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt
28:19-20).
Thế
nên, để có thể sống trọn vai tṛ là môn đệ Chúa
Kitô của ḿnh, dù theo ơn gọi giáo dân hay giáo
sĩ, người tín hữu chúng ta cũng
cần phải sống Tinh Thần Hiệp Thông của Nhiệm
Thể Chúa Kitô, một Nhiệm Thể có cả đầu (tiêu
biểu cho hàng giáo phẩm) lẫn thân (tiêu biểu cho
bậc giáo dân), được liên kết và giao tiếp với
nhau bằng cả những sợi giây thần kinh truyền
lệnh đức tin phát ra từ đầu lẫn các mạch máu sự
sống đức ái phát ra từ thân được châu lưu lên
cho tới cả đầu, chứ không phải chỉ là một cái
thây mất đầu hay chỉ là một chiếc đầu lâu bị
chặt ĺa khỏi thân: thân phải hoạt động bởi
đầu và đầu cần hoạt động nhờ thân,
trong cùng một Thánh Thần là linh hồn của
Nhiệm Thể Chúa Kitô.
·
“Những sự rất khác nhau Chúa
Kitô muốn có nơi các phần thể thuộc thân ḿnh
của Người đều đóng góp vào mối hiệp nhất và sứ
vụ của thân ḿnh Người. V́ ‘trong Giáo Hội thừa
tác vụ th́ khác nhau song sứ vụ chỉ là một. Đối
với các vị tông đồ và các vị thừa kế của các
ngài, Chúa Kitô đă ủy thác cho vai tṛ giảng dạy,
thánh hóa và quản trị nhân danh Người và bằng
quyền bính của Người. Thế nhưng, giáo dân cũng
được thông phần vào vài tṛ tư tế, ngôn sứ và
vương giả của Chúa Kitô; bởi thế, trong Giáo Hội
cũng như trên thế giới, họ có phần vụ riêng của
ḿnh trong sứ vụ của toàn thể Dân Chúa’ (Sắc
Lệnh Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem,
2)’”. (số 873)
·
“Bởi được tái sinh trong Chúa
Kitô, tất cả mọi tín hữu Kitô giáo đều thực sự
b́nh đẳng với nhau trong phẩm vị và hoạt động là
những ǵ làm cho hết thẩy mọi người cộng tác với
nhau để xây dựng Thân Thể Chúa Kitô hợp với điều
kiện và chức phận của ḿnh”. (số 872)
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
|
|
|
|