Bài Giáo Lư số 9
CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO DỰNG VÀ SA NGĂ
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Có một sự thật không ai có thể
chối căi, dù là thành phần vô thần, đó là con
người là loài “linh ư vạn vật”, tức là loài cao
trọng hơn mọi sinh vật trên mặt đất này. Bởi thế,
dù chỉ c̣n là một cái xác vô hồn, là một tử thi
đi nữa, con người vẫn có một cái ǵ đó linh
thiêng, đến nỗi người ta chẳng những phải đem
chôn cất đàng hoàng, chứ không để cái tử thi đó
lăn lóc ở ngoài đường hay bị vùi dập ở một xó
rừng nào đó như một con thú vật, mà c̣n tưởng
nhớ và viếng mộ sau đó nữa.
Con người “linh ư vạn vật” như thế phải chăng đó
là v́ thái độ tự tôn mặc cảm của con người vốn
có khuynh hướng vươn ḿnh lên trên hết mọi sự kể
cả Thiên Chúa (xem SGL 392, 397), hay bởi v́ con
người thấy rằng, trong khi con vật không bao giờ
thoát được t́nh trạng hoang rợ “ăn lông ở lỗ”
của chúng, t́nh trạng sống theo luật rừng rú
“mạnh được yếu thua”, hay sống theo luật hải hà
“cá lớn nuốt cá bé”, th́ con người lại không
ngừng tiến bộ về hết mọi phương diện, được thể
hiện qua các thứ văn minh vật chất cũng như qua
các nền văn hóa nhân bản của con người?
Thế nhưng, Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo
chủ trương ra sao về sự thật con người “linh ư
vạn vật” này?
1.
Nếu
“Con người là tột đỉnh của việc Thiên Chúa
tạo dựng” (SGL
số 343),
th́ họ tột đỉnh ở chỗ nào và ra sao?
2.
“Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và tất cả mọi việc
Ngài làm đều tốt đẹp. Thế mà không ai lại không
cảm thấy khổ đau hay cảm thấy các sự dữ trong
thiên nhiên, như thể chúng có dính dáng tới
những giới hạn thuộc về tạo vật, nhất là dính
dáng đến vấn nạn về sự dữ luân lư. Sự dữ từ đâu
mà có?”
(SGL
số 385)
3.
“Tội của Adong làm sao lại trở thành tội của tất
cả con cháu ông được?”
(SGL
số 404)
4.
“Tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn con người
đầu tiên cho khỏi sa ngă phạm tội?”
(SGL
số 412)
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1-
NẾU
“CON NGƯỜI LÀ TỘT ĐỈNH CỦA VIỆC THIÊN CHÚA
TẠO DỰNG”
(SGL số 343), TH̀ HỌ TỘT ĐỈNH Ở CHỖ NÀO VÀ
RA SAO?
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo th́
con người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận làm
người “được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa”,
ở vai tṛ “làm chủ trái đất” của con người, cũng
như ở ơn gọi tham phần vào sự sống thần linh của
Thiên Chúa.
Trước hết, con người “linh ư vạn vật” ở
chính thân phận “được dựng nên theo h́nh ảnh
Thiên Chúa” của họ.
·
“Là h́nh ảnh Thiên Chúa, mỗi người chiếm
được phẩm giá của một con người, thành phần
không phải chỉ là một cái ǵ đó mà là một người
nào đó. Con người có khả năng tự nhận
thức, tự làm chủ lấy ḿnh và tự do hiến bản thân
ḿnh để tiến đến việc hiệp thông với những người
khác. Con người được ân sủng kêu gọi đến với
việc giao ước cùng Đấng Hóa Công, để đáp ứng
Ngài bằng đức tin và ḷng yêu mến, những tác
động mà không một tạo vật nào thay thế được họ”.
(số 357)
·
“Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa, con
người là một hữu thể vừa vật chất vừa tinh thần.
Tŕnh thuật thánh kinh diễn tả thực tại này bằng
một ngôn ngữ tiêu biểu, khi xác nhận là ‘bấy giờ
Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn nên con người,
rồi thổi vào mũi con người hơi thở sự sống, và
con người đă trở thành một hữu thể sống’
(Gen
2:7).
Như thế là Thiên Chúa đă muốn dựng nên một
con người hoàn toàn và trọn vẹn” (số 362)
·
“Trong Thánh Kinh, chữ ‘linh hồn’ thường được
ám chỉ về sự sống con người hay ám chỉ về toàn
thể con người (xem
Mt 16:25-26; Jn 15:13; Acts 2:4).
Thế nhưng, ‘linh hồn’ cũng ám chỉ về cả lănh
vực nội tâm của con người, là cái sáng giá nhất
nơi con người (xem
Mt 10:28, 26:38; Jn 12:27; 2Mac 6:30),
cái làm cho con người đặc biệt giống h́nh ảnh
Thiên Chúa nhất,
ở chỗ, ‘linh hồn’ biểu hiệu cho nguyên lư linh
thiêng nơi con người”.
(số 363)
·
“Thân xác của con người thông phần vào phẩm giá
được làm ‘h́nh ảnh Thiên Chúa’, ở chỗ, thân xác
là thân xác của con người chính là bởi v́ nó
được hồn thiêng làm cho sinh động, và chính toàn
thể con người được ấn định, theo như thân thể
Chúa Kitô, trở nên đền thờ của Thần Linh
(xem
1Cor 6:19-20, 15:44-45)”.
(số 364)
·
“T́nh trạng duy nhất của hồn thiêng và xác
thể rất sâu xa chặt chẽ đến nỗi người ta phải
coi hồn thiêng là ‘mô thể’ của xác thể
(xem
Công Đồng Vienne năm 1312: Ds 902),
tức là, chính v́ hồn thiêng của ḿnh mà xác
thể, bởi vật chất mà có, trở nên một xác thể
sống động của con người; nơi con người, tinh
thần và thể chất không phải là hai bản tính hiệp
nhất nên một, mà là việc hiệp nhất của chúng đă
làm nên một bản tính duy nhất”. (số 365)
·
“Giáo Hội dạy rằng, hết mọi hồn thiêng đều
được Thiên Chúa trực tiếp dựng nên – chứ
không phải do cha mẹ ‘sinh ra’ – và hồn
thiêng cũng bất tử nữa, ở chỗ nó không chết
đi khi ĺa khỏi xác vào trong giờ con người lâm
tử, rồi nó sẽ được tái hiệp nhất với xác thể
trong cuộc Phục Sinh sau hết
(xem Đức Piô XII, Humani Generis:
DS 3896; Paul VI, CPG # 8; Công Đồng Latêranô V
năm 1513: DS 1440)”.
(số 366)
·
“… Cả người nam lẫn người nữ cũng chỉ có cùng
một phẩm giá ‘theo h́nh ảnh Thiên Chúa’. Họ
phản ánh khôn ngoan và thiện hảo của Hóa Công,
nơi ‘hữu thể nam nhân’ hay ‘hữu thể nữ nhân’ của
ḿnh”.
(số 370)
Sau nữa, con người “linh ư
vạn vật” ở vai tṛ làm chủ trái đất của con
người.
·
“’Thiên Chúa đă dựng nên hết mọi sự cho
con người’ (xem
Gaudium et Spes: 12.1, 24.3, 39.1),
thế nhưng, về phần ḿnh, con người được dựng
nên là để phụng sự và yêu mến Thiên Chúa cùng
hiến dâng tất cả mọi tạo vật về lại cho Ngài”.
(số 358)
·
“Theo dự
án của Thiên Chúa, con người nam nữ được ơn
gọi ‘làm chủ’ trái đất (Gen
1:28)
với tư cách là quản lư của Thiên Chúa.
Quyền chủ tŕ này không
phải là một quyền thống trị chuyên chế và phá
hoại. Thiên Chúa kêu gọi con người nam nữ, được
dựng nên theo h́nh ảnh Hóa Công, ‘Đấng yêu thích
hết mọi sự hiện hữu’ (Wis
11:24),
để thông phần vào việc quan pḥng của Ngài đối
với các tạo vật khác; bởi thế Thiên Chúa mới ủy
thác cho họ trách nhiệm trông coi thế giới”.
(số
373)
·
“Thiên Chúa đă dựng nên
người nam và người nữ cùng với nhau và muốn mỗi
người họ sống cho nhau… Người nam
khám phá ra người nữ như là một ‘Cái Tôi’ khác
có cùng một nhân tính với ḿnh” (số 371)
·
“Người nam và người nữ được
dựng nên ‘cho nhau’ – không phải bởi Thiên Chúa
để họ ở trong một t́nh trạng lưng chừng và bất
hoàn bị, mà Ngài đă dựng nên họ là một cộng đồng
con người, trong đó, mỗi người có thể trở thành
‘trợ hữu’ của nhau, v́ họ là những con người
b́nh đẳng (‘xương bởi xương tôi…’)
và làm cho nhau, với nam tính và nữ tính của
ḿnh, được nên trọn. Thiên Chúa đă kết hợp
họ vào đời sống hôn nhân, ở chỗ là, bằng việc
nên ‘một xác thịt’, họ có thể sinh sản sự sống
con người: ‘Hăy sinh sôi nẩy nở tràn đầy mặt
đất’ (Gen
1:28).
Bằng việc thông truyền sự sống con người cho
con cháu của ḿnh, người nam và người nữ, với tư
cách là vợ chồng và là cha mẹ, đă đặc biệt cộng
tác vào công cuộc của Đấng Hóa Công (xem
Gaudium et Spes: 50.1)”
(số 372)
Sau hết, con người “linh ư vạn vật” ở ơn
gọi thông phần vào sự sống thần linh của Thiên
Chúa.
·
“Trong tất cả mọi tạo vật hữu h́nh, chỉ có
con người mới ‘có thể nhận biết và yêu mến Đấng
Hóa Công của ḿnh’ (Gaudium
et Spes: 12.3).
Con người là ‘tạo vật duy nhất trên trái đất
được Thiên Chúa muốn dựng nên cho họ’ (Gaudium
et Spes: 24..3),
và chỉ có một ḿnh con người được kêu gọi đến
thông phần với sự sống riêng của Thiên Chúa,
bằng việc họ nhận biết và yêu mến. Chính v́
mục đích này con người đă được dựng nên và đó
cũng là lư do làm nền tảng cho phẩm giá của họ”.
(số 356)
·
“Con người đầu tiên chẳng những được dựng
nên tốt lành mà c̣n được thiết định trong mối
thân t́nh với Đấng Hóa Công, trong
mối ḥa hợp với bản thân ḿnh cũng như ḥa hợp
với tạo vật chung quanh họ, ở một t́nh trạng chỉ
có vinh quang của cuộc tân tạo trong Chúa Kitô
mới hơn được”. (số 374)
·
“Giáo Hội… dạy rằng cha mẹ đầu tiên của
chúng ta là Adong và Evà được cấu tạo nên trong
một ‘t́nh trạng thánh thiện và công chính’
(xem
Công Đồng Triđentinô năm 1546: DS 1511)
nguyên thủy. Ân sủng của sự
thánh thiện nguyên thủy này là ‘được thông
phần vào… sự sống thần linh’ (xem
Lumen Gentium: 2)”.
(số 375)
·
“Tất cả mọi chiều kích nơi cuộc sống của con
người đều được ánh quang của ân sủng này làm cho
sáng tỏ. Bao lâu họ c̣n ở trong mối thân t́nh
thần linh ấy th́ con người sẽ không phải khổ đau
hay chết chóc (xem
Gen 2:17, 3:16, 19).
T́nh trạng ḥa hợp nội tâm nơi con người,
t́nh trạng ḥa hợp giữa người nam và người nữ
(xem
Gen 2:25),
cũng như t́nh trạng ḥa hợp sau hết giữa đôi
vợ chồng đầu tiên với tất cả mọi tạo vật, làm
thành một t́nh trạng gọi là ‘t́nh trạng công
chính nguyên thủy’”. (số
376).
·
“Việc ’làm chủ’ trái đất Thiên Chúa trao phó
cho con người ngay từ ban đầu, trước hết, được
thể hiện nơi chính bản thân của con người, ở chỗ
họ làm chủ bản thân ḿnh. Con người tiên
khởi không bị hư hại và cả con người họ có thứ
tự trên dưới, v́ họ không bị vướng mắc bởi một
thứ đam mê tam đầu chế nào (xem
1Jn 2:16)
có thể xui khiến họ t́m kiếm khoái lạc giác quan,
ham mê của cải trần thế và tự cao tự đại, là
những ǵ phản ngược với tiếng nói của lư trí” (số
377).
·
“Dấu chỉ t́nh trạng con người được thân t́nh
với Thiên Chúa đó là việc họ được Thiên Chúa đặt
vào ở trong vườn địa đường (xem
Gen 2:8).
Ở đó họ sống cuộc sống ‘để canh tác và giữ
vườn’. Việc làm bấy giờ chưa phải là một gánh
nặng (Gen
2:15, xem 3:17-19),
mà là tác động con người nam nữ hợp tác với
Thiên Chúa trong việc làm hoàn hảo loài tạo vật
hữu h́nh”. (số
378)
2-
“THIÊN CHÚA VÔ CÙNG THIỆN HẢO VÀ TẤT CẢ MỌI VIỆC
NGÀI LÀM ĐỀU TỐT ĐẸP. THẾ MÀ KHÔNG AI LẠI KHÔNG
CẢM THẤY KHỔ ĐAU HAY CẢM THẤY CÁC SỰ DỮ TRONG
THIÊN NHIÊN, NHƯ THỂ CHÚNG CÓ DÍNH DÁNG TỚI
NHỮNG GIỚI HẠN THUỘC VỀ TẠO VẬT, NHẤT LÀ DÍNH
DÁNG ĐẾN VẤN NẠN VỀ SỰ DỮ LUÂN LƯ. SỰ DỮ TỪ ĐÂU
MÀ CÓ?”
(SGL số 385)
Để thấu hiểu, nhất là để giải đáp, vấn nạn về sự
dữ bởi đâu mà có hóc búa và nan giải đối với lư
trí hạn hữu của con người này, Giáo Lư của
Giáo Hội Công Giáo đă phải căn cứ vào dự án
thần linh của Thiên Chúa, vào công cuộc cứu
chuộc của Chúa Kitô, cũng như vào ảnh hưởng của
thần dữ tác dụng trên con người.
Trước hết, vấn nạn sự dữ liên quan đến dự
án thần linh của Thiên Chúa:
·
“Để hiểu tội lỗi là ǵ, người ta trước hết
phải nhận thức được mối liên hệ sâu xa giữa con
người và Thiên Chúa, v́ chỉ ở trong
mối liên hệ này sự dữ về tội lỗi mới bị lột trần
bộ mặt thật của ḿnh ra như là việc con người
phủ nhận Thiên Chúa và là việc con người chống
lại Ngài, thậm chí nó vẫn c̣n tiếp tục đè nặng
trên cuộc sống và lịch sử nhân loại”. (số
386)
·
“Chỉ có ánh sáng Mạc Khải thần linh mới có
thể làm sáng tỏ thực tại tội lỗi, nhất là tội
lỗi con người vấp phạm ngay từ đầu.
Không được Mạc Khải tỏ cho biết về Thiên Chúa,
chúng ta không thể nhận thức được tội lỗi một
cách rơ ràng, và có chiều hướng cắt nghĩa nó
thuần túy như là một hụt hẫng về phương diện
phát triển, một yếu kém về mặt tâm lư, một sai
lầm hay là một hậu quả tất yếu của cơ cấu tổ
chức què quặt nơi xă hội v.v. Chỉ khi nào
nhận thức được dự án của Thiên Chúa đối với con
người, chúng ta mới có thể thấu triệt được rằng,
tội lỗi là việc lạm dụng tự do Thiên Chúa ban
cho con người tạo vật, một tự do nhờ đó họ có
thể yêu mến Ngài và yêu thương nhau”.
(số 387)
·
“Thiên Chúa đă dựng nên con người theo h́nh
ảnh Ngài và đă đặt họ vào trong mối thân hữu với
Ngài. Là một tạo vật thuộc linh, con người có
thể sống mối thân hữu này chỉ bằng việc tự do
thuận phục Thiên Chúa mà thôi. Việc cấm ăn ‘trái
cây biết lành biết dữ’ có ư là: ‘ngày mà các
ngươi ăn nó các ngươi sẽ bị chết’ (Gen
2:17).
‘Cây biết lành biết dữ’ (Gen
2:17)
tiêu biểu gợi lên cho thấy các giới
hạn không thể vượt qua, các giới hạn, là một thụ
tạo, con người phải tự ư chấp nhận và tôn trọng
bằng một ḷng tin tưởng. Con
người phải lệ thuộc vào Đấng Hóa Công và phải
chấp nhận các lề luật của thiên nhiên cũng như
các qui luật về luân lư chi phối việc con người
sử dụng tự do của ḿnh”. (số 396)
Sau nữa, vấn nạn sự dữ liên quan đến công
cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô:
·
“… Chúng ta phải biết Chúa Kitô là nguồn mạch
của ân sủng th́ mới biết được Adong là nguồn
mạch của tội lỗi. Vị Thần Linh Huấn Dụ, được
Chúa Kitô phục sinh sai đến là để ‘làm cho thế
gian nhận thức được tội lỗi’ (Jn
16:8),
bằng việc Ngài tỏ ra cho thế gian thấy Đấng Cứu
Chuộc của nó”.
(số 388)
·
“Như thế, tín lư về nguyên tội là ‘mặt trái’
của Tin Mừng về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của
tất cả mọi người, về việc tất cả mọi người cần
được cứu độ, và về việc ơn cứu độ được hiến ban
cho tất cả mọi người qua Chúa Kitô…” (số
389)
·
“Thánh kinh đă chứng tỏ cho thấy ảnh hưởng khiếp
khủng của một tên được Chúa Giêsu gọi là ‘tay
sát nhân ngay từ ban đầu’, thậm chí hắn muốn lái
cả Chúa Giêsu đi trệch ra khỏi sứ vụ do Cha ủy
thác cho Người nữa (Jn
8:44; xem Mt 4:1-11).
‘Lư do Con Thiên Chúa xuất hiện là để hủy
hoại các việc làm của ma quỉ’ (1Jn
3:8).
Việc làm gây tai hại nhất của ma quỉ là việc
dụ dỗ dối trá khiến cho con người bất phục tùng
Thiên Chúa”. (số
394)
Sau hết, vấn nạn sự dữ liên quan đến ảnh
hưởng của thần dữ tác dụng trên con người:
·
“Ở đằng sau việc hai vị cha mẹ tiên khởi
của chúng ta tự ư tỏ ra bất phục tùng là
một tiếng nói, phát xuất từ nỗi ghen tuông, đă
cám dỗ họ chống lại Thiên Chúa, làm cho họ rơi
vào sự chết (xem
Gen 3:1-5; Wis 2:24).
Thánh Kinh và Thánh Truyền của Giáo Hội thấy
được nơi sự kiện này việc có mặt của vị thiên
thần sa ngă được gọi là ‘Satan’ hay là ‘ma quỉ’
(xem
Jn 8:44; Rev 12:9)…”.
(số 391)
·
“Thánh Kinh đă nói đến tội lỗi của các vị
thiên thần này (xem
2Pt 2:4).
Việc ‘sa phạm’ ấy hệ tại việc tự quyết của
các vị thần thụ tạo này, thành phần đă nhất định
và dứt khoát phủ nhận Thiên Chúa cùng với vương
quốc của Ngài. Chúng ta thấy cuộc phản
loạn ấy phản ánh nơi những lời của tên cám dỗ
nói với hai vị cha mẹ tiên khởi của chúng ta:
‘Các ngươi sẽ nên giống như Thiên Chúa’ (Gen
3:5).
Ma quỉ ‘đă phạm tội ngay từ ban đầu’; hắn là
‘tên gian trá và là cha của các sự giả dối’ (1Jn
3:8; Jn 8:44)”
(số 392)
·
“Bị ma quỉ cám dỗ, con người để cho ḷng
tin tưởng của ḿnh nơi Tạo Hóa chết đi trong tâm
hồn của ḿnh, và đă lạm dụng tự do để tỏ ra bất
phục tùng mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là điều
gói ghém nơi tội lỗi đầu tiên của con người
(Xem
Gen 3:1-11; Rm 5:19).
Tất cả tội lỗi sau này đều là việc tỏ ra bất
phục tùng Thiên Chúa, cũng như tỏ ra thiếu tin
tưởng vào ḷng thiện hảo của Ngài”. (số
397)
·
“Nơi tội lỗi ấy, con người coi trọng ḿnh hơn
Thiên Chúa, và chính v́ thế đă tỏ ra khinh dể
Ngài. Họ đă lấy ḿnh hơn Thiên Chúa và
đặt ḿnh phản nghịch lại với Thiên Chúa, nghịch
lại với những đ̣i hỏi của thân phận ḿnh là thụ
sinh, và bởi thế nghịch lại với cả thiện ích của
ḿnh nữa. Được dựng nên trong t́nh trạng
thánh thiện, theo như dự định của Thiên Chúa,
con người sẽ được hoàn toàn ‘thần linh hóa’
trong vinh quang. Bị ma quỉ dụ dỗ, họ muốn
‘trở nên như Thiên Chúa’, nhưng ‘ngoài Thiên
Chúa, trước Thiên Chúa, và không hợp với Thiên
Chúa’ (Thánh
Maximô Giải Tội, Ambigïua: PG 91, 1156C;
xem Gen 3:5)”.
(số
398)
3-
“TỘI CỦA ADONG LÀM SAO LẠI TRỞ THÀNH TỘI CỦA TẤT
CẢ CON CHÁU ÔNG ĐƯỢC?”
(SGL số 404)
Để dẫn giải vấn đề tội tổ tông truyền, Giáo
Lư của Giáo Hội Công Giáo trước hết đă cho
thấy những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên
tội, sau đó mới xác định thực tại của tội tổ
tông truyền, và sau hết đề cập đến tác dụng của
thực tại nguyên tội.
Những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội:
·
“Thánh Kinh đă phác họa những hậu quả thảm khốc
của việc bất phục tùng tiên khởi này. Adong và
Evà lập tức mất đi ơn thánh thiện nguyên thủy
(xem
Rm 3:23).
Họ trở nên sợ hăi Thiên Chúa là Đấng họ
có một h́nh ảnh méo mó về Ngài – h́nh ảnh của
một vị Thiên Chúa ghen tương về đặc quyền của
ḿnh (xem
Gen 3:5-10)”
(số
399)
·
“Mối ḥa hợp họ thấy nơi chính bản thân ḿnh,
nhờ t́nh trạng công chính nguyên thủy, giờ đây
đă bị hủy hoại, ở chỗ, việc làm chủ thân
xác do các quan năng tinh thần con người thực
hiện đă bị mất đi; mối hiệp nhất giữa người
nam và người nữ bị căng thẳng, do đó, mối
liên hệ của họ với nhau mang dấu vết nhục dục và
thống trị (xem
Gen 3:7-16).
Mối ḥa hợp với tạo vật cũng bị sụp đổ, ở
chỗ tạo vật hữu h́nh đă trở nên xa lạ với con
người và quay ra thù nghịch con người (xem
Gen 3:17,19).
V́ con người mà tạo vật giờ đây cũng bị ‘lụy
thuộc vào sự hư nát’ (Rm
8:21).
Sau hết, việc con người bất phục tùng có một hậu
quả rơ ràng sẽ được nên trọn, đó là việc con
người sẽ ‘trở về với bụi đất’ (Gen
3:19, 2:17),
v́ họ đă bởi đấy mà ra. Sự chết đă đột nhập vào
thế gian (xem
Rm 5:12)”
(số
400)
Thựïc tại của tội tổ tông truyền:
·
“Sau tội đầu tiên ấy, thế giới thực sự đă bị
tràn ngập bởi tội lỗi. Nào tội Cain giết Aben em
ḿnh và t́nh trạng băng hoại chung lan ra bởi
tội lỗi. Cũng thế, tội lỗi thường được lộ diện
nơi lịch sử dân Yến Duyên, nhất là qua h́nh thức
bất trung với Vị Thiên Chúa của Giao Ước, cũng
như qua h́nh thức vi phạm Lề Luật Moisen. Thậm
chí sau khi Chúa Kitô đă đền bồi tội lỗi rồi,
tội lỗi cũng vẫn ngóc đầu lên bằng vô số h́nh
thức nơi thành phần Kitô hữu (xem
Gen 4:3-15, 6:5,12; Rm 1:18-32; 1Cor 1-6; Rev
2-3).
Thánh Kinh và Truyền Thống của Giáo Hội tiếp tục
nhắc nhở về việc hiện diện cũng như về tính
cách phổ quát của tội lỗi nơi lịch sử con người”.
(số
401)
·
“Tất cả mọi người đều bị bao hàm nơi tội lỗi
của Adong, như Thánh Phaolô khẳng định (Rm
5:12,19)...”
(số 402)
·
“Theo Thánh Phaolô, Giáo Hội vẫn luôn luôn dạy
rằng, t́nh trạng đầy những khốn khổ đè xuống
trên con người và khuynh hướng hạ của con người
chiều theo sự dữ cùng sự chết, sẽ không thể nào
hiểu được nếu không liên kết chúng với tội lỗi
của Adong, cũng như với sự kiện là ông đă truyền
cho chúng ta một thứ tội lỗi, mà khi sinh ra
chúng ta đă bị lây nhiễm, một thứ tội là ‘cái
chết của linh hồn’ (Công
Đồng Triđentinô: DS 1512)...”.
(số
403)
·
“... Toàn thể loài người nơi Adong ‘như là
một thân thể của một người’ (Thánh
Tôma Aquinô, De Malo 4,1).
Bởi ‘mối hiệp nhất của loài người’ này mà tất
cả mọi người đă bị bao hàm nơi tội lỗi của
Adong, cũng như tất cả đă được bao hàm nơi đức
công chính của Chúa Kitô vậy. Dầu sao việc
truyền lại của nguyên tội là một mầu nhiệm chúng
ta không thể nào hoàn toàn hiểu được. Thế nhưng,
nhờ Mạc Khải, chúng ta chắc chắn biết được rằng
Adong đă lănh nhận ơn thánh thiện nguyên thủy
và công chính không phải cho một ḿnh ông, mà là
cho tất cả loài người. Qua việc chiều theo tên
cám dỗ, Adong và Evà đă phạm tội cá nhân, song
tội này đă ảnh hưởng đến bản tính nhân loại được
họ truyền lại trong một t́nh trạng đồi bại (xem
Công Đồng Triđentinô: DS 1511-1512).
Nó là một thứ tội được truyền lại cho tất cả
loài người qua việc truyền đạt, tức truyền đạt
một bản tính loài người đă bị mất đi t́nh trạng
thánh thiện và công chính nguyên thủy. Đó là
lư do tại sao nguyên tội chỉ được gọi là
‘tội’ theo nghĩa so sánh, tức là một tội chúng
ta ‘vướng mắc’ chứ không phải là tội ‘vấp phạm’
– một trạng thái chứ không phải là một tác
động”. (số
404)
Tác dụng của thực tại nguyên tội:
·
“Mặc dù xứng hợp với mỗi một người (xem
Công Đồng Triđentinô: DS 1513),
nguyên tội cũng không có đặc tính của một lầm
lỗi cá nhân nơi bất cứ một ai thuộc gịng dơi
Adong. Nó là việc hụt hẫng t́nh trạng thánh
thiện và công chính nguyên thủy, song bản tính
loài người không hoàn toàn bị hư hoại, tức là nó
chỉ bị thương nơi các khả năng hợp với ḿnh; bị
tối tăm về tâm trí, bị khổ đau và bị sự chết làm
chủ; cũng như theo hướng chiều về tội lỗi – một
hướng chiều về sự dữ được gọi là ‘đam mê nhục
dục’. Qua việc ban phát sự sống nhờ ân sủng
của Chúa Kitô, phép rửa xóa bỏ nguyên tội và qui
hướng con người về lại cùng Thiên Chúa, thế
nhưng, các hậu quả đối với một bản tính đă bị
yếu nhược và hướng chiều về tội lỗi vẫn c̣n tồn
tại nơi con người, kêu gọi con người đến một
cuộc chiến đấu thiêng liêng”.
(số 405)
·
“Sau khi sa ngă, con người vẫn không bị Thiên
Chúa ruồng bỏ. Trái lại, Thiên Chúa đă kêu gọi
con người, và một cách kín nhiệm, đă loan báo
việc chiến thắng sự dữ xẩy ra và việc con người
phục hồi t́nh trạng sa ngă của ḿnh (xem
Gen 3:9,15).
Đoạn văn này trong Sách Khởi Nguyên được gọi là
Protoevangelium (‘phúc âm tiên khởi’), tức là
lời loan báo đầu tiên về Đấng Thiên Sai và Cứu
Chuộc, về trận chiến giữa con rắn và Người Nữ,
cũng như về cuộc chiến thắng sau cùng của gịng
dơi Người Nữ” (số
410)
4-
“TẠI SAO THIÊN CHÚA KHÔNG NGĂN CHẶN CON NGƯỜI
ĐẦU TIÊN CHO KHỎI SA NGĂ PHẠM TỘI?”
(số 412)
Để giải đáp cho vấn nạn “Tại sao Thiên Chúa
không ngăn chặn con người đầu tiên cho khỏi sa
ngă phạm tội?”, dựa vào lời các Thánh,
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo đă chủ trương
là v́ Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thiện hảo
muốn ban cho con người nhiều phúc lành hơn và
muốn làm cho con người nên cao trọng hơn.
·
“Thánh
Lêô Cả đă trả lời là ‘ân sủng khôn tả của Chúa
Kitô đă ban cho chúng ta các phúc lành c̣n hơn
cả những phúc lành đă bị ma qủi v́ ghen tương
lấy đi mất’
(sermo
73, 4: PL 54, 396).
Thánh Tôma Aquinô viết:
Không có một sự ǵ ngăn cản được việc bản tính
của con người được nâng lên tới một cái ǵ đó
cao cả hơn; Thiên Chúa cho phép sự dữ xẩy ra để
từ đó rút ra một sự lành nào đó lớn lao hơn.
Bởi thế, Thánh Phaolô đă nói ‘ở đâu tội tràn lan
th́ ở đó ân sủng càng dồi dào; và Bản Vui Ca Lên
trong Đêm Phục Sinh đă hát lời: ‘Ôi lỗi có phúc
... đă mang lại cho chúng ta một Đấng Cứu Chuộc
cao cả như vậy!’
(STh
III, 1, 3 ad 3; xem Rm 5:20)”.
(số 412)
TÓM LẠI
Theo Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo th́ con
người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận làm
người “được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa”
(SGL số 357, 362-366, 370), ở vai tṛ “làm
chủ trái đất” của con người (SGL số 358,
373, 371, 372), cũng như ở ơn gọi tham phần
vào sự sống thần linh của Thiên Chúa (SGL số
356, 374-378). Để thấu hiểu, nhất là để giải
đáp, vấn nạn về sự dữ bởi đâu mà có hóc búa và
nan giải đối với lư trí hạn hữu của con người
này, Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo đă phải căn
cứ vào dự án thần linh của Thiên Chúa (SGL
số 386-387, 396), vào công cuộc cứu chuộc của
Chúa Kitô (SGL số 388-389, 394), cũng như
vào ảnh hưởng của thần dữ tác dụng trên con
người (SGL số 391-392, 397-398).
Để dẫn giải vấn đề tội tổ tông truyền, Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo trước hết đă cho thấy
những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội
(SGL số 399-400), sau đó mới xác định thực
tại của tội tổ tông truyền (SGL số 401-404),
và sau hết đề cập đến tác dụng của thực tại
nguyên tội (SGL số 405, 410). Và Để giải
đáp cho vấn nạn “Tại sao Thiên Chúa không ngăn
chặn con người đầu tiên cho khỏi sa ngă phạm tội?”,
dựa vào lời các Thánh, Giáo Lư của Giáo Hội Công
Giáo đă chủ trương là v́ Thiên Chúa vô cùng khôn
ngoan và thiện hảo muốn con người được hạnh phúc
và cao trọng hơn (SGL số 412).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1-
“Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa”
(Gen 9:6), một “Thiên Chúa vô h́nh” (Col
1:15), con người tự nhiên của tôi cũng phải luôn
luôn t́m kiếm Sự Thật bằng lư trí của ḿnh, khao
khát Sự Thiện bằng ḷng muốn của ḿnh, và yêu
mến Sự Mỹ bằng nhận thức khôn ngoan của ḿnh.
2-
“Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa”
(Gen 9:6), một “Thiên Chúa là ánh sáng, trong
Ngài không có tối tăm” (1Jn 1:5), con người
tâm linh của tôi cũng phải sống theo lương tâm
chân chính của ḿnh, một “con mắt là đèn soi
thân thể” (Mt 6:22).
3-
“Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa”
(Gen 9:6), một “Thiên Chúa là Thần Linh”
(Jn 4:24), con người tôn giáo của tôi cũng phải
là “những kẻ tôn thờ đích thực” (Jn
4:23), “tôn thờ trong Thần Linh và chân lư”
(Jn 4:23,24).
“Được dựng nên theo h́nh ảnh
Thiên Chúa” (Gen 9:6), một “Thiên Chúa là
t́nh yêu” (1Jn 4:8,16), con người xă hội của
tôi cũng phải sống hiệp thông với Thiên Chúa và
hiệp nhất với tha nhân, ở chỗ “kính mến Chúa
là Thiên Chúa của ḿnh hết ḷng, hết linh hồn,
hết trí khôn và hết sức lực ḿnh, cùng yêu
thương tha nhân như chính bản thân ḿnh” (Mk
12:30-31)
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL