Tinh Thần Đức Tin: Cầu Nguyện
Nếu cầu nguyện là việc "giao tiếp
với Thiên Chúa" (Lk.6:12) th́ việc Cử Hành hay
Tham Dự Phụng Vụ Thánh chính là việc cầu nguyện
đích thực và cao trọng nhất, v́ Phụng Vụ là nơi
Chúa Kitô tỏ ḿnh và ban ḿnh cho Giáo Hội, nhờ
đó, chung Giáo Hội cũng như riêng Kitô hữu có
thể gặp gỡ và hiệp thông với Chúa Kitô ở đấy.
Thế nhưng, thực tế đă cho thấy
rằng, không phải v́ Chủ Sự Cử Hành Phụng Vụ
Thánh th́ những vị được truyền Chức Thánh chắc
chắn sẽ gặp được Chúa Kitô và càng ngày càng nên
một với Người. Trái lại, một số không ít trong
các vị vẫn không t́m gặp được Người, để rồi cuối
cùng đă bỏ Người mà đi, hay có c̣n thi hành
Thánh Vụ cũng tỏ ra, một cách nào đó, hồ nghi
hay chối bỏ sự Hiện Diện Thần Linh của Người nơi
Thánh Thể, thậm chí đă chống lại Tối Thượng Giáo
Quyền của Người.
Thành phần giáo dân siêng năng
xưng tội rước lễ cũng thế. Thực tế đă cho thấy
không phải tất cả những ai siêng năng xưng tội
rước lễ đều là thánh cả đâu, trái lại, không
thiếu ǵ người trong họ đă sống không hơn ǵ dân
ngoại và những người tội lỗi, ở chỗ họ chỉ biết
yêu những người yêu ḿnh, chào những người chào
ḿnh mà thôi (x.Mt.5:46-47), thậm chí, họ vẫn
c̣n tác hành theo phản ứng tự nhiên: "mắt đền
mắt, răng đền răng" (Mt.5:38), khiến cho người
ta có thể hồ nghi việc Tham Dự Phụng Vụ Thánh
của họ có một cái ǵ đó không thật, không hoàn
toàn làm v́ ư hướng ngay lành
(x.Mt.6:2-3,6-7,17-18).
Tại sao thế? Tại sao lại có
chuyện con người Chủ Sự hay Tham Dự Phụng Vụ
Thánh là Chủ Sự hay Tham Dự vào một Thực Tại
Thần Linh vô cùng cao cả mà lại c̣n có thể sống
trần tục như vậy? Không phải hay sao, tại v́
thành phần Chủ Sự hay siêng năng Tham Dự Phụng
Sự Thánh này, như Chúa Kitô đă nói với nhóm
người Pharisiêu, "chỉ thờ kính Ta bằng môi bằng
miệng, c̣n ḷng họ th́ xa Ta" (Mt.15:8).
Đúng thế, Chúa Kitô đă giải thích
cho người phụ nữ Samaritanô biết rằng: "Thiên
Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Ngài phải
tôn thờ trong Thần Linh và chân lư" (Jn.4:24).
V́ Người đă xác quyết: "Thật vậy, đó chính là
những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm"
(Jn.4:23).
Sau đây là phần tŕnh bày về việc
cầu nguyện, cầu nguyện trong Thần Linh và cầu
nguyện trong chân lư. Cũng giống như các phần
khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi
vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
Cầu Nguyện trong Thần Linh
Xác Tín
Cầu Nguyện trong
Thần Linh là việc Kitô hữu được Chúa Thánh Thần
tác động để nhận biết Cha là Thiên Chúa chân
thật duy nhất.
Mạc Khải
"Gió muốn thổi đâu th́ thổi. Ông
nghe được tiếng của nó, song ông không biết nó
từ đâu đến và sẽ đi đâu. Kẻ được sinh bởi Thần
Linh cũng như vậy" (Jn.3:8).
"Vào lúc ấy, Chúa Giêsu hân hoan
trong Thánh Thần mà nói: 'Con xin chúc tụng Cha,
Ôi lạy Cha là Chúa trời đất, v́ điều Cha giấu kẻ
hiểu biết và kẻ khôn lanh th́ Cha lại tỏ ra cho
những con trẻ hèn mọn nhất biết'" (Lk.10:10:21).
"Cả Thần Linh cũng trợ giúp chúng
ta nơi nỗi yếu hèn của chúng ta, v́ chúng ta
không biết phải cầu nguyện làm sao cho phải th́
chính Thần Linh lại chuyển cầu cho chúng ta bằng
những lời than khôn tả" (Rm.8:26).
Nhận Thức
Thật ra, nếu cầu nguyện là giao
tiếp với Thiên Chúa th́ sống đời Kitô hữu là
sống đời cầu nguyện. Bởi v́, kể từ khi lănh nhận
Bí Tích Rửa Tội, Kitô hữu đă được thông hiệp với
Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa, do đó, được
sống chính Sự Sống của Thiên Chúa, một Sự Sống
Ngài đă ban cho con người qua Con Một tự hiến
của Ngài là Lời nhập thể. Như thế, nhờ Thánh
Sủng là "quyền trở nên con Thiên Chúa"
(Jn.1:12), tạo vật được liên lỉ giao tiếp với
Thiên Chúa là Thần Linh, Đấng ở cùng tạo vật của
Ngài như Cha với con. Theo ư nghĩa này th́ "cầu
nguyện là sống t́nh con cái với Thiên Chúa là
Cha của ḿnh" (Đời Cầu Nguyện, Cao-Bùi 1992,
trang 15), hay "đời cầu nguyện là đời sống trong
Ơn Nghĩa Chúa" (cùng sách trên, trang 129).
Thế nhưng, thành phần tạo vật "được
tái sinh bởi trên cao" (Jn.3:3) mang danh Kitô
hữu này, tự ḿnh, cũng không thể cảm nghiệm được
Thiên Chúa là Cha đang thực sự hiện diện trong
tâm hồn của họ, Đấng hằng muốn tỏ ḿnh ra qua
cuộc đời của họ, để làm cho họ có thể sống động
và phát triển Sự Sống Đời Đời là nhận biết Ngài
như "Ta Là Ta" (Ex.3:14), nếu không có "Thánh
Thần là Đấng được ban cho chúng ta" (Rm.5:5): "Cách
thức chúng ta biết rằng chúng ta ở lại trong
Ngài (Thiên Chúa) và Ngài ở trong chúng ta là
bởi Ngài đă ban Thần Linh của Ngài cho chúng ta"
(1Jn.4:13). Đó là lư do mà "tất cả những ai được
Thần Linh của Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái
Thiên Chúa" (Rm.8:14), hay nói một cách bóng bẩy
hơn, theo kiểu của lời Chúa Kitô diễn giải cho
ông Nicôđêmô biết là: "gió muốn thổi đâu th́
thổi. Ông nghe được tiếng của nó, song ông không
biết nó từ đâu đến và sẽ đi đâu. Kẻ được sinh
bởi Thần Linh cũng như vậy" (Jn.3:8).
Đúng thế, chính v́ "Thiên Chúa là
Thần Linh mà những ai tôn thờ Ngài cũng phải tôn
thờ trong Thần Linh" (Jn.4:24), bằng không,
không một tạo vật nào nói chung và con người tạo
vật nói riêng có thể tôn thờ Thiên Chúa một cách
đích thực hay đích đáng (x.Jn.4:23). Chính v́
không một tạo vật nào, trong đó có con người, có
thể tôn thờ "Thiên Chúa là Thần Linh" một cách
đích thực hay đích đáng mà Thiên Chúa đă ban
Thần Linh của Ngài cho tạo vật. Không phải hay
sao, từ khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội, Kitô hữu
được Thiên Chúa ở với họ bằng Thần Linh của Ngài:
"Anh em không biết rằng anh em là đền thờ của
Thiên Chúa, và biết rằng Thần Linh của Thiên
Chúa ngự trong anh em hay sao?" (1Cor.3:16).
Chính nhờ có Thần Linh của Thiên
Chúa ở nơi ḿnh mà Kitô hữu mới có quyền và có
thể "kêu lên 'Abba' - (tức là 'Lạy Cha')"
(Rm.8:15). Bởi v́, "chính Thần Linh chứng tỏ cho
tâm linh của chúng ta rằng chúng ta là con cái
của Thiên Chúa" (Rm.8:16). Thực vậy, tác động
của Thần Linh Thiên Chúa ở nơi Kitô hữu chỉ là
việc chứng tỏ cho họ thấy được rằng họ là con
cái Thiên Chúa, tức là làm cho họ thực nghiệm
được thân phận của họ là thân phận của một người
con Thiên Chúa, thân phận của "những kẻ thừa
hưởng của Thiên Chúa, những kẻ đồng thừa hưởng
cùng với Chúa Kitô" (Rm.8:17).
Để rồi, nhờ chứng thực ḿnh là
con cái Thiên Chúa hết sức sâu xa này, họ sẽ trở
thành một kẻ tôn thờ "Thiên Chúa là Thần Linh",
Cha trên trời của ḿnh, một cách đích thực và
đích đáng. Cho dù, một lúc nào đó trong đời, họ
có trở thành một đứa con hoang đường phung phá
hết gia tài sự nghiệp (x.Lk.15:13) vào cuộc sống
buông tuồng phóng túng theo đam mê lăng loàn của
họ, gia tài mà họ đă xin Thiên Chúa là Cha chia
cho họ (x.Lk.15:12) khi họ t́nh nguyện lănh nhận
Bí Tích Rửa Tội đi nữa, cuối cùng, nghĩ lại thân
phận của ḿnh là đứa con thừa tự trong nhà Cha
(x.Lk.15:17), họ cũng sẽ lên đường trở về với
Cha của ḿnh (x.Lk.15:20).
Thế nhưng, Thần Linh của Thiên
Chúa ở trong Kitô hữu chỉ "chứng tỏ" cho Kitô
hữu thấy thân phận họ là con cái Thiên Chúa qua
"tâm linh" của họ mà thôi. Do đó, họ rất dễ bị
lầm tưởng hay ngộ nhận tác động này của Thần
Linh Thiên Chúa nơi họ khi họ nổi hứng tác hành
theo cảm t́nh tự nhiên hay "theo phán đốn loài
người" (Mt.16:23). Thế nên, cũng có thể nói
thành phần tôn thờ đích thực là thành phần "tôn
thờ Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và
chân lư".
"Tinh thần" ở đây không là ǵ
khác ngoài "tâm linh" con người, phần cơ cấu nội
tại nơi con người, yếu tố làm cho con người
giống h́nh ảnh "Thiên Chúa là Thần Linh", chẳng
những là nơi Thần Linh Thiên Chúa ngự trị mà c̣n
là chính đối tượng trực tiếp để Ngài tác động,
làm cho họ cảm thức được thân phận của họ trong
việc làm con cái Thiên Chúa là Cha.
Chính nhờ phần "tinh thần" hay
"tâm linh" là nơi và là đối tượng để Thần Linh
Thiên Chúa tác động này mà con người mới có thể
"nghe được tiếng gió". "Nghe được tiếng gió" đây
không phải là một cảm nhận thụ động, ngược lại,
nó là một cảm thức chủ động, tức là một đáp ứng
theo tác động của Thần Linh Thiên Chúa ở trong
ḿnh, đến nỗi, cảm thức này hay đáp ứng này có
thể bộc phát thành "những lời than khôn tả"
(Rm.8:26), như trường hợp của Mẹ Maria, khi Mẹ
dâng lời "Ngợi Khen" rằng: "Thần trí tôi hân
hoan trong Thiên Chúa Đấng Cứu Chuộc tôi"
(Lk.1:47).
