Bài
Giáo Lư số 2
KHẢ NĂNG CỦA CON NGƯỜI TRONG VIỆC NHẬN BIẾT THIÊN
CHÚA
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Sống
trong không gian và thời gian, con người “linh ư vạn
vật”, vừa hữu h́nh lại hữu hạn, luôn hướng về và t́m
kiếm những ǵ vô h́nh và vô hạn. Điển h́nh nhất là
lúc con người gặp tai biến, sắp nguy hại đến tính
mạng, mà lại hoàn toàn bó tay bất lực sau khi đă tận
lực để vượt thoát. Chẳng hạn như thiên tai bất ngờ
xẩy ra ngoài sức đề pḥng và chống chọi của họ, con
người thường tin tưởng vào một quyền lực cứu vớt nào
đó, như cầu cùng thần mưa, thần gió, thần lửa v.v.
Kể cả khi tuyệt vọng, con người cũng vẫn tỏ ra tin
tưởng vào số mạng, nghĩa là nếu tới số th́ họ mới
chết, bằng không họ sẽ không hề hấn ǵ, nhất là một
khi đă ăn ngay ở lành, th́ họ tin tưởng rằng “ở hiền
gặp lành”, “cây ngay không sợ chết đứng” v.v.
Như thế,
con người vốn tin có một thế giới siêu h́nh, một
quyền lực thần linh, vượt trên thân phận bất toàn và
bất lực của ḿnh. Thế nhưng, phải chăng tất cả những
ǵ con người duy tín (fidelism) ngày xưa tin tưởng
đều hiện hữu và có thật, hay ngược lại, tất cả những
ǵ con người duy nghiệm (empiricism) hoặc duy lư
(rationalism) ngày nay phủ nhận đều không bao giờ
có? Vậy căn cứ vào đâu để biết được là ḿnh đúng??
Có một thực tại thần linh hay chăng, nếu có th́ phải
quan niệm thực tại ấy như thế nào??? Vậy Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo chủ trương như thế nào
đối với những vấn đề sau đây:
1.
Con người là loài hữu h́nh và hữu hạn có khả năng
nhận biết Thiên Chúa là Thần Linh và là Đấng vô h́nh
được chăng? Nếu có là v́ lư do ǵ và bởi những yếu
tố nào?
2.
Nếu con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa th́
họ nhận biết Thiên Chúa bằng cách nào?
3.
Thế nhưng, theo lư luận và tâm lư tự nhiên, phải là
ḿnh mới biết rơ được chính ḿnh thế nào, vậy nếu
con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa th́ phải
chăng họ cũng là chính Thiên Chúa? Mà nếu họ thực sự
không phải là và không thể nào là Thiên Chúa, th́
phải chăng thật ra họ không có khả năng nhận biết
Thiên Chúa, hay khả năng nhận biết Thiên Chúa của họ
có giới hạn?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1.
CON NGƯỜI LÀ LOÀI HỮU H̀NH VÀ HỮU HẠN CÓ KHẢ NĂNG
NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA LÀ THẦN LINH VÀ LÀ ĐẤNG VÔ H̀NH
ĐƯỢC CHĂNG?
Như đă xác định ở bài giáo lư số 1, Kitô Giáo là đạo
được mạc khải và do mạc khải mà có. Bởi thế, tất cả
những ǵ Kitô hữu tin tưởng và tuân giữ đều bởi
trời, nên không thể nào sai lầm, v́ không phải do
trí tưởng tượng hay óc chủ quan của con người vốn
mang tính chất lầm lẫn mà ra. Và một trong những lư
do để xác tín mạc khải không sai lầm đó là, Chúa
Kitô, tột đỉnh mạc khải và là tất cả mạc khải của
Thiên Chúa, là Đấng đă đến không phải để phá hủy lề
luật và lời các tiên tri, trái lại, Người làm cho
chúng nên trọn (x.Mt.5:17).
Tức là, mạc khải hay Lời Chúa tỏ cho con người biết
(về tín lư) và dạy con người sống (về luân lư),
nghĩa là về những thực tại và đường lối mà tự ḿnh
con người không thể nghĩ tới hay biết được, chẳng
những không phản khắc hay hủy hoại nhân bản, (như
phản với lư trí và phạm đến hoặc làm suy hạ phẩm giá
của con người), mà c̣n làm nhân bản được kiện toàn
và nên trọn hảo nữa.
Chẳng hạn, dựa vào quan sát và cảm nghiệm sống của
ḿnh, con người cũng có thể suy luận ra, (theo
phương pháp qui nạp – reduction method), việc Thiên
Chúa hiện hữu như sau: nếu mọi sự không thể nào tự
ḿnh mà có, th́ chắc chắn phải có một nguyên ủy của
tất cả mọi sự, tự ḿnh có và hằng có, đó là một Đấng
Tối Cao, là Thượng Đế, là Ông Trời, là Thiên Chúa;
và nếu đă là nguồn gốc của tất cả mọi sự, Đấng Tối
Cao, Thượng Đế, Ông Trời, Thiên Chúa này không thể
nào lại bất toàn và bất lực như những ǵ phải được
dựng nên mới có, trái lại, Ngài phải là một Đấng
Toàn Năng, làm được mọi sự, và là một Đấng Toàn
Thiện, hoàn toàn, tuyệt đối trọn hảo.
Căn cứ vào Mạc Khải trong Thánh Kinh của ḿnh,
Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo cũng công nhận con
người có khả năng nhận ra Thiên Chúa hiện hữu; và lư
do tại sao hay yếu tố làm cho con người có khả năng
nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, cũng như có thể chấp
nhận mạc khải của Ngài, đă được Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo đă xác nhận là nhờ trí khôn và ḷng
muốn của họ, v́ họ được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên
Chúa:
·
“’Giáo Hội, người mẹ thánh của chúng ta, tin tưởng
và dạy rằng Thiên Chúa, nguyên lư đệ nhất và là
cùng đích của tất cả mọi sự, có thể được nhận biết
một cách chắc chắn từ thế giới tạo sinh bằng ánh
sáng tự nhiên của lư trí con người’
(Công
Đồng Chung Vaticanô I, Dei Filius 2: DS 3004; Công
Đồng Chung Vaticanô II, Dei Verbum 6).
Không có khả năng này, con người không thể đón
nhận mạc khải của Thiên Chúa. Con người có khả
năng này là v́ họ được dựng nên ‘theo h́nh ảnh Thiên
Chúa’ (Gen.1:27)”.
(số 36)
·
“Khát vọng Thiên Chúa được viết ở trong ḷng trí con
người, v́ con người đă được dựng nên bởi Thiên Chúa
và cho Thiên Chúa; và Thiên Chúa lúc nào cũng lôi
kéo con người đến với ḿnh. Con người sẽ chỉ gặp
được chân lư và hạnh phúc mà họ không ngừng t́m kiếm
nơi một ḿnh Thiên Chúa mà thôi”.
(số 27).
2.
NẾU CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA TH̀
HỌ NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA BẰNG CÁCH NÀO?
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo, con
người có thể căn cứ vào thế giới bên ngoài là thiên
nhiên tạo vật, cũng như vào thế giới bên trong là
chính bản thân ḿnh, để có thể nhận ra Thiên Chúa
hiện hữu.
·
“Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và được kêu
gọi để nhận biết và yêu mến Ngài, con người đi
t́m kiếm Thiên Chúa khám phá ra được những đường lối
để nhận biết Ngài. Những đường lối này cũng được
gọi là những cách chứng minh về việc hiện hữu của
Thiên Chúa, không phải theo nghĩa chứng minh
trong các khoa học tự nhiên, mà là theo nghĩa ‘những
lư luận am hợp và có sức thuyết phục’ (biệt
chú của người biên soạn: chẳng hạn như định luật
nhân quả)
giúp chúng ta đạt đến niềm xác tín về sự thật.
Những ‘đường lối’ tiến đến với Thiên Chúa căn cứ vào
tạo vật như thế có một khởi điểm lưỡng diện từ cả
thế giới vật chất cũng như từ con người ta”.
(số 31)
·
“Thế giới cũng như con người đều chứng tỏ cho
thấy rằng tự ḿnh không phải là nguyên lư đệ nhất
hay cùng đích của chính ḿnh, mà chỉ tham dự vào
chính sự vô thủy vô chung là Sự Hữu thôi. Như
thế, bằng nhiều cách khác nhau, con người có thể
nhận ra được rằng chỉ có một thực tại là
nguyên lư đệ nhất và là cùng đích của tất cả mọi sự,
một thực tại mà mọi người gọi là ‘Thiên Chúa’
(St. Thomas Aquinas, S th I,2,3)”.
(số 34)
·
“Theo xu hướng t́m kiếm sự thật và sự mỹ, theo
cảm thức của ḿnh về sự thiện luân lư, theo niềm tự
do và tiếng lương tâm nơi bản thân ḿnh, cùng với
những nỗi khát mong về cơi đời đời và hạnh phúc,
con người thắc mắc hỏi ḿnh về việc hiện hữu của
Thiên Chúa. Trong tất cả các điều ấy, con người
thấy được nơi ḿnh dấu hiệu của một linh hồn thiêng
liêng. Là một ‘hạt giống trường sinh nơi bản thân
chúng ta, không thể giảm xuống thành một thứ vật
chất thuần túy’ (Gaudium
et Spes: 18.1; xem 14.2),
linh hồn chỉ được bắt nguồn từ một ḿnh
Thiên Chúa mà thôi” (số 33).
3.
TUY NHIÊN, THEO LƯ LUẬN VÀ TÂM LƯ TỰ NHIÊN, PHẢI LÀ
M̀NH MỚI BIẾT RƠ ĐƯỢC CHÍNH M̀NH THẾ NÀO, VẬY NẾU
CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA TH̀ PHẢI
CHĂNG HỌ CŨNG LÀ CHÍNH THIÊN CHÚA? MÀ NẾU HỌ THỰC SỰ
KHÔNG PHẢI LÀ VÀ KHÔNG THỂ NÀO LÀ THIÊN CHÚA, TH̀
PHẢI CHĂNG THẬT RA HỌ KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT
THIÊN CHÚA, HAY KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA CỦA HỌ
CÓ GIỚI HẠN?
Thật vậy, theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo,
dù con người có khả năng nhận ra Thiên Chúa hiện
hữu và có thể chấp nhận mạc khải của Ngài đi nữa,
kiến thức của con người về Thiên Chúa cũng chỉ là
một kiến thức tương đối và lệ thuộc vào thứ ngôn ngữ
hạn hẹp của loài người mà thôi:
·
“V́ kiến thức của chúng ta về Thiên Chúa hạn hẹp,
nên ngôn từ của chúng ta về Thiên Chúa cũng bị giới
hạn nữa. Chúng ta chỉ có thể xưng gọi Thiên Chúa
bằng cách căn cứ vào tạo vật, cũng như xưng gọi
Thiên Chúa hợp với những kiểu cách hiểu biết và
suy tưởng hạn hẹp của nhân loại”.
(số 40)
·
“Phải công nhận rằng, khi nói về Thiên Chúa như
thế, ngôn ngữ của chúng ta sử dụng các cách thức
diễn đạt loài người; tuy nó thực sự là diễn đạt về
Thiên Chúa song vẫn không thể diễn đạt được tính
chất vô cùng đơn thuần của Ngài. Cũng thế, chúng
ta phải nhớ rằng ‘không thể nào diễn đạt tương đồng
giữa Tạo Hóa và tạo vật mà không chứa đựng một bất
đồng c̣n hơn thế nữa’
(Công Đồng Chung Latêranô IV: DS 806);
và phải nhớ rằng ‘đối với Thiên Chúa, chúng ta
không thể thấu hiểu được cái Ngài là, mà chỉ hiểu
được cái Ngài không là, cũng như chỉ hiểu được
các hữu thể khác liên quan đến Ngài ra sao thôi’
(St. Thomas Aquinas, SCG I, 30)”.
(số 43)
Bởi thế, ở đây Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo chỉ
công nhận con người có khả năng nhận ra Thiên Chúa
có mà thôi, c̣n khả năng nhận ra Thiên Chúa
là, như Ngài biết ḿnh Ngài để có thể sống sự
sống của Ngài, th́ con người không thể nào có được,
ngoại trừ họ được chính Thiên Chúa vừa tỏ ḿnh ra
cho họ biết bản thân Ngài lại vừa ban ơn cho họ để
họ có thể chấp nhận mạc khải của Ngài:
·
“Các khả năng của con người khiến họ có thể nhận ra
việc hiện diện của một Thiên Chúa cá thể. Thế nhưng,
để con người có thể thực sự đi sâu vào mối thân
t́nh với Ngài, Thiên Chúa cần phải vừa mạc khải
chính ḿnh ra cho con người vừa ban cho họ ơn để họ
có thể đón nhận mạc khải này bằng đức tin. Tuy
nhiên, những minh chứng về việc Thiên Chúa hiện
hữu cũng dọn đường cho người ta tiến đến với đức
tin, và làm cho người ta thấy rằng đức tin không
tương phản với lư trí.
(số 35)
TÓM LẠI:
V́ được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa với một
hồn thiêng, con người có khả năng khao khát và nhận
biết Thiên Chúa hiện hữu
(xem SGL số 36), qua việc quan sát thế giới bên
ngoài cũng như nơi chính bản thân con người ḿnh
(xem SGL số 31, 33, 34). Tuy nhiên, muốn biết
được chính bản tính của Thiên Chúa, tức biết được
Ngài là ai và muốn ǵ, nghĩa là biết được mầu nhiệm
về Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Thần Linh, con người cần
phải được chính Ngài mạc khải ra cho và ban ơn cho
họ thấu hiểu được những ǵ Ngài mạc khải (xem
SGL số 35, 40, 43).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1.
“Khát vọng Thiên Chúa được viết ở trong ḷng trí con
người, v́ con người đă được dựng nên bởi Thiên Chúa
và cho Thiên Chúa; và Thiên Chúa lúc nào cũng lôi
kéo con người đến với ḿnh. Con người sẽ chỉ gặp
được chân lư và hạnh phúc mà họ không ngừng t́m kiếm
nơi một ḿnh Thiên Chúa mà thôi”
(Giáo
Lư số 27).
Bởi thế, cuộc sống trần gian của con người thực sự
là một cuộc trở về nguồn cho tới khi nhắm mắt ĺa
đời, nghĩa là cho tới khi, theo quan niệm tin tưởng
của Kitô Hữu, con người được hoàn toàn trở về cùng
Thiên Chúa là nguyên thủy và là cùng đích của ḿnh.
2.
“Theo xu hướng t́m kiếm sự thật và sự mỹ, theo
cảm thức của ḿnh về sự thiện luân lư, theo niềm tự
do và tiếng lương tâm nơi bản thân ḿnh, cùng với
những nỗi khát mong về cơi đời đời và hạnh phúc, con
người thắc mắc hỏi ḿnh về việc hiện hữu của Thiên
Chúa. Trong tất cả các điều ấy, con người thấy được
nơi ḿnh dấu hiệu của một linh hồn thiêng liêng. Là
một ‘hạt giống trường sinh nơi bản thân chúng ta,
không thể giảm xuống thành một thứ vật chất thuần
túy’ (Gaudium
et Spes: 18.1; xem 14.2),
linh hồn chỉ được bắt nguồn từ một ḿnh
Thiên Chúa mà thôi” (Giáo
Lư số 33).
Nếu linh hồn được bắt nguồn từ Thiên Chúa th́ nó tự
nhiên vốn hướng về Thiên Chúa, như kim địa bàn luôn
chỉ về phía bắc, và chính v́ thế, trước khi linh hồn
trở về cùng Chúa qua cái chết phần xác, việc con
người nhận biết Ngài qua thiên nhiên tạo vật, qua
biến cố cuộc đời v.v. là con người thực sự về nguồn
của ḿnh là Thiên Chúa vậy.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL