Bài
Giáo Lư số 6
VIỆC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG THIÊN CHÚA
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
ói đến tôn giáo là nói đến niềm
tin, tức là nói đến những thực tại thần linh và
siêu việt vượt trên tầm thức suy tưởng của con
người hữu h́nh và hữu hạn. Tuy nhiên, tự bản
chất, là một loài có tín ngưỡng, bởi thế, cho dù
hữu h́nh và hữu hạn, đúng hơn, cũng chính v́ hữu
h́nh và hữu hạn, con người mới hướng về tôn giáo,
mới t́m kiếm Siêu Việt Thể, mới vươn lên Tuyệt
Đối Thể. Nghĩa là con người tín ngưỡng bao giờ
cũng t́m kiếm Chân, Thiện, Mỹ, là tất cả những
ǵ sẽ làm thỏa măn con người và làm cho con
người nên kiện toàn hay hoàn hảo: Chân Lư làm
thỏa măn trí con người luôn t́m hiểu và suy luận,
Thiện Hảo làm thỏa măn ḷng con người luôn khát
khao và ước muốn, và Mỹ Diệu làm hoàn hảo việc
con người tác hành (khôn ngoan) về phương diện
luân lư, hay thực hiện (khéo léo) về phương diện
mỹ thuật, nghệ thuật hay kỹ thuật.
Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, không phải những ǵ con
người tín ngưỡng t́m kiếm họ đều sẽ đạt thành và
toại nguyện. Chính v́ những ǵ con người t́m
kiếm, thay v́ Chân Lư lại là giả tạo, thay v́
Thiện Hảo lại là xấu xa, thay v́ Mỹ Diệu lại là
tai hại, con người mới không ngừng cảm thấy bất
an, bất hạnh và bất măn. Phải chăng đối tượng
của những ǵ con người tín ngưỡng t́m kiếm chỉ
là ảo tưởng, hoàn toàn không có, hay đường lối
t́m kiếm của con người tín ngưỡng hoàn toàn
ngược chiều, hầu như lạc hướng, nên đă dẫn họ
tới những nơi bất định hay tới một địa chỉ ma?
Đức tin Kitô giáo nói chung và của Giáo Hội Công
Giáo nói riêng có gặp trường hợp này chăng?? Nếu
không, tại sao thế giới Kitô giáo, đặc biệt ở Âu
Châu là nơi đức tin Kitô giáo phát triển và từ
đó lan tràn khắp thế giới, và ở Mỹ Châu là địa
lục toàn ṭng Kitô giáo, lại đang dẫn đầu và phá
kỷ lục về văn hóa chết chóc, đến nỗi, đức tin
của họ hầu như đang bị phá sản hoàn toàn??? Vậy
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo dạy về Đức
Tin như thế nào?
1.
Được Thiên Chúa tỏ ḿnh và ban ḿnh cho để con
người có thể nhận biết và yêu mến Ngài và nhờ đó
họ được thừa hưởng sự sống vinh phúc của Ngài
(xem
SGL số 51, 52 và 1),
con người phải có thái độ nào, thái độ ấy được
gọi là ǵ và thái độ ấy nhắm đến đối tượng nào?
2.
Nếu “tác động đức tin tự bản chất
là một tác động tự do”
(SGL
số 160)
của con người đáp ứng mạc khải của
Thiên Chúa, th́ phải chăng con người tự ḿnh có
khả năng chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa và
thấu hiểu được mạc khải của Ngài?
3.
Nếu con người có thể và được
quyền t́m hiểu những ǵ Thiên Chúa mạc khải cho
ḿnh, để chẳng những tránh được mê tín dị đoan,
mà c̣n để sống đức tin một cách ư thức hơn, th́
phải chăng lư trí của con người mới là yếu tố
chính đưa con người đến gần Thiên Chúa, chứ
không phải đức tin cứu độ con người hay đức tin
công chính hóa con người?
4.
Nếu “đức tin là một tác động
riêng tư”
(SGL
số 166)
của mỗi người
đối với Mạc Khải Thần Linh, th́ tại sao trong
Phụng Vụ Thánh Lễ tín hữu Công Giáo lại cần phải
tuyên xưng chung và bằng “những bản tuyên xưng
đức tin”
(SGL số 187)
nói lên “những biểu hiệu đức tin”
(SGL số 187)
được gọi là “Kinh Tin Kính”
(SGL số 187)?
5.
Kinh Tin Kính được chia ra làm
mấy phần và bao gồm bao nhiêu “điều”
(SGL số 191)
phải tin, những “điều” này có
phải là chính đối tượng của đức tin hay không?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1-
ĐƯỢC THIÊN CHÚA TỎ M̀NH VÀ BAN M̀NH CHO ĐỂ CON
NGƯỜI CÓ THỂ NHẬN BIẾT VÀ YÊU MẾN NGÀI VÀ NHỜ ĐÓ
HỌ ĐƯỢC THỪA HƯỞNG SỰ SỐNG VINH PHÚC CỦA NGÀI
(xem
SGL số 51, 52 và 1),
CON NGƯỜI PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO, THÁI ĐỘ ẤY ĐƯỢC
GỌI LÀ G̀ VÀ THÁI ĐỘ ẤY NHẮM ĐẾN ĐỐI TƯỢNG NÀO?
Con người phải đáp ứng một cách hoàn toàn và
xứng với tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn mạc
khải cho ḿnh, bằng việc ưng thuận của cả trí
khôn lẫn ḷng muốn. Thái độ đáp ứng bằng việc
ưng thuận một cách hoàn toàn và xứng hợp với Mạc
Khải Thần Linh này nơi con người, được Thánh
Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma, gọi là
“việc tuân phục của đức tin” (cũng có thể dịch
là “việc đức tin tuân phục”), một đức tin tuân
phục vào một ḿnh Thiên Chúa duy nhất là Cha và
Con và Thánh Thần.
·
“Bằng đức tin, con người lấy trí khôn và ḷng
muốn của ḿnh hoàn toàn suy phục Thiên Chúa
(xem
Hiến Chế Mạc Khải, đoạn 5).
Với cả con người ḿnh, con người chấp nhận
Thiên Chúa là Đấng tỏ ḿnh ra. Thánh Kinh
gọi việc con người đáp ứng Thiên Chúa, tác giả
của mạc khải, này là ‘việc vâng phục của đức
tin’ (xem
Rm.1:5; 16:26)”.
(số 143)
·
“Đức tin là việc con người trước hết gắn bó
cá nhân ḿnh với Thiên Chúa. Đức tin đồng thời
cũng đi liền với việc tự do chấp nhận tất cả sự
thật Thiên Chúa đă mạc khải... Hoàn toàn phó
ḿnh cho Thiên Chúa và tuyệt đối tin tưởng những
ǵ Ngài phán là một việc chân thực và chính đáng”
(số 150); “Đối với Kitô hữu, tin tưởng vào
Thiên Chúa gắn liền với việc tin tưởng vào Đấng
Ngài sai... Chúng ta có thể tin Chúa
Giêsu Kitô, v́ Người chính là Thiên Chúa, Lời
nhập thể...” (số 151); “Người ta không
thể tin Chúa Giêsu Kitô mà lại không thông phần
với Thần Linh của Người. Chính Thánh Linh đă tỏ
cho con người biết Chúa Giêsu là ai...
Chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới biết ḿnh hoàn toàn:
chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần v́ Ngài là
Thiên Chúa” (số 152).
2-
NẾU “TÁC ĐỘNG ĐỨC TIN TỰ BẢN CHẤT
LÀ MỘT TÁC ĐỘNG TỰ DO”
(SGL
số 160)
CỦA CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA,
TH̀ PHẢI CHĂNG CON NGƯỜI TỰ M̀NH CÓ KHẢ NĂNG
CHẤP NHẬN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA VÀ THẤU HIỂU
ĐƯỢC MẠC KHẢI CỦA NGÀI?
Tuy công nhận “tác động đức
tin tự bản chất là một tác động tự do” (SGL
số 160)
của con người đáp ứng mạc khải của Thiên
Chúa, Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo cũng minh định chính “đức tin là một
tặng ân của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên
được Ngài phú bẩm cho” (SGL
số 153, xem cả số 35)
con người như Thánh Kinh cho thấy (x.Mt.16:17;
Gal.1:15; Mt.11:25).
Bởi thế mà, trong thực hành, căn cứ vào giáo
huấn của Công Đồng Chung Vaticanô I (Hiến Chế
Dei Filius) và II (Hiến Chế Dei Verbum), cũng
như Tổng Luận Thần Học của Thánh Tôma Tiến Sĩ,
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo c̣n cho
thấy là:
·
“Trước khi thực thi đức
tin, con người cần phải có ơn Chúa đánh động và
nâng đỡ; họ phải được Thánh Linh ban ơn trợ giúp
bề trong, Ngài là vị tác động tâm trí
và qui hướng nó về Thiên Chúa, Đấng mở mắt trí
khôn và ‘làm cho mọi người dễ dàng chấp nhận và
tin tưởng chân lư’” (Hiến
Chế Mạc Khải, đoạn 5; xem DS 377; 3010).
(số 153)
·
“... ’Tin tưởng là tác động
của lư trí ưng thuận chân lư thần linh theo lệnh
của ư muốn được Thiên Chúa tác động bằng ân
sủng’” (Thánh
Tôma Aquinô, STh II-II, 2, 9; xem Hiến
Chế Dei Filius 3: DS 3010).
(số 155)
Vẫn biết “cái làm cho chúng ta
tin tưởng không phải là các chân lư được mạc
khải có vẻ chân thực và hiểu được đối với lư trí
tự nhiên của chúng ta” (SGL
số 156),
nhưng như thế không có nghĩa là con người chúng
ta hoàn toàn mù quáng trước tác động của Thiên
Chúa trong việc Ngài ban ơn giúp ḿnh chấp nhận
những ǵ chính Ngài là Đấng đáng tin trong những
ǵ Ngài đă mạc khải vượt quá tầm thức suy luận
và hiểu biết tự nhiên của ḿnh. Trái lại,
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo minh xác: “Tin
tưởng vào Thiên Chúa và gắn bó với các chân lư
do Ngài mạc khải không phản lại với tự do và lư
trí của con người” (SGL
số 154).
Tại sao? Căn cứ vào Hiến Chế Dei Filius của Công
Đồng Chung Vaticanô I, Giáo Lư của Giáo Hội
Công Giáo xác nhận đức tin cần dấu chứng và
cần được t́m hiểu:
·
“Để ‘việc đức tin vâng phục
của chúng ta hợp với lư trí, th́ theo ư định của
Thiên Chúa, các chứng cớ bề ngoài về những ǵ
Ngài Mạc Khải phải liên kết với ơn Chúa Thánh
Thần trợ giúp bề trong’
(đoạn
3: DS 3009).
Thế nên, những phép lạ
Chúa Kitô và các thánh làm (người
biên soạn biệt chú: phân biệt với các sự lạ hay
dấu lạ do thành phần kitô giả làm vào những ngày
cuối thời),
những lời tiên tri (phân
biệt với Sấm Trạng Tŕnh về Việt Nam hay Sấm
Malachi về các vị giáo hoàng),
việc phát triển và thánh thiện của Giáo Hội,
việc sinh hoa kết trái và bền vững của Giáo Hội
(phân
biệt tử đạo với tử v́ đảng của cán bộ Cộng Sản)
đều ‘là những dấu hiệu chắc chắn nhất của Mạc
Khải thần linh, hợp với trí khôn của tất cả mọi
người”;
chúng là “những động lực tin tưởng’ (motiva
credibilitatis), chứng tỏ cho thấy rằng việc
chấp nhận đức tin ‘không phải là
một thúc đẩy mù quáng của tâm trí’
(đoạn
3: DS 3008 – 10; xem Mk. 16:20; Heb.2:4)”.
(số 156)
·
“Chính nội dung của đức tin
khiến người tín hữu muốn biết rơ hơn nữa về Đấng
họ tin tưởng và hiểu hơn nữa về những ǵ Ngài
mạc khải; càng hiểu biết sâu xa, đức tin càng
mănh liệt hơn, bằng t́nh yêu mỗi ngày một nồng
nàn. Ơn đức tin mở ‘mắt cơi ḷng’
(Eph.1:18)
để hiểu biết một cách sống động
những ǵ được Mạc Khải: tức là hiểu biết trọn
vẹn dự án của Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức
tin, hiểu biết mối liên hệ của chính những mầu
nhiệm này với nhau cũng như với Chúa Kitô, tâm
điểm của mầu nhiệm mạc khải. ‘Cùng một Chúa
Thánh Thần là Đấng liên lỉ hoàn hảo hóa đức tin
bằng tặng ân của Ngài, để Mạc Khải được hiểu
biết càng ngày càng sâu xa hơn’
(Hiến
Chế Mạc Khải, đoạn 5).
Theo Thánh Âu-Quốc-Tinh nói: ‘Tôi tin tôi
mới hiểu; và càng hiểu tôi càng tin’ (Sermo
43, 7, 9: PL 38, 257-258)”.
(số 158)
Do đó, theo
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo
(số 159),
“mặc dù đức tin vượt trên lư trí, song
giữa đức tin và khoa học không bao giờ thực sự
mâu thuẫn với nhau”.
3-
NẾU CON NGƯỜI CÓ THỂ VÀ ĐƯỢC
QUYỀN T̀M HIỂU NHỮNG G̀ THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO
M̀NH, ĐỂ CHẲNG NHỮNG TRÁNH ĐƯỢC MÊ TÍN DỊ ĐOAN,
MÀ C̉N ĐỂ SỐNG ĐỨC TIN MỘT CÁCH Ư THỨC HƠN, TH̀
PHẢI CHĂNG LƯ TRÍ CỦA CON NGƯỜI MỚI LÀ YẾU TỐ
CHÍNH ĐƯA CON NGƯỜI ĐẾN GẦN THIÊN CHÚA, CHỨ
KHÔNG PHẢI ĐỨC TIN CỨU ĐỘ CON NGƯỜI HAY ĐỨC TIN
CÔNG CHÍNH HÓA CON NGƯỜI?
Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, mặc dù hiểu biết
đức tin của ḿnh rơ hơn, qua khoa thần học hay
môn giáo lư, con người nhiều khi vẫn sống mâu
thuẫn với đức tin, đôi khi c̣n sống phản lại đức
tin, thậm chí có trường hợp c̣n chối bỏ đức tin
nữa là đàng khác. Bởi thế, lư trí của con người
hay kiến thức hiểu biết về đạo của họ không phải
là yếu tố phần rỗi của họ hay yếu tố làm cho họ
nên công chính, mà là đức tin nơi họ. Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo đă xác quyết chân lư
đức tin cứu độ và chỉ dẫn việc bảo tồn đức tin:
·
“Tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô
và vào Đấng đă sai Người v́ phần rỗi của chúng
ta là việc cần thiết để chiếm lấy ơn cứu độ
(xem
Mk.16:16; Jn.3:36, 6:40 v.v.).
‘Bởi không có đức tin không thể làm đẹp ḷng
Thiên Chúa cũng như không thể hiệp thông với con
cái của Ngài, do đó, không có đức tin không ai
được công chính hóa, cũng không ai được sự sống
đời đời, ngoại trừ kẻ kiên tâm đến cùng’ (Hiến
Chế Dei Filius 3: DS 3012; xem Mt. 10:22,
24:13 và Heb.11:6; Công Đồng Triđentrinô: DS
1532)”.
(số 161)
·
“Đức tin là một tặng ân hoàn
toàn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người.
Chúng ta có thể làm mất đi tặng ân vô giá này...
Để sống theo đức tin, lớn lên trong đức tin và
kiên tŕ với đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng
đức tin bằng lời Chúa; chúng ta phải xin Chúa
tăng thêm đức tin của ḿnh
(xem
Mk.9:24; Lk.17:5, 22:32),
một đức tin phải ‘hoạt động bởi đức ái’, tràn
đầy niềm hy vọng và đâm rễ vào đức tin của Giáo
Hội (Gal.5:6;
Rm.15:13; xem Jas.2:14-26)”.
(số 162)
4-
NẾU “ĐỨC TIN LÀ MỘT TÁC ĐỘNG
RIÊNG TƯ”
(SGL
số 166)
CỦA MỖI NGƯỜI ĐỐI VỚI MẠC KHẢI THẦN LINH, TH̀
TẠI SAO TRONG PHỤNG VỤ THÁNH LỄ TÍN HỮU CÔNG
GIÁO LẠI CẦN PHẢI TUYÊN XƯNG CHUNG, BẰNG “NHỮNG
BẢN TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN”
(SGL số 187)
Nói Lên “Những Biểu Hiệu Đức Tin”
(SGL số 187),
ĐƯỢC GỌI LÀ “KINH TIN KÍNH”
(SGL số 187)?
Bởi v́, theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo,
th́ tuy:
·
“Đức tin là một tác động riêng tư
– là việc con người tự do đáp ứng Thiên Chúa là
Đấng mạc khải ḿnh ra khơi động họ. Thế nhưng,
đức tin không phải là một tác động biệt lập.
Không ai có thể tự ḿnh tin tưởng, cũng như
không ai có thể tự ḿnh sống. Quí bạn không
tự hiến cho ḿnh sự sống thế nào, quí bạn cũng
không tự ḿnh có đức tin như vậy. Tín hữu đă
lănh nhận đức tin từ người khác và phải truyền
đạt đức tin cho người khác nữa” (SGL số
166).
Để dẫn chứng nguồn gốc của đức tin được phát
xuất từ Giáo Hội, Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo đă cho thấy như sau:
·
“Chính Giáo Hội tin tưởng trước, rồi sau đó
đă cưu mang, nuôi dưỡng và bảo tŕ đức tin của
tôi... Chính nhờ đức tin của Giáo Hội mà tôi
được nhận lănh đức tin và sự sống mới trong Chúa
Kitô qua Phép Rửa. Nơi Rituale Romanum, vị
thừa tác viên cử hành Phép Rửa hỏi các dự ṭng
rằng: ‘Quí vị xin Giáo Hội Chúa điều ǵ?’ Câu
trả lời là ‘Đức tin’. ‘Đức tin ban cho quí vị
điều ǵ?’ ‘Sự sống đời đời’
(Roman
Ritual, Nghi Thức Rửa Tội Người Lớn).
(số 168, xin xem cả số 172 và 173)
Để phân biệt giữa “đức tin là một tác động
riêng tư” song cũng “không phải là một
tác động biệt lập”, Giáo Lư của Giáo Hội
Công Giáo tŕnh bày như sau:
·
“’Tôi tin kính’ (Kinh
Tin Kính Các Thánh Tông Đồ
–
xem SGL số 194)
là đức tin của Giáo Hội được tuyên xưng riêng tư
bởi mỗi người tín hữu, đặc biệt trong khi lănh
nhận Phép Rửa. ‘Chúng tôi tin’ (Kinh
Tin Kính Các Công Đồng Chung Nicêa và
Contantinôpôli
–
xem SGL số 195)
là đức tin của Giáo Hội được các giám mục họp
công đồng tuyên xưng, hay phổ thông hơn, được
cộng đồng tham dự phụng vụ tuyên xưng”.
(số 167, xin xem cả số 171)
5-
KINH TIN KÍNH ĐƯỢC CHIA RA LÀM MẤY PHẦN VÀ BAO
GỒM BAO NHIÊU “ĐIỀU”
(SGL số 191)
PHẢI TIN, NHỮNG “ĐIỀU” NÀY CÓ PHẢI LÀ CHÍNH ĐỐI
TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN HAY KHÔNG?