Tuy nhiên, để "nghe được tiếng
gió", tức để nhận thức được tác động của Thần
Linh Thiên Chúa ở trong ḿnh, Kitô hữu phải có
một tinh thần đơn sơ dễ dậy như con trẻ nữa mới
được, bằng không, dù Thần Linh Thiên Chúa có tác
động đến đâu đi nữa, theo kinh nghiệm sống đạo
cho thấy, tự ḿnh, họ cũng không thể nào nghe
thấy tiếng thổi như gió thoảng hết sức nhẹ nhàng
của Ngài (x.1Kgs.19:12). Hơn thế nữa, v́ "nghe
được tiếng gió" là một cảm thức chủ động hơn là
một cảm nhận thụ động, như trên đă nói, mà Kitô
hữu chẳng những phải có tinh thần đơn sơ dễ dậy
như con trẻ mà cần có cả tinh thần tin tưởng phó
thác của trẻ thơ nữa, cho "gió muốn thổi đâu th́
thổi", họ không cần biết "gió từ đâu đến và sẽ
đi đâu". Tinh thần tin tưởng phó thác này được
thể hiện trọn vẹn nhất qua đức "tuân phục nơi
những ǵ phải chịu" (Heb.5:8), cho dù có "chết
và chết trên thập giá" (Phil.2:8) như Chúa Kitô
đi nữa.
Như thế, "tôn thờ Thiên Chúa là
thần linh trong tinh thần" ở đây không phải chỉ
là tinh thần theo cơ cấu nội tại nơi con người,
một yếu tố làm cho con người giống h́nh ảnh
"Thiên Chúa là Thần Linh", một đền thờ cho Thần
Linh Thiên Chúa ngự trị, một đối tượng cho Thần
Linh Thiên Chúa tác động, tinh thần ở đây c̣n có
thể hiểu được là những đáp ứng của "tâm linh"
con người theo tác động của Thần Linh Thiên
Chúa, những đáp ứng theo tinh thần của một trẻ
thơ, đơn sơ dễ dậy và hoàn toàn tin tưởng phó
thác, những đáp ứng của một đứa con không bao
giờ dám cố t́nh làm mất ḷng cha mẹ của ḿnh,
trái lại, luôn làm đẹp ḷng các ngài trong mọi
sự.
Một khi Kitô hữu giao tiếp với "Thiên
Chúa là Thần Linh" như thế, một giao tiếp "trong
Thần Linh" là Đấng ngự trong họ, Đấng chứng tỏ
cho họ biết họ là con cái của "Cha trên trời"
(Mt.5:48), cũng là một giao tiếp "trong tinh
thần" đơn sơ dễ dậy, hoàn toàn tin tưởng phó
thác như trẻ thơ cho tác động của Thần Linh, sẵn
sàng và mau mắn vâng phục Ngài trong tất cả mọi
sự, người Kitô hữu "sinh bởi Thần Linh" (Jn.3:8)
này chắc chắn sẽ trở nên một Chúa Kitô khác,
Đấng đă được Cha tuyên nhận: "Con là Con Cha yêu
dấu. Cha hài ḷng về Con" (Mk.1:11).
Nếu "nghe thấy tiếng gió" là yếu
tố thiết yếu để có thể giao tiếp với "Thiên Chúa
là Thần Linh" như thế th́ cầu nguyện chính là
ḷng khát vọng "vọt lên sự sống đời đời"
(Jn.4:14) theo tác động của Thần Linh để nhận
biết Thiên Chúa là "Cha chúng con ở trên trời"
(Mt.6:9). Việc Cử Hành Đức Tin sẽ làm cho vị Chủ
Sự hay người Tham Dự Phụng Vụ Thánh "vọt lên sự
sống đời đời", nếu họ biết sống Tinh Thần Đức
Tin là Cầu Nguyện này.
Cầu Nguyện trong Chân Lư
Xác Tín
Cầu Nguyện trong
chân lư là việc Kitô hữu nhận biết Đấng Cha sai
là Đức Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần là Thần
Chân Lư truyền đạt cho họ những ǵ Ngài lấy từ
Chúa Kitô.
Mạc Khải
"Ai vâng giữ các mệnh lệnh mà họ
nhận lănh từ Thày họ là kẻ yêu mến Thày, mà ai
yêu mến Thày sẽ được Cha Thày yêu mến. Thày cũng
yêu họ nữa và tỏ ḿnh ra cho họ" (Jn.14:21).
"Ai yêu mến Thày th́ sẽ giữ lời
Thày, và Cha Thày sẽ yêu mến họ' Chúng Ta sẽ đến
với họ và ở với họ" (Jn.14:22).
"Nếu các con sống trong Thày, và
những lời của Thày ở với các con, th́ các con
xin điều ǵ các con muốn, các con sẽ được như
thế" (Jn.15:7).
Nhận Thức
"Thiên Chúa là Thần Linh" muốn
những ai tôn thờ Ngài cách đích thực và đích
đáng chẳng những họ phải tôn thờ Ngài "trong
Thần Linh" mà c̣n "trong chân lư" (Jn.4:24) nữa.
Bởi v́, kinh nghiệm sống đạo đă cho thấy, có
những trường hợp khởi đầu từ Chúa song lại kết
thúc ngoài Chúa, không qui về Chúa, Đấng chẳng
những là nguyên ủy c̣n là cùng đích (x.Rev.
21:6) của tất cả mọi tạo vật cũng như của hết
mọi sự. Không phải hay sao, điển h́nh là trường
hợp của "nhiều môn đệ", một cách nào đó tùy hoàn
cảnh của mỗi người, được Chúa gọi theo Chúa,
nghĩa là được bắt đầu từ Chúa, từ Đấng đă chọn
họ chứ không phải họ chọn Người (x.Jn.15:16),
song lại tự "bỏ đi không thuộc về nhóm của Người
nữa" (Jn.6:66), nghĩa là họ kết thúc ngoài Chúa,
chỉ v́ họ không chấp nhận được lời của Chúa
(x.Jn.6:60).
Vâng, "Thiên Chúa là Thần Linh,
nên những kẻ tôn thờ Ngài phải tôn thờ trong
Thần Linh và trong chân lư" (Jn.4:24), "đó mới
là những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm"
(Jn.4:23). Nếu thật sự "những kẻ tôn thờ đích
thực mà Cha t́m kiếm" tôn thờ Thiên Chúa là Thần
Linh hoàn toàn và thực sự "trong Thần Linh",
bằng tinh thần "như trẻ nhỏ" (Mt.18:3), một tinh
thần đơn sơ dễ dậy, đầy tin tưởng phó thác với
thái độ tuân phục trọn lành, th́ chắc chắn Thần
Linh, cũng là "Thần Linh Chân Lư" (Jn.16:13),
Đấng ở trong họ, sẽ dẫn họ vào "tất cả sự thật"
(Jn.16:13) là tất cả mạc khải Thiên Chúa tỏ ra
trong Đức Giêsu Kitô.
Chính nhờ Thần Linh "là Thần Chân
Lư, Ngài sẽ dẫn vào tất cả sự thật" như thế mà "những
kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm" mới có thể
hiểu thấu lời của Chúa Giêsu, những lời mà chính
các Thánh Tông Đồ là thành phần chứng nhân tiên
khởi của Người cũng "không thể thấu triệt"
(Jn.16:12), dù có được Chúa Giêsu coi như bạn
hữu và đă tỏ cho các ngài biết tất cả những ǵ
Người đă nghe thấy nơi Cha của Người
(x.Jn.15:15).
Một khi hiểu được lời của Chúa
Giêsu th́ "những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m
kiếm" cũng hiểu được tất cả những ǵ Thiên Chúa
muốn mạc khải cho chung con người cũng như cho
riêng Giáo Hội của Chúa Kitô, đúng như Chúa Kitô
tâm sự với các Thánh Tông Đồ trong Bữa Tiệc Ly:
"Những lời Thày nói không phải bởi Thày, mà
chính Cha là Đấng ở trong Thày hoàn tất các công
việc của Ngài" (Jn.14:10).
Nhờ thế, nhờ hiểu được "tất cả sự
thật" là những ǵ Thiên Chúa muốn mạc khải cho
họ "trong Thần Linh", "những kẻ tôn thờ đích
thực mà Cha t́m kiếm" mới đạt đến một tŕnh độ
chiêm niệm tuyệt đỉnh, một tŕnh độ như "được
mang lên tầng trời thứ ba... để nghe thấy những
lời không thể thốt ra được, những lời không ai
nói được" (2Cor.12:2,3). Bởi thế, theo hạnh các
thánh kể lại, mới có những vị thánh được ơn ngất
trí xuất thần, có trường hợp siêu việt đến nỗi
thân xác của các ngài được nâng lên khỏi mặt đất,
một dấu hiệu thần lực làm chủ thế lực, sự sống
chế ngự sự chết, như trường hợp được Vị Tông Đồ
Dân Ngoại cảm nhận và diễn tả như sau: "Tôi biết
có một người ở trong Chúa Kitô, một người mà 14
năm trước đây, ở trong hay ngoài thân xác tôi
không sao nói được, chỉ có Thiên Chúa mới biết,
một người được mang lên tầng trời thứ ba..."
(2Cor.12:2).
Đây là trạng thái thần hiệp nơi
các vị thánh hay "những kẻ tôn thờ đích thực mà
Cha t́m kiếm", một t́nh trạng con người tạo vật
thực sự "được sống sự sống viên măn hơn"
(Jn.10:10), một sự sống như Thánh Phaolô, vị
được mang lên tầng trời thứ ba, thực nghiệm và
thú nhận: "Sự sống tôi hiện sống không phải là
của tôi' mà là Chúa Kitô đang sống trong tôi.
Tôi vẫn c̣n sống sự sống nhân loại của tôi'
nhưng là một sự sống của đức tin vào Con Thiên
Chúa, Đấng đă yêu thương tôi và hiến ḿnh cho
tôi" (1Cor.2:20).
Thế nhưng, để đạt tới tŕnh độ
thần hiệp tuyệt đỉnh của cuộc sống cầu nguyện
này, theo các thánh, tiêu biểu nhất là Thánh
Gioan Thánh Giá và Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêsa
Avilla, con người tạo vật cần phải được thanh
tẩy, bằng những đêm tối tăm về đức tin. Đúng thế,
nếu cầu nguyện là giao tiếp với "Thiên Chúa là
Thần Linh", th́ tạo vật nào c̣n bất cứ một chút
phàm tục ǵ cũng không có quyền và có thể đến
gần Ngài được, như từ bụi gai cháy mà không bị
thiêu rụi Ngài đă phán với Moisen, người theo
tính ṭ ṃ muốn đến sát để xem cho rơ: "Chớ có
đến gần hơn nữa! Ngươi hăy cởi dép ở chân ngươi
ra, v́ nơi ngươi đang đứng là đất thánh"
(Ex.3:5).
Đó là lư do, trước khi lập Bí
Tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh cho các Tông
Đồ để các vị trở thành những tư tế thừa tác
trong việc Cử Hành Thánh Thể mà nhớ đến Người,
Chúa Giêsu đă phải rửa chân cho các vị, rửa cho
sạch tất cả những ǵ hèn hạ và nhỏ mọn c̣n dính
bén ở nơi mà người ta thường không lưu ư tới hay
dễ coi thường, để các vị có thể xứng đáng được
dự phần với Người (x.Jn.13:8), một dự phần chẳng
những vào trong Thiên Chức Linh Mục đời đời với
Người, mà c̣n vào trong cả sứ mạng tự hiến đầy
yêu thương của Thánh Thể Người để cho chiên được
sống và sống viên măn hơn.
Việc Chúa Giêsu rửa chân cho các
Thánh Tông Đồ để thanh tẩy các vị như thế, bề
ngoài, tuy là một việc làm cụ thể, song bề
trong, việc rửa chân này của Chúa Giêsu lại
tượng trưng cho việc Người muốn thanh tẩy tâm
linh của các Tông Đồ bằng chính lời của Người:
"Các con đă sạch nhờ lời Thày đă nói với các
con" (Jn.15:3). Để rồi, với t́nh trạng thanh
sạch thiết yếu này, các vị Tông Đồ nói riêng là
tiêu biểu và đại diện cho Giáo Hội bấy giờ, và
Kitô hữu nói chung là chi thể thuộc về thân thể
Giáo Hội sau này, mới có thể "sống trong Thày
như Thày sống trong các con" (Jn.15:4). Mà "ai
sống trong Thày và Thày sống trong họ th́ người
ấy sẽ sinh muôn vàn hoa trái" (Jn.15:5).
Lời Chúa có một tác dụng thanh
tẩy và biến đổi con người như vậy, làm cho con
người dần dần được Thần Linh Thiên Chúa "dẫn vào
tất cả sự thật" là chính Chúa Kitô, mạc khải của
Thiên Chúa, để Chúa Kitô có thể sống trong họ,
mà tiếp tục cuộc tự hiến của Người cho nhiệm thể
của Người là Giáo Hội được lớn lên trong Người,
hầu thế gian nhờ đó nhận biết Người. Thế nên,
lời Chúa "là Thần Linh và là sự sống" (Jn.6:63)
mới luôn luôn cần phải được công bố lẫn giảng
giải trong Phụng Vụ Thánh, phải được loan báo
cùng làm chứng trong công cuộc truyền bá Phúc
Âm, và phải được nắm giữ cũng như nguyện cầu
trong cuộc sống đạo của người Kitô hữu.
Về vấn đề lời Chúa "là Thần Linh
và là sự sống" cần phải được nguyện cầu trong
cuộc sống đạo của người Kitô hữu, có thể kể đến
lời Kinh Lạy Cha của Chúa Giêsu và Kinh Nhật
Tụng của Giáo Hội. Kinh Lạy Cha hoàn toàn là lời
của Chúa Giêsu dạy cầu nguyện cho các môn đệ là
thành phần theo Người, thành phần "chấp nhận
Người th́ Người ban cho được quyền trở nên con
cái Thiên Chúa" (Jn.1:12), để họ có thể cùng với
Người là Con đẹp ḷng Cha mọi đàng, "kêu lên
'Abba'" (Rm.8:15): "Lạy Cha chúng con ở trên
trời" (Mt.6:9). Kinh Nhật Tụng cũng hoàn toàn là
lời Thánh Kinh, nhất là Thánh Vịnh, được Mẹ Giáo
Hội chọn lựa và sắp xếp, xen kẽ với những lời
nguyện của chính Giáo Hội như những lời đáp lại
những ǵ Thiên Chúa nói với Giáo Hội qua Con của
Ngài (x.Heb.1:2), để trở thành một Bản Hợp Tấu
Ân T́nh Thánh giao duyên liên lỉ giữa "Thiên
Chúa là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16) với con cái được
Ngài "thừa nhận" (Rm.8:15) trong Đức Giêsu Kitô,
Lời nhập thể.
"Cầu nguyện là giao tiếp với
Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân
lư" (Đời Cầu Nguyện, Cao-Bùi 1992, trang 13,
119, 121), nên tâm nguyện mới là cầu nguyện hơn
là khẩu nguyện. Kinh Lạy Cha và Kinh Nhật Tụng,
về h́nh thức, là khẩu nguyện hơn là tâm nguyện.
Thế nhưng, khẩu nguyện nơi Kinh Lạy Cha và Kinh
Nhật Tụng mới là cầu nguyện, v́ đây chính là "những
lời than khôn tả" (Rm.8:26) tự con người không
thể nào nóí lên được (x.2Cor.12:3), những lời mà
con người được thần hiệp với Thiên Chúa không
c̣n biết nói ǵ hơn là cùng với Mẹ Maria, đệ
nhất tạo vật "trong Thần Linh và chân lư", xướng
lên: "Linh hồn tôi Ngợi Khen Thiên Chúa, và thần
trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng Cứu Chuộc
tôi" (Lk.1:46-47).
Vậy cầu nguyện c̣n là lời than
khôn tả nói lên tất cả sự thật được Thiên Chúa
mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô và được Thần Linh
truyền đạt cho Giáo Hội.