Bài
Giáo Lư số 7
THIÊN CHÚA DUY NHẤT LÀ CHA TOÀN NĂNG
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
ịch sử cho thấy, trước khi “ánh sáng thật chiếu
soi mọi người đă đến trong thế gian” (Jn
1:9)
là “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta”
(Jn
1:14),
th́ hầu hết loài người bấy giờ vẫn c̣n tôn thờ
đa thần (x
Wis 13:2-4),
kể cả dân Hy Lạp được coi là trí thức nhất hồi
ấy về triết lư đi nữa (x
Tông Vụ 17:23).
Tuy nhiên, cho dù người Do Thái là dân theo độc
thần bấy giờ đi nữa, qua gịng lịch sử của ḿnh,
họ cũng vẫn tỏ ra khuynh hướng đa thần, vẫn
nhiều lúc (nhất là trong thời các vua từ vua
Solomon) tôn sùng những thần ngoại lai, hay tôn
sùng ngẫu tượng không phải thực sự là Thiên Chúa
của họ, điển h́nh nhất là trường hợp họ đúc thờ
ḅ vàng trong sa mạc (x
Ex 32:1,4,8).
Sau Chúa Kitô giáng sinh, lịch sử cũng cho thấy
không c̣n một tôn giáo đa thần nào xuất hiện nữa.
Tuy nhiên, kể từ thời Cách Mạng Kỹ Nghệ vào thế
kỷ 17, thay vào hiện tượng đa thần, lịch sử cho
thấy hiện tượng vô thần bắt đầu phát xuất. Thật
ra, về nội dung, vô thần tân tiến cũng là một
h́nh thức đa thần cổ xưa, tức một h́nh thức tôn
thờ những ǵ không phải là “Thiên Chúa chân thật
duy nhất” (Jn
17:3),
chẳng hạn, thế giới tân tiến đă và đang tôn thờ
các chủ nghĩa vô thần như duy vật, duy lư, duy
nghiệm, duy nhân v.v. Chính v́ thế, chính v́
càng chối bỏ Thiên Chúa, càng phủ nhận Sự Thật
Tối Thượng, mà con người, càng về cuối thế kỷ
20, lại càng thấy hiện tượng đầy những “giáo
phái” (sects) lan tràn khắp nơi, nhất là hiện
tượng phá sản luân thường đạo lư khắp thế giới,
không c̣n biết tội là ǵ nữa, thậm chí c̣n cho
tội là phúc và phúc là tội. Bởi vậy, chúng ta
cần phải nắm vững niềm tin của ḿnh nơi “Thiên
Chúa chân thật duy nhất” đúng như Giáo Lư của
Giáo Hội Công Giáo truyền dạy. Thế nhưng,
1.
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo căn cứ vào đâu để
tin tưởng chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất, và
theo Kitô Giáo nói chung cũng như Giáo Hội Công
Giáo nói riêng hiểu th́ Thiên Chúa Duy Nhất ở
chỗ nào?
2.
Nếu chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất th́ tại sao
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo c̣n dạy rằng vị
Thiên Chúa Duy Nhất này lại có Ba Ngôi
(xem
SGL số 233),
mà Ngôi nào cũng thực sự là Thiên
Chúa
(số 253),
vậy phải có “ba Thiên Chúa”
(số
253)
chứ làm sao lại chỉ có Một Thiên Chúa
Duy Nhất được?
3.
Nếu chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất và nơi vị
Thiên Chúa Duy Nhất này có Ba Ngôi là Cha và Con
và Thánh Thần, vậy th́ tại sao ngay trong câu mở
đầu của Kinh Tin Kính, Giáo Hội lại chỉ tuyên
xưng có một ḿnh Ngôi Cha: “Tôi tin kính một
Thiên Chúa là Cha”, mà không tuyên xưng “Tôi tin
kính một Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần”?
4.
Nếu tiếng “cha” theo ư nghĩa của ḿnh thường
được gắn liền với yêu thương và nguồn sống, vậy
th́ tại sao Kinh Tin Kính lại không tuyên xưng
“Thiên Chúa là Cha yêu thương” mà lại tuyên xưng
“Thiên Chúa là Cha toàn năng”?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1.
GIÁO LƯ CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CĂN CỨ VÀO ĐÂU ĐỂ
TIN TƯỞNG CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT, VÀ
THEO KITÔ GIÁO NÓI CHUNG CŨNG NHƯ GIÁO HỘI CÔNG
GIÁO NÓI RIÊNG HIỂU TH̀ THIÊN CHÚA DUY NHẤT Ở
CHỖ NÀO?
Niềm tin chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất được
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo căn cứ vào
Mạc Khải Thần Linh, nhất là trong phần Thánh
Kinh Cựu Ước, qua việc Thiên Chúa tỏ cho Moisen
biết tên gọi của Ngài:
·
“Việc tuyên xưng duy nhất tính của Thiên Chúa,
một phẩm tính được bắt nguồn từ mạc khải thần
linh trong Cựu Ước, là việc không thể tách
biệt khỏi việc tuyên xưng Thiên Chúa hiện hữu và
cả hai đều trọng yếu như nhau”.
(số 200)
·
“Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra là Thiên Chúa Duy
Nhất cho dân Yến-Duyên, dân Ngài tuyển chọn:
‘Hỡi Yến-Duyên, hăy nghe đây: Chúa, Thiên Chúa
của chúng ta, là Chúa duy nhất; bởi thế các
người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của các
người hết ḷng,
hết linh hồn và hết sức ḿnh’ (Deut
6:4-5).
Qua các tiên tri, Thiên Chúa c̣n kêu gọi dân
Yến-Duyên cũng như tất cả mọi dân nước hăy trở
về với Ngài là một Thiên Chúa duy nhất:
‘Hỡi khắp cùng bờ cơi trái đất, hăy trở về với
Ta để được cứu độ! V́ Ta là Thiên Chúa, ngoài ra
không có Chúa nào khác… Trước nhan của Ta, mọi
đầu gối phải qùi xuống và mọi miệng lưỡi phải
thề nguyền. Ta sẽ được tuyên xưng rằng ‘Công
minh chính trực và quyền uy sức mạnh chỉ có ở
nơi Chúa’
(Is
45:22-24; x. Phil 2:10-11)”.
(số 201)
·
“Thiên Chúa đă càng ngày càng tỏ ḿnh ra cho dân
Ngài dưới nhiều danh xưng, thế nhưng, mạc khải
làm nền tảng cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước là mạc
khải tỏ cho Moisen biết về tên gọi thần linh
trong cuộc thần hiển ở bụi gai cháy, trước cuộc
Xuất Ai Cập và trước giao ước Núi Sinai”.
(số 204)
Nếu “tên gọi nói lên yếu tính và căn tính của
con người cùng với ư nghĩa cuộc sống của con
người ấy. Thiên Chúa có một tên gọi; Ngài
không phải là một quyền lực vô danh” (SGL
số 203),
th́ căn cứ vào mạc khải thần linh về tên gọi của
Thiên Chúa, Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo
hiểu được Thiên Chúa Duy Nhất chính là một Vị
Thiên Chúa trung thành, một Vị Thiên Chúa hiện
hữu, một Vị Thiên Chúa Chân Thật và là một Vị
Thiên Chúa Yêu Thương.
·
“Bằng việc mạc khải danh tính của ḿnh, Thiên
Chúa cũng muốn mạc khải cả ḷng trung thành của
ḿnh ra nữa, một ḷng trung thành từ muôn đời
đến muôn kiếp, đă xẩy ra trong cả quá khứ
(‘Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi’) lẫn tương
lai (‘Ta sẽ ở với ngươi’)
(Ex
3:6,12).
Thiên Chúa, Đấng tỏ danh tính ‘Ta Hiện
Hữu’ của ḿnh ra, cũng tỏ ḿnh cho thấy Ngài như
là một Vị Thiên Chúa luôn luôn có đó, luôn luôn
hiện diện nơi dân của Ngài để giải cứu họ”.
(số 207; xem cả cuối các số 205 và 212)
·
“Bởi thế, mạc khải về danh tính ‘Ta là Đấng Hiện
Hữu’ không thể phai mờ này chất chứa chân lư cho
thấy rằng chỉ một ḿnh Thiên Chúa là CÓ. Bản Bảy
Mươi dịch các Cuốn Sách Thánh Do Thái ra tiếng
Hy Lạp, cũng như Truyền Thống của Giáo Hội dựa
theo bản dịch này, đă hiểu ư nghĩa danh tính
thần linh ấy thế này: Thiên Chúa là toàn hữu
và toàn hảo, vô thủy và vô chung. Tất cả mọi
tạo vật đều lănh nhận mọi sự chúng là và chúng
có từ Ngài; thế nhưng, chỉ có duy một ḿnh
Ngài là chính bản thân Ngài và Ngài tự ḿnh có
mọi sự Ngài là”.
(số 213)
·
“Thiên Chúa, ‘Đấng hiện hữu’, đă mạc khải ḿnh
ra cho dân Yến-Duyên thấy Ngài như là một Đấng
‘đầy ḷng yêu thương bền vững và trung thành’
(Ex
34:6).
Hai từ ngữ này (biệt
chú của người biên soạn: “yêu thương” và “trung
thành”)
tóm tắt cho thấy tính chất phong phú của
danh tánh thần linh ấy. Trong tất cả
mọi việc làm của ḿnh, Thiên Chúa chẳng những
cho thấy ḷng nhân từ, thiện hảo, sủng ái và
t́nh yêu bền vững của ḿnh, mà c̣n cho thấy cả
tính cách khả tín, nhất trí, trung thành và chân
thật của Ngài nữa. ‘Tôi tạ ơn danh tánh của Ngài
v́ t́nh yêu Ngài bền vững và v́ ḷng trung thành
của Ngài’ (Ps
138:2; x. 85:11).
Thánh Tông Đồ Gioan dạy, Ngài là Sự
Thật: ‘Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài
không có tối tăm’, và ‘Thiên Chúa là t́nh yêu’
(1Jn
1:5, 4:8)”.
(số 214)
“Thiên Chúa là chính Sự Thật” (số
215): ở “những lời Ngài không lừa dối” (số 215),
ở “đức khôn ngoan của Ngài chi phối toàn thể
lănh vực tạo sinh và cai quản thế giới“ (số
216), cũng như ở “việc Ngài tỏ ḿnh ra…
‘Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đă đến để làm
cho chúng ta hiểu để nhận biết Ngài là Đấng chân
thật’ (1Jn
5:20; x. Jn 17:3)”
(số 217).
“Thiên Chúa là t́nh yêu”: v́ Ngài đă nhưng không
yêu thương tỏ ḿnh ra cho dân Do Thái và đă
tuyển chọn họ (số 218), v́ t́nh yêu của Ngài
vượt trên việc họ bất trung và c̣n ban cho họ
tặng ân cao quí nhất (số 219), v́ t́nh yêu của
Ngài đối với dân Ngài là một t́nh yêu vĩnh viễn
(số 220), và nhất là v́ chính bản thân Ngài là
t́nh yêu (số 221).
2.
NẾU CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT TH̀ TẠI SAO
GIÁO LƯ CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO C̉N DẠY RẰNG VỊ
THIÊN CHÚA DUY NHẤT NÀY LẠI CÓ BA NGÔI
(xem SGL số 233), MÀ NGÔI NÀO CŨNG THỰC SỰ LÀ
THIÊN CHÚA (số 253), VẬY THEO LƯ TH̀ PHẢI
CÓ “BA THIÊN CHÚA” (số 253) CHỨ LÀM SAO
LẠI CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT ĐƯỢC?
Sở dĩ chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất mà lại có
Ba Ngôi, Ngôi nào cũng thực sự là Thiên Chúa,
song không phải là ba Thiên Chúa, thật ra chỉ là
Một Thiên Chúa Duy Nhất, bởi v́ “Ba Ngôi
đồng bản thể”:
·
“Ba Ngôi là Một. Chúng ta không tuyên
xưng ba Thiên Chúa, mà tuyên xưng một Thiên Chúa
có ba ngôi, ‘Ba Ngôi đồng bản thể’
(Công
Đồng Chung Contantinôpôli II năm 553: DS 421).
Các ngôi vị thần linh không thông phần
cùng một thần tính mà mỗi ngôi là Thiên Chúa
hoàn toàn và trọn vẹn: ‘Ngôi Cha là
tất cả những ǵ Ngôi Con là, Ngôi Con là tất cả
những ǵ Ngôi Cha là, Ngôi Cha và Ngôi Con là
tất cả những ǵ Ngôi Ba là, tức là, chỉ có một
Thiên Chúa duy nhất theo bản tính’ (Công
Đồng Tolêđô XI năm 675: DS 530: 26).
Theo lời của Công Đồng Chung Latêranô IV năm
1215 th́ ‘Mỗi ngôi là chính thực tại cao cả,
tức là chính bản thể, yếu tính hay bản tính thần
linh’ (DS
804)”.
(số 253)
Tuy Ba Ngôi chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất v́
“đồng bản thể”, chứ không phải là Ba Thiên Chúa,
thế nhưng, theo Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo, Ba Ngôi vẫn hoàn toàn khác biệt nhau
theo liên hệ về nguồn gốc:
·
“Các ngôi vị thần linh thực sự khác biệt nhau.
‘Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc’
(Fides
Damasi:
DS 71).
‘Cha’, ‘Con’ và ‘Thánh Thần’ không phải
chỉ là các danh xưng tiêu biểu cho những thể
thức của hữu thể thần linh, v́ các
danh xưng này thực sự khác biệt nhau: ‘Con không
phải là Cha cũng như Cha không phải là Con, và
Thánh Thần không phải là Cha hay là Con’ (Công
Đồng Tolêđô XI năm 675: DS 530:25).
Các danh xưng này khác biệt nhau theo liên
hệ về nguồn gốc : ‘Cha là Đấng phát sinh, Con là
Đấng được sinh ra và Thánh Thần là Đấng được
xuất phát’ (Công
Đồng Chung Latêranô IV năm 1215: DS 804).
Thiên Chúa Duy Nhất là Thiên Chúa Ba Ngôi”.
(số 254)
Cũng chính v́ Ba Ngôi chỉ là Một
Thiên Chúa Duy Nhất bởi “đồng bản thể”, song Ba
Ngôi lại hoàn toàn khác biệt nhau về nguồn gốc
như thế, mà Ba Ngôi cùng làm chung một việc song
theo cách thức khác nhau tùy vai tṛ xứng hợp
riêng với Ngôi Vị ḿnh.
·
“Toàn thể công cuộc thần linh là công việc
chung của cả ba ngôi vị thần linh. Bởi v́
Ba Ngôi chỉ có cùng một bản tính nên cũng chỉ có
cùng một hoạt động: ‘Ngôi Cha, Ngôi Con
và Ngôi Thánh Thần không phải là ba nguyên lư
của việc tạo thành mà chỉ là một nguyên lư duy
nhất’
(Công
Đồng Chung Florence năm 1442: DS 1331; xem Công
Đồng Chung Contantinôpôli II năm 553: DS 421)”.
(số 258)
·
“Tuy nhiên, mỗi một ngôi vị
thần linh góp phần vào công việc chung này theo
đặc tính riêng tư đặc thù của ḿnh
(biệt
chú của người biên soạn: như trong Mầu Nhiệm Tạo
Dựng, Ngôi Cha đóng vai tṛ tác nhân, Ngôi Con
đóng vai tṛ khôn ngoan và Ngôi Ba đóng vai tṛ
động lực, hay trong Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, Ngôi
Cha đóng vai tṛ nguyên nhân, Ngôi Con đóng vai
tṛ tác nhân và Ngôi Ba đóng vai tṛ tác động,
hoặc trong Mầu Nhiệm Thánh Hóa, Ngôi Cha đóng
vai tṛ đích điểm, Ngôi Con đóng vai tṛ mô thức
và Ngôi Ba đóng vai tṛ tác nhân).
Bởi thế, dựa vào Tân Ước, Giáo Hội tuyên xưng
‘Tất cả mọi sự có bởi một Thiên Chúa cũng là Cha
duy nhất, tất cả mọi sự có nhờ một Chúa Giêsu
Kitô duy nhất, và tất cả mọi sự có trong một
Thánh Thần duy nhất’
(Công
Đồng Chung Contantinôpôli II năm 553: DS 421).
Sứ vụ Nhập Thể của Ngôi Con và sứ vụ ban tặng
của Ngôi Thánh Thần trước hết là để chứng tỏ cho
thấy đặc tính của các ngôi vị thần linh”. (số
258, xem thêm câu đầu của số 259)
3.
NẾU CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT VÀ NƠI VỊ
THIÊN CHÚA DUY NHẤT NÀY CÓ BA NGÔI LÀ CHA VÀ CON
VÀ THÁNH THẦN, VẬY TH̀ TẠI SAO NGAY TRONG CÂU MỞ
ĐẦU CỦA KINH TIN KÍNH, GIÁO HỘI LẠI CHỈ TUYÊN
XƯNG CÓ MỘT M̀NH NGÔI CHA: “TÔI TIN KÍNH MỘT
THIÊN CHÚA LÀ CHA” MÀ KHÔNG TUYÊN XƯNG “TÔI TIN
KÍNH MỘT THIÊN CHÚA LÀ CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN”?
Sở dĩ Thiên Chúa Duy Nhất có Ba
Ngôi, song ngay trong câu mở đầu Kinh Tin Kính,
Giáo Hội Chúa Kitô chỉ tuyên xưng “tôi tin kính
một Thiên Chúa là Cha”, chứ không phải “là Cha
và Con và Thánh Thần”, là v́ vai tṛ khởi nguyên
(về thần tính cũng như việc tạo thành) và tính
cách yêu thương nơi danh xưng Cha của Thiên Chúa.
Thật vậy: