Tông Thư
“Porta Fidei - Cửa Đức Tin”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
cho Năm Đức Tin 11/10/2012-24/11/2013
Sau đây là bản tóm lược bức Tông Thư mở Năm Đức Tin
của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ban hành ngày
11/10/2011, với những trích đoạn nguyên văn tiêu
biểu và quan trọng về nội dung của văn kiện này
(người dịch tự ư phân chia văn kiện này với những
tiêu đề
cho các đoạn để dễ theo
dơi tiến tŕnh nội dung của văn kiện, kèm theo một
số phụ chú hay biệt chú riêng liên quan tới một số ư
tưởng đặc biệt của vị giáo hoàng tác giả thần học
gia).
Năm Đức Tin: Cuộc hành tŕnh tiến qua cửa đức tin
1- “Cửa Đức Tin” (Acts 14:27) bao giờ cũng
mở ra cho chúng ta, dẫn đưa chúng ta vào sự sống
hiệp thông với Thiên Chúa và mở lối vào Giáo Hội của
Người. Việc bước qua ngưỡng cửa này là những ǵ khả
dĩ khi lời Chúa được loan báo và cơi ḷng để cho
ḿnh được h́nh thành bởi ân sủng biến đổi. Việc tiến
vào qua cửa này tức là bắt đầu một cuộc hành tŕnh
kéo dài suốt cả cuộc đời. Nó bắt đầu bằng phép rửa
(cf Rm 6:4), nhờ thế chúng ta có thể thưa với Thiên
Chúa là Cha, và nó kết thúc ở cuộc vượt qua sự chết
mà vào sự sống đời đời, hoa trái của cuộc Chúa Giêsu
phục sinh, Đấng mong muốn, nhờ tặng ân Thánh Linh,
kéo tất cả những ai tin vào Người tới với vinh hiển
của Người (cf Jn 17:22). Việc tuyên xưng đức tin vào
Ba Ngôi – Cha, Con và Thánh Linh – tức là tin một
Thiên Chúa duy nhất là T́nh Yêu (cf 1Jn 4:8): Cha,
Đấng vào thời điểm viên trọn đă sai Con của Ngài đến
cho phần rỗi của chúng ta; Chúa Giêsu Kitô, Đấng
trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của ḿnh, đă cứu
chuộc thế giới; Thánh Linh, Đấng dẫn Giáo Hội qua
các thế kỷ trong khi chúng ta trông đợi cuộc trở lại
vinh quang của Chúa.
2- Từ khi bắt đầu thừa tác vụ Thừa Kế Thánh
Phêrô, tôi đă từng nói đến nhu cầu cần phải tái nhận
thức cuộc hành tŕnh đức tin để chiếu giăi ánh sáng
rạng ngời hơn nữa về niềm vui và ḷng nhiệt thành
mới mẻ của cuộc gặp gỡ Chúa Kitô. Trong bài giảng Lễ
đăng quang giáo triều của ḿnh, tôi đă nói rằng:
“Giáo Hội nói chung và tất cả các vị Chủ Chiên của
Giáo Hội, như Chúa Kitô, cần phải bắt đầu dẫn dân
chúng băng qua sa mạc mà đến chốn sự sống, đến mối
thân t́nh với Con Thiên Chúa, đến với Đấng ban cho
chúng ta sự sống và là một sự sống dồi dào” [Homily
for the beginning of the Petrine Ministry of the
Bishop of Rome
(24 April 2005): AAS 97 (2005), 710.].
Thường xẩy ra là Kitô hữu quan tâm hơn tới những
thành quả về xă hội, văn hóa và chính trị trong việc
dấn thân của họ, tiếp tục nghĩ đến đức tin như là
một thứ giả định hiển nhiên đối với cuộc sống trong
xă hội. Thực ra, cái giả định này chẳng những không
c̣n là những ǵ được công nhận nữa, trái lại, nó c̣n
thường bị công khai chối từ [Cf. Benedict
XVI,
Homily at Holy Mass in Lisbon’s
“Terreiro do Paço”
(11 May 2010): Insegnamenti VI:1 (2010), 673.].
Trong quá khứ người ta có thể công nhận một cấu trúc
thống nhất về văn hóa, phần lớn được chấp nhận ở chỗ
nó căn cứ vào nội dung của niềm tin cùng với các thứ
giá trị từ niềm tin này, nhưng ngày nay điều ấy
dường như không c̣n là trường hợp được xă hội chấp
nhận rộng răi, v́ một cuộc khủng hoảng đức tin sâu
xa đă ảnh hưởng nhiều người….
Năm Đức Tin: Thời điểm - mừng kỷ niệm 3 biến cố
4- Trước tất cả những điều ấy, tôi đă quyết
định công bố một Năm Đức Tin. Nó sẽ được bắt đầu vào
ngày 11 tháng 10 năm 2012, thời điểm kỷ niệm 50 năm
biến cố khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II, và sẽ
kết thúc vào Lễ Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Chúa
Chúng Ta là Vua Vũ Trụ, ngày 24/11/2013 (phụ
chú đặc biệt của người dịch: ngày này cũng chính là
ngày lễ Các Thánh Tử Đạo trên Đất Việt của Giáo Hội
ở Việt Nam, sau 25 năm các vị được Giáo Hội tôn
phong hiển thánh bởi vị giáo hoàng chân phước Gioan
Phaolô II ngày 19/6/1988).
Ngày khai mạc 11/10/2012 cũng đánh dấu 20 năm kỷ
niệm việc ban hành cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo, một văn kiện được ban hành bởi vị
Tiền Nhiệm của tôi là Chân Phước Gioan Phaolô II [Cf.
John Paul II, Apostolic Constitution
Fidei Depositum
(11 October 1992): AAS 86 (1994), 113-118.],
với mục đích để chiếu soi cho tất cả mọi tín hữu
thấy được cái quyền năng và vẻ đẹp của đức tin….
Ngoài ra, chủ đề của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới
tôi đă triệu tập vào Tháng 10/2012 đó là “Cuộc Tân
Truyền Bá Phúc Âm Hóa để Truyền Đạt Niềm Tin Kitô
Giáo”. Đây sẽ là một cơ hội tốt đẹp để dẫn đưa toàn
thể Giáo Hội tiến vào một thời gian đặc biệt suy tư
và tái nhận thức về đức tin. Đây không phải là lần
đầu tiên Giáo Hội được kêu gọi để cử hành một Năm
Đức Tin. Vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi là Người Tôi
Tớ Chúa Phaolô VI đă công bố năm này vào năm 1967,
để tưởng niệm cuộc tử đạo của thánh Phêrô và Phaolô
nhân dịp 19 thế kỷ hành động chứng nhân tử đạo cao
cả của các vị. Ngài đă nghĩ đến nó như là một thời
điểm trọng đại đối với toàn thể Giáo Hội trong việc
thực hiện “một việc tuyên xưng đích thực và chân
thành của cùng một niềm tin”; hơn nữa, ngài muốn
việc này cần phải được vững mạnh ở chỗ “cá nhân và
tập thể, tự do và ư thức, bên trong và bên ngoài,
khiêm tốn và thẳng thắn” [Paul VI, Apostolic
Exhortation Petrum et Paulum Apostolos on the
XIX centenary of the martyrdom of Saints Peter and
Paul (22 February 1967): AAS 59 (1967), 196.].
Ngài nghĩ rằng có thế toàn thể Giáo Hội mới có thể
tái xác đáng “kiến thức chính xác về đức tin, để tái
cường tráng đức tin, thanh tẩy đức tin, khẳng định
đức tin, và tuyên xưng đức tin” [Ibid.,
198.]. Cuộc đại biến động
của năm ấy đă càng hiển nhiên hóa nhu cầu cần phải
thực hiện một cuộc cử hành như thế. Năm ấy được kết
thúc bằng Kinh Tin Kính của Dân Chúa [Paul
VI, Credo of the People of God, cf.
Homily at Mass on the XIX centenary of the martyrdom
of Saints Peter and Paul at the conclusion of the
“Year of Faith” (30 June 1968): AAS 60
(1968), 433-445.], với
mục đích để chứng tỏ cho thấy rằng nội dung thiết
yếu qua các thế kỷ đă h́nh thành nên cái gia sản của
tất cả mọi tín hữu này cần phải được khẳng định,
hiểu biết và đào sâu một cách mới mẻ, để liên lỉ làm
chứng trong các hoàn cảnh lịch sử rất khác nhau với
những hoàn cảnh ấy trong quá khứ.
5- Ở một khía cạnh nào đó, vị tiền nhiệm khả
kính của tôi đă thấy Năm ấy như là “một thành quả và
là một nhu cầu của giai đoạn hậu công đồng [Paul
VI, General Audience (14 June 1967):
Insegnamenti V (1967), 801.],
hoàn toàn nhận thức được những khó khăn trầm trọng
vào thời ấy, nhất là đối với việc tuyên xưng đức tin
chân thực cũng như việc giải thích đức tin một cách
chính xác. Đối với tôi dường như thời điểm khai mở
Năm Đức Tin trùng hợp với thời điểm kỷ niệm 50 năm
khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II sẽ cống hiến
một cơ hội tốt để giúp dân chúng hiểu được rằng các
bản văn kiện được các Nghị Phụ Công Đồng truyền lại,
theo lời của Chân Phước Gioan Phaolô II, “đă
không mất đi ǵ hết cái giá trị hay rạng ngời của
chúng. Chúng cần phải được đọc một cách chính
xác, được biết đến một cách rộng răi và được yêu quí
như những văn kiện quan trọng và qui chuẩn của Huấn
Quyền, trong Truyền Thống của Giáo Hội… Tôi cảm thấy
hơn bao giờ hết có nhiệm vụ phải cho thấy Công Đồng
này như một đại hồng ân được ban cho Giáo Hội
trong thế kỷ 20: ở đó chúng ta t́m thấy một địa
bàn vững chắc nhờ đó chúng ta lănh nhận các trách
nhiệm của chúng ta trong một thế kỷ giờ đây bắt đầu”
[John Paul II, Apostolic Letter
Novo Millennio Ineunte
(6 January 2001), 57: AAS 93 (2001), 308.]…
6- Việc canh tân của Giáo Hội cũng đạt được
nhờ chứng từ của đời sống tín hữu: bằng chính sự
hiện hữu của họ trên thế gian, Kitô hữu cũng được
kêu gọi để chiếu tỏa lời chân lư được Chúa Giêsu để
lại cho chúng ta…
Năm Đức Tin, theo quan điểm này, là một lời hiệu
triệu thực hiện việc hoán cải đích thực và mới mẻ về
với Chúa, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thế giới…
Năm Đức Tin: Tác động – Tuyên Xưng Đức Tin
7- … Đức tin gia tăng khi nó được sống như
là một cảm nghiệm về t́nh yêu lănh nhận và khi nó
được truyền đạt như là một cảm nghiệm về ân sủng và
niềm vui. Nó làm cho chúng ta trở thành phong phú,
v́ nó mở rộng tâm can của chúng ta trong hy vọng và
giúp chúng ta có thể thực hiện chứng từ ban sự sống:
thật vậy, nó mở tâm can và trí óc của những ai lắng
nghe để đáp ứng lời mời gọi của Chúa trong việc gắn
bó với lời của Người và trở nên môn đệ của Người….
Bởi vậy, chỉ nhờ tin tưởng mà đức tin gia tăng và
trở nên mạnh mẽ hơn; không có khả thể nào khác để sở
hữu tính chất vững chắc đối với đời sống của con
người ngoại trừ tự phó ḿnh, một cách liên tục mạnh
dần, vào bàn tay của một t́nh yêu dường như liên lỉ
gia tăng v́ có nguồn gốc nơi Thiên Chúa.
8- Nhân dịp thuận lợi này, tôi muốn mời gọi
quí huynh giám mục của tôi khắp nơi trên thế giới
hăy liên kết với vị Thừa Kế Thánh Phêrô, trong thời
điểm ân sủng thiêng liêng được Chúa cống hiến cho
chúng ta đây, để nhắc lại tặng ân đức tin quí báu.
Chúng ta muốn cử hành Năm này một cách xứng đáng và
thành quả. Việc suy tư về đức tin cần phải được gia
tăng, để giúp cho tất cả mọi tín hữu trong Chúa Kitô
được gắn bó một cách ư thức và mạnh mẽ hơn với Phúc
Âm, nhất là trong một thời điểm hết sức đổi thay như
nhân loại đang trải qua. Chúng ta sẽ có cơ hội để
tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Chúa Phục Sinh
trong các vương cung thánh đường của chúng ta trên
toàn thế giới; trong nhà của chúng ta và giữa các
gia đ́nh của chúng ta với nhau, để hết mọi người có
thể cảm thấy hết sức cần phải hiểu biết hơn và
truyền đạt cho các thế hệ tương lai đức tin của tất
cả mọi thời đại. Các cộng đồng tu tŕ cũng như các
cộng đồng giáo xứ, và tất cả các cơ cấu giáo hội cũ
và mới, cần phải t́m cách, trong Năm này, công khai
tuyên xưng Credo.
9- Chúng ta muốn Năm này làm bừng lên nơi
hết mọi tín hữu niềm thao thức tuyên xưng đức
tin một cách trọn vẹn và xác tín mới, tin tưởng và
hy vọng. Nó cũng là một dịp tốt để gia tăng việc
cử hành đức tin trong phụng vụ, nhất là vào
Thánh Thể là “tột đỉnh hướng về của hoạt động Giáo
Hội; … và cũng là nguồn mạch xuất phát tất cả mọi
năng lực của Giáo Hội” [Second Vatican Ecumenical
Council, Constitution on the Sacred Liturgy
Sacrosanctum Concilium,
10.]. Đồng thời chúng ta biến nó thành lời cầu
nguyện của chúng ta để chứng từ của tín hữu
càng trở nên uy tín hơn nữa. Việc tái nhận thức nội
dung của một đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống
động và nguyện cầu [Cf. John Paul II,
Apostolic Constitution
Fidei Depositum
(11 October 1992): AAS 86 (1994), 116] và
việc suy niệm về tác động của đức tin, là một công
việc hết mọi tín hữu cần phải coi như là việc của
ḿnh, nhất là trong thời gian của Năm n ày….
10- … Việc tuyên xưng bằng môi miệng ngược lại
cho thấy rằng đức tin bao gồm việc công khai làm
chứng và dấn thân. Một Kitô hữu có thể không bao giờ
nghĩ đến niềm tin như là một tác động riêng tư. Đức
tin là việc chọn đứng về bên Chúa để sống với Người
(biệt chú của người dịch: tư tưởng
này của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI được ngài chủ
trương từ khi c̣n là giáo sư đại học và đă được ngài
bày tỏ trong cuốn “Introduction to Christianity”
xuất bản từ năm 1968, ở phần I, chương 1, đoạn 5:
“Faith as standing firm and understanding”).
Việc “đứng về bên Người” hướng tới một sự hiểu biết
về các lư do tin tưởng. Đức tin, chính v́ nó là một
tác động tự nguyện, cũng đ̣i hỏi trách nhiệm xă hội
nữa đối với những ǵ người ta tin tưởng. Giáo Hội
trong Ngày Lễ Ngũ Tuần chứng tỏ hoàn toàn rạng ngời
chiều kích công khai này của việc tin tưởng và loan
báo đức tin của con người một cách mạnh mẽ cho hết
mọi người. Chính tặng ân Thánh Linh làm cho chúng ta
xứng hợp với sứ vụ và kiến cường chứng từ của chúng
ta, làm cho nó nên thẳng thắn và dũng cảm.
Việc tuyên xưng đức tin là tác động vừa cá nhân vừa
cộng đồng. Chính Giáo Hội là chủ thể chính của đức
tin. Theo đức tin của cộng đồng Kitô giáo, mỗi một
cá nhân lănh nhận phép rửa, một dấu chỉ hiệu lực để
gia nhập thành phần dân tín hữu để được ơn cứu độ.
Như chúng ta đọc thấy trong Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo: “’Tôi tin’ là đức tin của Giáo Hội
được tuyên xưng riêng tư bởi từng tín hữu, chính yếu
khi lănh nhận phép rửa. ‘Chúng tôi tin’ là đức tin
của Giáo Hội được tuyên xưng bởi các vị giám mục họp
công đồng hay phổ quát hơn bởi cộng đống tín hữu cử
hành phụng vụ. ‘Tôi tin’ cũng là Giáo Hội, mẹ của
chúng ta, khi đáp ứng Thiên Chúa bằng đức tin dạy
chúng ta vừa thưa ‘tôi tin vừa thưa ‘chúng tôi tin’”
[Catechism of the Catholic Church, 167] ….
Một mặt chúng ta không được quên rằng
trong bối cảnh về văn hóa của chúng ta, rất là nhiều
người, trong khi không công nhận là ḿnh có được
tặng ân đức tin, thế mà vẫn chân thành t́m kiếm ư
nghĩa tối hậu và sự thật cuối cùng của đời sống họ
và của thế giới này. (Biệt chú của người dịch: ở
đây Đức Thánh Cha muốn nói đến một thành phần đă
được ngài mới nhắc đến trong chuyến tông du Đức
quốc, trong bài giảng cho Thánh Lễ ở Touristic
airport, Freiburg im Breisgau Chúa Nhật 25/9/2011,
cũng như trong Biến Cố Assisi, ở đoạn kết bài diễn
từ ngày Thứ Năm 27/10/2011, đó là thành phần bất khả
thần tri - agnosticism). Việc t́m kiếm này là
một ‘tựa đề – preamble’ cho đức tin, v́ nó dẫn con
người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm của Thiên
Chúa. Thật vậy, lư trí của con người chất chứa một
đ̣i hỏi về ‘những ǵ là vĩnh viễn vững chắc và lâu
bền’ [Benedict XVI,
Address at the Collège des
Bernardins,
Paris (12 September 2008): AAS 100 (2008),
722.] Cái đ̣i hỏi này là những ǵ tạo nên một hiệu
triệu thường xuyên, được in ấn bất khả xóa mờ trong
tâm can của con người, trong việc lên đường t́m kiếm
Đấng không phải là chúng ta t́m kiếm Ngài mà là Ngài
đă đến t́m gặp chúng ta [Cf. Saint Augustine,
Confessions, XIII:1.]. Đức tin mời gọi chúng ta
và mở ḷng chúng ta ra một cách trọn vẹn cho cuộc
hội ngộ ấy.
Năm Đức Tin: Nắm Vững – Giáo Lư Công Giáo
11- Để tiến đến một thứ kiến thức có hệ thống
về nội dung của đức tin, tất cả mọi người có thể t́m
thấy trong cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo
một dụng cụ quí báu bất khả thiếu. Nó là một trong
những hoa trái quan trọng nhất của Công Đồng Chung
Vaticanô II…
Theo chiều hướng ấy, Năm Đức Tin sẽ phải thấy được
một nỗ lực chung trong việc tái nhận thức và học hỏi
nội dung nền tảng của đức tin được tổng luận một
cách có hệ thống và bố cục trong cuốn Sách Giáo
Lư Giáo Hội Công Giáo….
Trong chính cấu trúc của ḿnh, cuốn Sách Giáo Lư
Giáo Hội Công Giáo được khai triển theo đức tin
đúng với các vấn đề to lớn của cuộc sống hằng ngày.
Từ trang này sang trang khác, chúng ta thấy rằng
những ǵ được tŕnh bày ở đó không phải là lư thuyết
mà là một cuộc hội ngộ với Con Người đang sống trong
Giáo Hội. Việc tuyên xưng đức tin được tiếp nối bởi
phần về đời sống bí tích, trong đó Chúa Giêsu hiện
diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo Hội của
Người. Không có phụng vụ và các bí tích, việc tuyên
xưng đức tin thiếu mất hiệu năng, v́ nó thiếu ân
sủng hỗ trợ cho chứng từ của Kitô hữu. Cùng một qui
chuẩn như thế, giáo huấn của Sách Giáo Lư Giáo
Hội Công Giáo này về đời sống luân lư có được
tất cả ư nghĩa của ḿnh nếu được liên hệ với đức
tin, phụng vụ và cầu nguyện.
(Biệt chú của người dịch: ở đây
Đức Thánh Cha, vị hồng y nguyên Tổng Trưởng Tín Lư
Đức Tin đặc trách soạn thảo cuốn Sách Giáo Lư Giáo
Hội Công Giáo, cho biết về bố cục rất chặt chẽ của
văn kiện quan trọng này giữa 4 phần chính yếu, theo
thứ tự là: Đức Tin, Phụng Vụ, Luân Lư và Cầu Nguyện.
Mà riêng phần luân lư lại không ở ngay sau phần tín
lư là Đức Tin mà lại được xếp sau cả phần Phụng Vụ
bao gồm các bí tích là v́ nếu không có ơn Chúa xuất
phát từ Phụng Vụ th́ Kitô hữu sẽ không thể nào sống
đức tin nơi đời sống luân lư, và thậm chí không thể
nào sống đời cầu nguyện, v́ đời sống cầu nguyện, ở
phần cuối cuốn giáo lư, cũng là tác động đáp ứng mạc
khải thần linh là những ǵ được chất chứa nơi phần 1
về tín lư và phần 2 về bí tích).
12- Trong Năm này, bởi thế, cuốn Sách Giáo
Lư Giáo Hội Công Giáo sẽ trở thành một dụng cụ
để cung cấp việc trợ giúp thực sự cho đức tin, nhất
là đối với những ai quan tâm đến việc giáo huấn Kitô
hữu rất quan trọng trong môi trường văn hóa của
chúng ta. Để đạt được mục đích ấy, tôi đă mời gọi
Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, bằng việc ḥa hợp với các
Phân Bộ liên hệ của Ṭa Thánh, phác họa một Ghi
Chú, cung cấp cho Giáo Hội và cá nhân tín hữu
một số hướng dẫn về việc làm sao sống Năm Đức Tin
này một cách hiệu nghiệm nhất và thích đáng nhất, để
phục vụ niềm tin và việc truyền bá phúc âm hóa.
Giờ đây đức tin, ở một mức độ nhiều hơn trong quá
khứ, đang trở thành vấn đề cho một loạt những vấn
nạn xuất phát từ một tâm thức thay đổi, một tâm thức,
nhất là ngày nay, giới hạn lănh vực của những ǵ là
vững chắc có tính cách hữu lư vào lănh vực của các
thứ khám phá về khoa học và kỹ thuật mà thôi. Tuy
nhiên, Giáo Hội không bao giờ sợ chứng tỏ rằng không
thể nào có chuyện xung khắc giữa đức tin và khoa học
đích thực, v́ cả hai, cho dù có những đường lối khác
nhau, vẫn hướng về chân lư
[ Cf. John Paul II, Encyclical Letter
Fides et Ratio (14 September 1998), 34, 106:
AAS 91 (1999), 31-32, 86-87]
13- Một điều hết sức quan trọng trong Năm này
đó là việc hồi tưởng về lịch sử đức tin của chúng ta,
một lịch sử được ghi dấu thật sự bởi một mầu nhiệm
khôn lường đan kết giữa thánh đức và tội lỗi. Trong
khi thánh đức đề cao việc đóng góp trọng đại được
những con người nam nữ thực hiện cho việc tăng
trưởng và phát triển cộng đồng bằng chứng từ đời
sống của họ, th́ tội lỗi cần phải gợi lên trong mỗi
một người công việc chân thành và liên tục hoán cải
để cảm nghiệm được t́nh thương của Chúa Cha giành
cho hết mọi người.
Năm Đức Tin: Sống Đức Ái
14- … Đức tin thiếu đức ái không sinh hoa trái
ǵ, trong khi đức ái thiếu đức tin sẽ là một cảm
thức liên lỉ băn khoăn ngờ vực. Đức tin và đức ái
đều cần đến nhau, ở chỗ mỗi đức giúp nhau tiến theo
con đường thích hợp của ḿnh…
15- … Điều thế giới đặc biệt cần ngày nay đó
là chứng từ khả tín của thành phần được minh thức
trong tâm trí nhờ lời Chúa, và có khả năng mở ḷng
trí của nhiều người ra trong việc ước muốn Thiên
Chúa và sự sống chân thực, một sự sống khôn cùng.
Ban hành tại Ṭa Thánh Phêrô Rôma ngày 11/10/2011,
năm thứ bảy của Giáo Triều tôi.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng
điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/motu_proprio/documents/hf_ben-xvi_motu-proprio_20111011_porta-fidei_en.html