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo, “Kinh Tin Kính được chia ra làm
ba phần” (SGL
số 190 và cả số 189)
và kể “như có 12 điều” (SGL
số 191).
Những tín (=tin) điều này (tức “12
điều” trong Kinh Tin Kính, hay “12 điều”
tin theo Kinh Tin Kính), Giáo Lư của Giáo Hội
Công Giáo đă phân biệt và xác nhận là tự
những tín điều ấy không phải là chính đối tượng
của đức tin, song thực tại của những tín điều ấy
mới là chính đối tượng của đức tin:
·
“Chúng ta không tin vào các
câu công thức, mà là những thực tại được các câu
công thức này nói lên, những thực tại chỉ có đức
tin của chúng ta mới chạm tới... Cũng
thế, chúng ta tiến đến những thực tại này nhờ
các công thức đức tin, giúp chúng ta diễn
đạt đức tin và truyền đạt đức tin, cử hành đức
tin trong cộng đồng, áp dụng và sống đức tin mỗi
ngày một hơn”. (số 170)
TÓM LẠI:
Để có thể dự phần vào sự sống vinh phúc của
Thiên Chúa
(xem SGL số 1 và 51), con người phải biết đáp
ứng mạc khải thần linh của Thiên Chúa (số
50, 51 và 52), một cách hoàn toàn bằng tác
động vâng phục của đức tin, được thể hiện qua
việc cả lư trí lẫn ḷng muốn của con người chấp
nhận (số 143-144) chính Thiên Chúa là
Đấng mạc khải cho ḿnh cùng với tất cả sự thật
được Ngài mạc khải (số 150), qua Chúa
Giêsu Kitô (số 151) và trong Chúa Thánh
Thần (số 152). Tự bản chất, đức tin là
tặng ân Thiên Chúa ban (số 153) cho con
người khi họ được Giáo Hội ban Phép Rửa (số
168), để nhờ đó họ được cứu độ (số 161),
bởi thế, con người phải cẩn thận bảo tồn và tăng
tiến đức tin của ḿnh cho đến cùng mới được cứu
rỗi (số 162). Tuy nhiên, v́ đức tin cũng
là tác động con người tự do ưng thuận
(số 160) đối với tất cả chân lư Thiên Chúa
mạc khải (số 150), do đó, Thiên Chúa cũng
dùng các dấu hiệu bề ngoài hợp với con người
(số 156) để lôi kéo họ đến với Ngài. Phần con
người, càng hiểu biết những ǵ ḿnh tin tưởng,
họ càng nắm vững đức tin (số 158), một
đức tin được tiếp nhận từ Mẹ Giáo Hội (số
168-169, 171), và được diễn đạt và
truyền đạt theo hai Kinh Tin Kính chính
(số 187, 194 và 195), để tuyên xưng đức
tin riêng (số 167 và 194) hay chung (số
167 và 195), song 12 điều trong 3 phần
(số 191) của các Kinh Tin Kính ấy cũng
chỉ nhắm đến chính thực tại đức
tin (số 170).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1-
Đức tin là hạt giống thần linh Thiên Chúa đă
gieo vào thửa ruộng của Ngài là Giáo Hội nói
chung và mỗi tâm hồn nói riêng, một hạt giống
chứa đựng tất cả những ǵ Ngài muốn mạc khải cho
Giáo Hội cũng như qua Giáo Hội cho thế giới, một
hạt giống mang mầm mống sự sống đời đời, một hạt
giống nhỏ đến nỗi con người tự nhiên không thấy
được song một khi đâm rễ vào trần gian, vào văn
hóa các dân nước, sẽ trở thành Nước Trời cho
chim trời là các hồn thiêng bất tử.
2-
V́ đức tin là hạt giống được gieo vào tâm hồn
của ḿnh, Kitô hữu phải trở thành những mảnh đất
tốt, hoàn toàn dễ dạy theo tác động của Chúa
Thánh Thần, trong ḷng Giáo Hội, bắt chước Mẹ
Maria luôn giữ và suy ngắm những ǵ Chúa mạc
khải.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL