Lời Giới Thiệu Sắc Lệnh
Về Ðào Tạo Linh Mục
(tiếp theo) |
Thánh Công Ðồng Chung
Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Ðào Tạo Linh Mục
Optatam Totius
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu (tiếp
theo)
III Tổng Quát Về Nội
Dung Sắc Lệnh
Lời mở đầu: Tầm quan trọng và giá
trị phổ quát của vấn đề đối với việc canh tân.
Chương I: Số 1: Phương thức đào tạo
phải được áp dụng trong mỗi quốc gia: sự đồng nhất và thích nghi.
Chương II: Số 2: Ân cần cổ võ ơn
thiên triệu linh mục là việc chung của mọi người: gia đình, giáo xứ, nhà
giáo dục, linh mục, giám mục; chỉnh đốn hành động để đáp ứng với hành động của
Chúa Quan Phòng; phương tiện cổ truyền và mới mẻ.
Số 3: Ðối tượng của số này: các Tiểu Chủng
Viện; cung ứng một nền giáo dục vững chắc và thích hợp về nhân bản và thiêng
liêng; về những thanh thiếu niên thuộc các ngành giáo dục khác và những ơn kêu
gọi muộn.
Chương III: Tổ chức các Ðại
Chủng Viện.
Số 4: Sự cần thiết và mục đích của mục vụ
đòi phải đào tạo chủng sinh dưới mọi khía cạnh.
Số 5: Vấn đề quan trọng: các nhà giáo dục
phải được chọn lựa, chuẩn bị, thống nhất chặt chẽ, được Giám Mục và tất cả các
linh mục trong giáo phận khuyến khích: tất cả mọi người giúp đỡ chủng viện.
Số 6: Nghiên cứu về ơn thiên triệu: ý ngay
lành, tự do, khả năng, sự kiên quyết.
Số 7: Chủng Viện từng vùng: để có một nhóm
những nhà giáo dục hoàn hảo. Chú trọng đến phẩm cách những kẻ thụ giáo: nếu nhóm
quá đông, nên thành lập những nhóm nhỏ hơn, có người hướng dẫn đàng hoàng.
Chương IV: Huấn luyện tu đức
vững chắc.
Số 8: Ðào tạo đời sống mật thiết với Chúa
Ba Ngôi, Chúa Kitô, Ðức Mẹ: một đời sống cầu nguyện theo tinh thần Phúc Âm và
nhiệt thành.
Số 9: Ðào tạo tinh thần Giáo Hội: cộng tác
viên tương lai của các Giám Mục, những cộng sự viên của các Linh Mục khác, trong
tinh thần phục vụ khiêm nhượng, vâng lời với trách nhiệm, nghèo khó, tin tưởng
vào ơn thiên triệu.
Số 10: Ðào tạo một đời sống độc thân linh
mục: một động lực siêu nhiên, cánh chung và tông đồ, một ân huệ do sự kiên tâm
cầu nguyện đem lại. Ý thức rõ ràng về hôn nhân. Chấp nhận sự từ bỏ ấy trong tự
do và ý thức.
Số 11: Ðào tạo trưởng thành về nhân cách:
tính tình, sự bền chí, những đức tính nhân bản, sống kỷ luật với tinh thần siêu
nhiên và trong cách sử dụng tự do.
Số 12: Phương thế đặc biệt của việc đào
tạo: thời gian đào tạo, thời kỳ tập sự giữa các năm học, tuổi truyền chức được
ấn định cao hơn, thực tập chức phó tế.
Chương V: Các môn học của Giáo
Hội.
Số 13: Trước hết phải có một nền giáo dục
trung đẳng vững chắc về nhân bản và khoa học, phải biết La Ngữ và những cổ ngữ
trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Số 14: Ðịnh hướng tiên quyết; học về mầu
nhiệm Chúa Cứu Thế và việc Cứu Chuộc, biết dung hòa môn triết học với thần học.
Số 15: Triết học: Mục đích: tìm
hiểu về con người, vũ trụ, Thiên Chúa; trọng trách bảo vệ gia sản có giá trị
ngàn đời, những tương quan triết học hiện đại, đào sâu lịch sử, khuyến khích
việc học hỏi cá nhân, chứng minh sự liên quan giữa học thuyết với những vấn đề
nhân sinh và mầu nhiệm Cứu Chuộc.
Số 16: Thần học: Mục đích: thấu
triệt vấn đề mạc khải; sống mạc khải và biết trình bày mạc khải.
Thánh Kinh: linh hồn của môn thần
học, học biết chú giải, biết những đề tài quan trọng của mạc khải. Thánh Kinh
như món ăn thiêng liêng.
Tín lý: Bắt đầu từ những đề tài
trong Thánh Kinh, minh chứng sự đóng góp của các Giáo Phụ, với sự liên quan lịch
sử. Suy luận theo chiều hướng của Thánh Tôma.
Luân lý: có tính cách Thánh Kinh
hơn và theo chiều hướng bác ái.
Giáo luật và Giáo sử: liên
quan với mầu nhiệm Giáo Hội.
Phụng vụ: Theo "Hiến Chế về Phụng
Vụ Thánh". Học về hiệp nhất và các tôn giáo khác.
Số 17: Phương pháp sư phạm: Học hỏi
kỹ càng, khuyến khích làm việc riêng, làm việc tập thể, nhằm sự hiệp nhất và
tinh thần liên đới; tránh những phiền phức gò bó của luật lệ, nên chọn lựa những
vấn đề thực tế hơn.
Số 18: Giáo dục nơi đại học: Lựa
chọn cẩn thận những người có khả năng thích hợp theo các phân khoa đại học nhưng
vẫn tiếp tục hướng dẫn họ về vấn đề tu luyện đạo đức.
Chương VI: Vấn đề đào tạo mục vụ
nói riêng.
Số 19: việc đào tạo mục vụ phải chi phối
tất cả các việc đào tạo khác; biết nghệ thuật linh hướng, biết phát triển mọi
khả năng đối thoại, biết nghe, biết yêu thương.
Số 20: Những môn học bổ túc: Sư phạm, tâm
lý xã hội, tông đồ giáo dân, tinh thần tông đồ phổ quát và truyền giáo.
Số 21: Thực hành việc tông đồ: Ðó là vấn
đề cần thiết trong kỳ nghỉ và suốt thời gian học tập với một phương pháp được
người có thẩm quyền hướng dẫn chu đáo; phải xác tín tầm quan trọng ưu tiên của
những phương tiện siêu nhiên đối với việc tông đồ.
Chương VII: Việc huấn luyện bổ
túc sau khi mãn trường.
Số 22: Tiếp tục đào luyện thường xuyên cho
các giáo sĩ: nhờ các học viện, qua các kỳ hội thảo, bằng những hoạt động định
kỳ.
Kết luận: Trong chiều hướng của
Công Ðồng Triden nhưng với một tinh thần mới mẻ, Giáo Hội và Công Ðồng Vaticanô
II hy vọng nhiều nơi các linh mục tương lai, vì nhờ sự huấn luyện kỹ càng và
thích hợp, các linh mục đó sẽ đạt được những kết quả lâu bền.
IV. Viễn Tượng Mới Do
Sắc Lệnh Mang Lại
Tuy được cưu mang trước Công Ðồng, nhưng
Sắc Lệnh chỉ chào đời vào thời kỳ họp cuối cùng. Có thể nói Sắc Lệnh đã hấp thụ
bầu khí của Công Ðồng để chín dần, đã được dinh dưỡng bằng nhựa sống dồi dào và
phong phú trong khoảng đất đầy mầu mỡ do những dữ kiện học hỏi giáo lý và mục vụ
ở những sắc lệnh khác.
Nơi đây ta còn nhận thấy các quan tâm và
định hướng rõ rệt của Công Ðồng Vaticanô II: tính cách ưu tiên của mục vụ trong
việc đào tạo, nhấn mạnh việc giáo dục nhân bản, tinh thần hiệp nhất, cởi mở với
những trào lưu hiện đại để đưa đến một cuộc đối thoại thực sự, những hoạt động
mục vụ trong toàn thể Giáo Hội đối với việc dìu dắt mầm non ơn thiên triệu, tinh
thần mới mẻ trong việc học tập rộng rãi các huấn lệnh của Giáo Hội, trách nhiệm
tiên phong của những Hội Ðồng Giám Mục đối với những việc liên quan đến phương
thức đào tạo các linh mục, nhấn mạnh về vấn đề đào tạo trường kỳ cho giáo sĩ
giữa một thế giới luôn luôn đổi mới của thời đại này.
Bởi vậy Sắc Lệnh này phù hợp với tất cả
những văn kiện của Công Ðồng Vaticanô II. Tập "Giáo Huấn" ngày 6-1-1970 của
Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đã trình bày những tiêu chuẩn đào tạo linh mục tương
lai. Với tài liệu này, các Hội Ðồng Giám Mục có trách nhiệm đã được chỉ dẫn đầy
đủ. Các linh mục tương lai có thể vững tâm trông cậy hoàn toàn vào Thánh Thần
Thiên Chúa, Ðấng đã linh ứng và hướng dẫn Giáo Hội không ngừng, để dọn mình làm
linh mục của Chúa Kitô, linh mục của ngày mai và của hết thảy mọi thời đại.
Với Sắc Lệnh này, chúng ta thấy được biết
bao tiến bộ về quan niệm đào tạo linh mục. Chỉ cần đọc lại những mệnh lệnh của
giáo luật về vấn đề chủng viện cũng đủ để đi đến kết luận rằng: dù mối bận tâm
của Giáo Hội đối với những linh mục tương lai trước sau vẫn là một, nhưng tinh
thần những định hướng mới mẻ và những chú trọng đặc biệt trong Sắc Lệnh cho
chúng ta thấy có một cái gì rất đặc sắc.
Linh mục theo Công Ðồng Vaticanô II là một
linh mục kết hiệp với Thầy Chí Thánh, khao khát một đời sống Phúc Âm thực sự, đi
theo đường Chúa Giêsu đã đi, và đồng thời là người lo lắng đem thân mình phục vụ
anh em và mọi người trong một cuộc gặp gỡ cởi mở, chân thành và thích nghi. Nhờ
đó linh mục có thể đem đến cho mọi người Sứ điệp của Chúa Kitô trong một ngôn
ngữ dễ hiểu và linh động, cống hiến cho họ ơn cứu rỗi của Chúa Kitô, Ðấng đã tự
hiến qua một Giáo Hội có khuôn mặt trẻ trung, có vòng tay và con tim rộng mở chờ
đón hết mọi con người của thời đại chúng ta và tất cả mọi dân tộc. Ðồng ý với
một quan sát viên Công Ðồng, chúng ta tin rằng: "Ðó là một trong số những bản
văn rất cởi mở và rất mới mẻ của Công Ðồng" (Etudes, tháng 1, 1968).
(còn tiếp nhiều kỳ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BẨY ƠN CHÚA THÁNH THẦN LÀ NHỮNG ƠN
NÀO ? Ý NGHĨA CỦA MỖI ƠN ? |
Tuần phòng đã
khai mạc trong giờ chầu chiều hôm qua, nhưng hôm nay mới là
thánh lễ khai mạc. Khai mạc bất cứ một biến cố nào, Hội
Thánh thường có thói lệ tốt là cầu xin CTT, huống gì khai mạc
tuần phòng, một biến cố quan yếu cho đời sống linh mục, càng cần
cầu xin CTT biết là chừng nào. Vì thế thánh lễ khai mạc ta cầu
xin ơn CTT quả là phải lẽ.
Những người
lớn tuổi trong chúng ta, chắc hãy còn nhớ nằm lòng một câu giáo
lý xưa kia về 7 ơn cả của Chúa Thánh Thần : một là ơn khôn
ngoan, hai là ơn hiểu biết, ba là ơn thông minh, bốn là ơn khéo
liệu, năm là ơn mạnh bạo, sáu là ơn đạo đức, bảy là ơn kính sợ
Đức Chúa Trời. Còn những ai nhiều lần tham dự hoặc chủ sự ba
bí tích Khai Tâm cho người lớn trong đó có ban Bí tích Thêm sức
; hay những lần ĐGM làm phép xức trán cho các em tuổi mười trở
lên, thì khi chủ sự giơ hai tay trên các người lãnh nhận cũng
đọc lời nguyện liệt kê 7 ơn đó:
“Xin ban cho
họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu
va sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức –
xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa.”
Xin thú thật
mãi cho tới những năm gần đây vẫn không sao phân biệt nổi những
ơn này khác nhau làm sao. Nhất là mấy ơn đầu: 1) Khôn ngoan, 2)
Hiểu biết 3) Thông minh. Ba ơn này chẳng là một hay sao, tuy
mức độ có chênh nhau hơn kém…Như khi người ta khen con cái mình
rằng là nó nhỏ nhưng nó khôn lắm, nó thông minh lắm, nó hiểu
nhanh lắm, ta thấy ba cái khen đó, nó “xêm xêm” : chẳng
khác gì đầu đề một quyển sách châm biếm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ
Azit Nêxin: Con chúng ta giỏi
thật !
Sách “Giáo Lý
Hội Thánh Công Giáo” năm 1992 có nhắc tới 7 ơn này hai lần, một
trong phần Nghi thức bí tích Thêm sức (số 1299) và một trong
phần Hiệu quả bí tích (số 1303), nhưng chỉ liệt kê chứ không có
một dòng giải thích.
Vậy muốn hiểu
rõ 7 ơn CTT, ta phải coi lại bản gốc của nó : Isaia 11,2.
Các nhà chuyên môn đã làm giúp ta, ta chỉ việc thu lấy kết quả
của họ. Vì quả thật nếu dịch các ơn đó từ tiếng Hipri rồi Hy lạp
qua Latinh, rồi mới từ Latinh chuyển qua tiếng Việt chúng ta
đọc, thì thật khó lòng hiểu nổi các ơn đó muốn nói gì. Cần phải
dịch lại mới sáng tỏ nội dung. Chúng ta sẽ không khởi đầu từ ơn
khôn ngoan mà đi từ ơn thứ bảy, ơn dễ hiểu nhất để ngược lên tới
ơn trên cùng là ơn khôn ngoan.
7-
Ơn thứ bảy là ơn kính sợ ĐCT. Đây là ơn mà đọc lên chúng
ta hiểu ngay muốn nói gì. Kính sợ là úy kính, một tâm tình mà ở
trần thế này con người cần có thì mới mong tránh loạn tặc. Khi
một người nào đó ngang tàng, coi trời bằng vung, không biết sợ
trời là gì, thì người ấy có thể làm mọi sự và thường là những
điều tệ hại nhất.
6-
Nhưng một ơn khác của CTT làm cho ơn kính sợ này trở nên tình
yêu, đó là ơn đạo đức. Sáu là ơn đạo đức : nghe “đạo
đức”, ta nghĩ ngay đạo đức là năng đi nhà thờ, năng đọc kinh lần
hạt. Nhưng đó mới là những diễn tả. Đạo đức chính là Đạo làm
con. Một người con năng đến với cha là người con có hiếu. Và
nếu cần dịch lại thì sẽ là ơn sùng hiếu (pietas).
Ơn thứ 7 cho ta kính sợ Chúa, nhưng không phải kính sợ Chúa như
một ông vua đầy uy quyền sát khí, một lời nói là đầu rơi, một
chau mày là người chết. Nhưng ơn kính sợ Chúa cộng với ơn sùng
hiếu này khiến ta kính sợ Chúa như người Cha của chúng ta. Đây
phải là một ơn riêng của CTT khiến ta mới có thể dám xem Chúa là
Cha của mình (x. Ga 4,6 ; Rm 8,15).
5-
Năm là ơn mạnh bạo hoặc ơn mạnh sức. Đây không phải là
sức khoẻ phần xác thôi, nhưng là sự dũng cảm của một người con
Chúa can trường và vui vẻ thực hiện ý của Cha mình. Do đó có thể
dịch ơn mạnh bạo là ơn dũng cảm.
Thực vậy để
thực hiện chứ không phải chỉ biết thôi –ý của
Chúa- nhiều khi chẳng dễ nuốt ngon ăn. Phải dũng cảm lắm mới
được. Chúa Giêsu đã nói : Từ ngày Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước
Trời ở dưới sức cường bạo, và chỉ những ai mạnh bạo mới được vào
Nước Trời (Mt 11,12). Một chỗ khác, Chúa Giêsu nói :
Không phải cứ kêu ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời,
nhưng là thi hành ý của Cha Ta (Mt 7, 21). Móc nối 2 câu này
ta thấy phải dũng cảm lắm mới thực thi được ý Chúa để có thể
chiếm Nước Trời.
4-
Bốn là ơn lo liệu. Ơn thứ năm mạnh bạo cho ta sự
dũng cảm để làm theo ý Chúa, nhưng chính ơn lo liệu này,
dịch rõ hơn phải là ơn chỉ giáo cho ta biết
đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể. Trong Tam Quốc
Chí, Khổng Minh Gia Cát Lượng trao cho Triệu Tử Long trên
đường sang Đông Ngô 3 túi gấm trong đó có sẵn những chỉ dẫn. Khi
cần thì cứ mở cẩm nang (túi gấm) để biết phải làm gì làm gì làm
gì. Tới bờ sông, mở túi gấm 1, gặp quả núi mở túi gấm 2…
Vì thế ơn lo
liệu tức là ơn cẩm nang, ơn túi gấm, ơn chỉ giáo: (conseil) là
ơn hiểu biết ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể để ơn
dũng cảm cho ta sức mạnh thi hành.
Ba ơn còn lại
liên hệ đến chữ BIẾT. Nhưng mỗi ơn cho ta biết Chúa mỗi
cách.
3-
Ba là ơn thông minh. Dịch như trong lời nguyện của Bí
tích Thêm sức sẽ dễ hiểu hơn: ơn suy biết. Là ơn
mình suy từ thiên nhiên vạn vật mà biết có Chúa là
Đấng Tạo Hoá. Cách biết Chúa bằng lối này Chúa Thánh Thần ban
cho rất nhiều người. Nhìn chiếc đồng hồ có các bánh xe ăn khớp
nhau, ta suy biết có người làm ra đồng hồ. Thì nhìn trời đất
muôn vật với trật tự lạ lùng, ta suy ra có ông Trời là
Tạo Hoá. Đây là cách biết Chúa sơ đẳng nhất: biết Chúa qua thiên
nhiên, biết Tạo Hoá qua mọi thọ tạo. Trước đây dịch là ơn thông
minh. Dịch là ơn suy biết thì có lẽ thông minh hơn !
2-
Ơn suy biết là biết Chúa qua thọ tạo (Science). Cách biết Chúa
cao hơn là biết Chúa qua mạc khải. Đây chính là ơn thứ hai: hai
là ơn hiểu biết, hay dịch đúng hơn: ơn thấu hiểu,
ơn thông hiểu. Không phải là hiểu biết thường qua thọ
tạo, nhưng là hiểu biết thấu đến chính Tạo Hoá đó đã tỏ mình ra
với con người. Tiếng chuyên môn gọi là mặc khải. Nói rõ hơn, ơn
này đòi hỏi ta phải tin nữa. Tin Thiên Chúa là Lời – Lời
nói với con người – cụ thể là tin Kinh Thánh là Lời ngỏ của Chúa
cho nhân loại. Ơn này cũng còn có nghĩa là hiểu lời ngỏ
của Chúa nữa: nói nôm na là hiểu và giải thích Kinh Thánh. Các
nhà chú giải Thánh Kinh có lẽ nhận được ơn này nhiều. Tất cả
thuộc phạm vi của ơn thấu hiểu.
1-
Và cuối cùng là ơn khôn ngoan : một là ơn khôn ngoan. Chữ
“khôn ngoan” chưa nói được gì cả về ơn thứ nhất trong 7 ơn CTT
này. Phải móc nối với một câu trong sách Khôn Ngoan ta mới khôn
ra được, mới sáng trí hơn : Xin rộng ban cho tôi, Đức
Khôn Ngoan hằng ở bên toà Chúa (Kn 9,4). Hoặc
trong sách Huấn ca : Khôn ngoan đều xuất phát bởi Chúa, và
khôn ngoan ở với Người muôn đời (Hc 1, 1). Vậy
ơn khôn ngoan dịch cách khôn ngoan hơn phải là ơn thượng trí,
tức là ơn “biết” Chúa thật sự, biết theo nghĩa Kinh
Thánh—có thể nói như thế: Adong biết Eva, sinh ra Cain.
Ơn thượng trí cho ta biết Chúa thật sự bằng cách bay vút lên
trời (thượng trí mà !) để sống thân mật, sống kết hợp, sống kề
cận ở ngay bên Chúa, nếm được Chúa, cảm được Ngài:
Đức khôn ngoan hằng ở bên toà Chúa.
Chúa Thánh
Thần cũng ban ơn thượng trí này cho một số vị tuy còn trong
thân xác trần gian, nhưng ngất trí, được đưa thấu tận trời xanh
để cảm, để nếm Chúa, để -nói theo lối nói của kẻ đã được đưa
lên tầng trời thứ ba : có trong thân xác hay ngoài thân xác,
người ấy không biết- đưa lên để nghe những lời khôn tả mà loài
người không được phép nói lại. “Về một người như thế, tôi sẽ tự
hào.” Phaolo thuật như vậy trong 2Cr 12, 1-6.
Nhiều vị
thánh khác, nhất là thánh nữ, được ơn thượng trí kết hợp với
Chúa trong khi cầu nguyện. Toma Celano thì nói về Phanxicô
Assisi như sau, “khi cầu nguyện, không phải là thánh nhân cầu
nguyện mà Phanxicô là hiện thân của sự cầu nguyện” -một
kiểu nói khác của sự kết hợp chiêm niệm, của ơn thượng trí. (Nếu
các thánh khó khăn lắm mới được ơn này, thì hình như ta dễ dàng
được ơn thượng trí, ngất trí này hơn, nhất là trong tuần phòng
gặp những bài giảng khô và lâu, tức gặp những chuyên viên gây mê
giỏi !). Thôi ta hãy khoan vội xin ơn thượng trí này, mà
ta hãy cứ thấy Chúa bằng ơn suy biết khi đi dạo vườn hoa
cây cối nơi TGM này. Xin CTT cho ta biết hô lên Eureka như
Archimede ngày xưa khi ta khám phá được ý nghĩa hay ho của Lời
Chúa qua ơn thấu hiểu. Ta hãy xin cho ta biết ý Người
muốn ta làm gì hôm nay, chốn này, qua ơn chỉ giáo. Lại
xin ơn dũng cảm để ta thực thi điều Chúa chỉ dẫn. Và như
thế ta là người con thật của Chúa là Cha qua ơn sùng hiếu
và ơn kính sợ.
Còn nếu ta
xin thẳng ơn thượng trí để “biết” Chúa, kết hợp với Chúa
ngay từ đầu tuần phòng, thì chẳng cần mấy bài giảng của đức cha,
chẳng cần lân la đến nhà thờ lễ lạy, vì ta đã đắm chìm trong
Ngài rồi, thì quả là “khôn ngoan,” mà dịch là ơn khôn ngoan
cũng chẳng sai vậy !
Ghi chú : ta thấy
các ơn đi từng cặp :
- ơn
sùng hiếu làm cho ta kính sợ Chúa như con kính sợ Cha
- ơn
dũng cảm làm cho ta dám thực hiện ý Chúa trong giây phút
hiện tại mà ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý của Ngài lúc
này.
- ơn
suy biết cho ta biết Chúa qua thọ tạo thiên nhiên để rồi nhờ
ơn thấu hiểu giúp ta biết Ngài ngỏ lời với con người
- cuối
cùng, khi biết Chúa thì yêu Ngài (vô tri bất mộ) : lúc đó biết
theo nghĩa thông thường trở thành “biết” theo nghĩa Kinh thánh,
tức là yêu, là kết hợp với Chúa qua ơn thượng trí.
An-phong Minh,
ofm
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ
KHÁC BIỆT GIỮA BÍ TÍCH, Á BÍ TÍCH VÀ ÂN XÁ |
Hỏi: Xin cha giải thích lại sự khác nhau giữa bí tích, á bí tích
và ân xá.
Trả lời:
I- Bí
tích (sacrament) là gì?
Trước hết, nói đến
bí tích (sacramentum) thì phải nói đến Chúa Kitô là Mầu Nhiệm
(Mysterium) cứu độ độc nhất cho nhân loại, vì ngoài Chúa ra,
không có Mầu Nhiệm nào khác mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến
cho con người. Bí tích là những dấu chỉ hữu hình (visible signs)
mà Chúa Thánh Thần dùng để ban ơn cứu độ của Chúa Kitô cho
chúng ta trong Giáo Hội. Đây là những phương tiện cứu rỗi hữu
hiệu mà chính Chúa Kitô đã thiết lập để ban phát ơn thánh hóa và
cứu độ của Người cho chúng ta cho đến ngày mãn thời gian.
(SGLGHCG số 774). Có bảy bí tích như chúng ta quen thuộc từ xưa
đến nay.
Điều kiện quan
trọng nhất để lãnh cách hiêu quả bất cứ bí tích nào, là phải
có đức tin, tức là
vững chắc tin về hiệu quả thiêng liêng thật sự của bí tích muốn
lãnh nhận hợp pháp trong Giáo Hội. Thí dụ, khi lãnh bí tích
Thánh Thể, tức là rước Mình Máu Chúa Kitô, thì phải tin chắc
rằng có Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh và rượu
nho cho ta thờ lậy và xin ơn; nếu không, việc rước Chúa sẽ là vô
ích và người rước Mình Máu Chúa cũng chỉ thấy mình ăn chút bánh
và uống tí rượu nho mà không cảm nghiệm được điều gì có tác dụng
đánh động tâm hồn cả. Cũng vậy, khi đi xưng tội, nếu hối nhân
không tin có Chúa Giêsu hiện diện và tha tội cho mình qua tác vụ
của một linh mục, dù là bất xứng dưới mắt người đời, thì việc
xưng tội cũng sẽ không mang lại lợi ích nào cho hối nhân. Nói rõ
hơn, khi ta xưng tội thì ta xưng tội với Chúa qua vị linh mục và
chính Chúa Kitô sẽ tha tội cho ta qua công cụ loài người là
linh mục hay giám mục, là các thừa tác viên chính thức của bí
tích hòa giải. Có tin như vậy thì mới cảm thấy tội được tha và
tâm hồn được an vui sau khi thành thực xưng các tội nặng nhẹ đã
phạm vì yếu đưới con người.
Chính vì thiếu điều
kiện đức tin này, nên có người đã nói: tôi được rửa tội rồi mà
có thấy mình được “tái sinh” ở chỗ nào đâu, tôi vẫn thấy tôi
nguyên vẹn như cũ! hoặc “sau mỗi mùa chay và tuần thánh, tôi đâu
có thấy mình chết đi và được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh
như Giáo Hội nói đâu”!
Nói thế là vì
không có đức tin, nên không tin có sự đổi mới trong tâm hồn
sau khi nhận lãnh bí tích rửa tội, nhờ đó tội nguyên tổ và mọi
tội cá nhân được tẩy sạch và đươc tái sinh trong sự sống mới,
và “mặc lấy Chúa Ktô” như Thánh
Phaolô đã dạy.(x. Gl 3:27). Có đức tin thì mới tin có Chúa là
Đấng tạo dựng mọi loài mọi vật, dù mắt ta không hề trông thấy
Chúa, tai không hề nghe tiếng Ngài nhưng lòng trí vẫn tin chắc
có Chúa như Giáo Hội dạy.
Giáo dân được
khuyến cáo năng lãnh nhận các bí tích hoà giải và Thánh Thể để
được thánh hoá, được giao hòa lại với Chúa, với Giáo Hội và với
tha nhân sau khi đã lỡ sa phạm tội vì yếu đuối con người, và
nhất là vì bị ma quỷ cám dỗ với gương xấu của thế gian. Bí tích
Thánh Thể cũng ban sức mạnh thiêng liêng để giúp ta nên thánh,
sống đức tin, đức cậy và đức mến cách nồng nàn trong trần thế
này, sau khi đã được tái sinh qua Phép Rửa và được thêm sức
mạnh, trí hiểu và khôn ngoan của Chúa Thánh Thần qua bí tích
Thêm sức. Nhưng cần thiết phải có đức tin khi lãnh nhận bất cứ
bí tích nào, đặc biệt là hai bí tích hòa giải và Thánh Thể, thì
mới có thể hưởng được các lợi ích hay hiệu quả thiêng liêng để
nhờ đó, ta được trở nên ngày một giống Chúa Kitô hơn cũng như
được lớn lên trong đức tin có Chúa là Cha nhân từ và đầy lòng
thương xót.
II- Á bí tích (Sacramentals)
Sách Giáo Lý Giáo
Hội Công Giáo ( SGLGHCG) định nghĩa Á Bí tích " là những
dấu hiệu linh thánh, phần nào giống như các Bí tích, nhờ đó các
hiệu quả thiêng liêng được thông ban nhờ lời cầu nguyện của
Giáo Hội. Nhờ các Á Bí tích này, chúng ta được chuẩn bị để lãnh
nhận hiệu quả của chính các bí tích." ( SGLGHCG số
1667). Nói rõ hơn, Á Bí Tích là những dấu chỉ hay phương tiện
có liên hệ phần nào đến các bí tích hay thực tại thiêng liêng,
đã được Giáo Hội thiết lập để xin ơn Chúa cho người hoặc để
thánh hoá đồ vật dùng trong phụng vụ thánh như: Thánh giá, nước
phép, nến, dầu thánh (Chrism), áo Đức Bà (scapular) tràng hạt,
Kinh Thánh (Bible), sách kinh, sách lễ, phép lành, (kể cả phép
lành của Đức Thánh Cha), hài cốt các thánh, bình đựng Mình Máu
Chúa (Ciborium, chalice, paten) khăn thánh (corporal,
purificator), bàn thờ, khăn bàn thờ, áo lễ (chasubles, stoles,
Albs), tro dùng trong Thứ tư Lễ Tro (Ash Wednesday) và lá làm
phép (Chúa Nhật Lễ Lá)... tất cả đều là các Á Bí Tích mà người
tín hữu phải tôn trọng với lòng mộ mến vì giá trị thiêng liêng
của các Á bí tích nói này.
III- Ân Xá (Indulgences)
Là ân huệ thiêng
liêng mà Giáo Hội, với quyền cầm buộc và tháo gỡ, lấy từ kho
tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các
thánh, để tha hình phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người
còn sống hay cho các linh hồn đang còn ở luyện tội . Hình phạt
này là hậu quả của tội nặng, nhẹ đã được tha qua bí tích hòa
giải mà hối nhân phải làm sau khi xưng tội. (việc đền tội =
penance). Nếu hối nhân không làm đủ việc đền tội này khi còn
sống thì phải được thanh luyện sau khi chết ở nơi gọi là Luyện
tội. Do đó, ân xá mà Giáo Hội ban chỉ có mục đích tha hình
phạt hữu hạn này mà thôi, chứ không tha các tội nặng, nhẹ như
mục đích và công dụng của bí tích hoà giải. Nói khác đi, chỉ
qua bí tích hoà giải, chúng ta mới được tha các tội nặng nhẹ đã
phạm vì yếu đuối con người, và nhất là vì còn tin tưởng nơi lòng
xót thương tha thứ của Chúa. Nếu không còn tin tưởng gì nơi lòng
thương xót của Chúa để chậy đến xin Người tha thứ qua bí tích
hòa giải, thì lại mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, là tội hoàn
toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình yêu của Người. Như vậy, bao lâu
còn cứng lòng trong sự từ khước tình thương và ơn tha thứ của
Chúa thì bấy lâu ở trong tội không thể tha thứ được như Chúa
Giêsu đã nói rõ : "Bất cứ ai
nói phạm đến Con Người , thì còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến
Thánh Thần thì sẽ chẳng được tha."
Lc 12 :10).
Do đó, muốn được
tha thứ, người ta phải có lòng tin nơi tình thương xót vô biên
của Chúa và thành tâm muốn xin Người tha thứ mọi tội lỗi đã phạm
vì yếu đuối người.
Xin nói lại một lần
nữa : Ân xá không có mục đích tha bất cứ tội nào mà chỉ giúp
tha hay tẩy xóa những hình phạt hữu hạn ( temporal punishments)
là hậu quả còn để lại trong tâm hồn hối nhân sau khi đã được
tha các tội nặng nhẹ qua bí tích hòa giải. Ân xá có thể ban cho
người còn sống và cho các linh hồn trong luyện tội để xin tha
hình phạt hữu hạn nói trên. Ân xá có thể là toàn phần (plenary
Indulgences) hay bán phần (Partial indulgences) để tha hết các
hình phạt hữu hạn hay tha một phần hình phạt này. Giáo Hội ban
phát ân xá trong những dịp trọng đại như Năm Thánh (Jubilee
Year) Kỷ niêm đăng quang của Đức Thánh Cha, kỷ niệm ngày thành
lập Giáo Phận hay Dòng Tu, tham dự lễ mở tay của tân linh mục,
viếng nghĩa trang trong tháng cầu cho các linh hồn, v.v. Người
còn sống có thể lãnh ân xá cho mình hay để nhường lại cho các
linh hồn trong Luyện tội nhưng không thể nhường lại ơn huệ này
cho tín hữu còn sống được.
IV- Sự khác biệt giữa Bí tích và Á bí tích
Bí tích là chính
phương tiện cứu độ mà Chúa Giêsu đã thiết lập để ban ơn cứu độ
cho mọi tín hữu đã gia nhập và đang hiệp thông trọn vẹn với
Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa trên trần thế. Do đó,
các bí tích đều liên hệ trực tiếp đến việc lãnh nhận ơn cứu độ
của Chúa Kitô, như bí tích rửa tội tha tội nguyên tổ và các tội
cá nhân (đối với người dự tòng = catechumens) bí tích Thánh Thể
biến bánh và rượu thành Mình Máu Chúa Kitô, bí tích hoà giải tha
mọi tội nặng nhẹ trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần như đã nói
ở trên. Bí tích Thêm sức cho ta những ơn sủng đặc biệt của Chúa
Thánh Thần để giúp sống xưng đáng là Kitô hữu trong trần thế .
Bí tích Truyền Chức Thánh tiếp tục truyền thống Tông Đồ để ban
quyền Thánh ( Sacra potestas) cho các người được tuyển chọn làm
Phó Tế, Linh mục và Giám mục để phục vụ , giảng dạy, thánh hóa
và chăm sóc dân Chúa được trao phó cho các ngài coi sóc về mặt
thiêng liêng. Sự khác biệt căn bản giữa Bi tích và Á bí tích là
ở điểm bí tích ban ơn thánh, tha tội và chữa lành ( hai bí tích
hòa giải và xức dầu) trong khi Á bí tích là phương tiện để xin
ơn lành của Chúa ban qua Phép lành mà linh mục, Giám mục hay
của Đức Thánh Cha ban cho tín hữu, hoặc để thánh hóa đồ dùng
trong phụng vụ thánh (nước phép, bình đựng Mình Thánh, Chén Lễ,
khăn thánh, tràng hạt và các ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các
Thánh... Nhưng cần nói thêm là Phép lành (Blessing) dù là của
Đức Thánh Cha, thì cũng không có mục đích tha tội nặng nhẹ nào
cho người nhận lãnh. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha có thể ban phép
lành Tòa Thánh và ơn toàn xá cho bệnh nhân đang hấp hối , đã
được xức dầu và tha mọi tội trong cơn nguy tử đó. Linh mục cũng
được phép ban Phép lành này của Tòa Thánh cũng như tha mọi hình
phạt cho người đang lâm cơn nguy tử với công thức qui định.
Sau đây là một vài
thí dụ về sự khác nhau giữa bí tích và á bí tích
- Nước
phép và dầu thánh là Á bí tích được dùng làm chất liệu cần thiết
để cử hành bí tích rửa tội. Dầu thánh (Chrism) cũng được dùng
trong các bí tích thêm sức, xức dầu bệnh nhân và truyền chức
thánh.
- Thánh
giá với tượng Chúa chịu nạn (crucifix) hay bình đựng Mình Thánh
Chúa (Ciborium), Chén lễ =(Chalice) là á bí tích nhưng bánh và
rượu được truyền phép (consecrated) là bí tích về sự hiện diện
thực sự (real presence) của Chúa Kitô trên bàn thờ, trong nhà
tạm (tabernacle). Do đó, chỉ phải thờ lậy (adore) Chúa Kitô
trong hình bánh và rượu của bí tích Thánh Thể mà thôi. Đối với
mọi ảnh tượng khác của Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh nam nữ thì
chỉ được tôn kính (honor, venerate) chứ không thờ lậy vì đây là
những á bí tích giúp ta liên tưởng đến Chúa Kitô, Đức Mẹ và các
Thánh đang ở trên Trời mà ảnh tượng kia là những biểu tượng hữu
hình (visible symbols) giúp ta dễ nâng lòng lên với Chúa và cầu
xin (nhở cậy) Đức Mẹ và các Thánh chuyển cầu thay cho ta trước
Tòa Chúa trên Thiên Đàng.
- Toà
giải tội là á bí tích được dùng làm nơi cử hành bí tích hoà giải
(xưng và tha tội).
- Áo
lễ linh mục, giám mục mặc là á bí tích để cử hành bí tích Thánh
Thể (Thánh lễ tạ ơn = the Eucharist). Vì thể không được mặc y
phục hay quốc phục của bất cứ dân tộc nào khi cử hành Thánh Lễ
Tạ Ơn trong mọi dịp phụng vụ thánh, vì các y phục đó không phải
là á bí tích được công nhận để dùng trong phụng vụ thánh. Ai
mặc quốc phục khi cử hành Thánh Lễ là đã tự ý làm sai phụng vụ
về lễ phục.
Tóm lại, có sự khác
biệt về mục đích và công dụng giữa các bí tích, á bí tích và ân
xá như đã trình bày trên đây. Tuy khác nhau , nhưng đều có liên
hệ với nhau trong mục đích lãnh nhận ơn thánh dồi dào của Chúa
ban cho chúng ta trong Giáo Hội được thiêt lập như phương tiện
hữu hiệu để ban phát ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô và
trong Chúa Thánh Thần.
Vì thế, mọi tín hữu
đều được khuyến khích năng lãnh nhận các bí tích (Hòa giải,
Thánh Thể và Xức dầu) dùng á bí tích với niềm tin và lòng mộ mến
cũng như lợi dụng mọi dịp để lãnh ân xá hầu mưu ích thiêng liêng
cho mình và cho các linh hồn trong luyện tội.
LM. Phanxixô Xaviê Ngô tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÂN PHƯỚC GIOAN PHAOLÔ II BÌNH
LUẬN VỀ THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM
|
Ngày này cách đây 121 năm ra đời Thông điệp
Rerum Novarum (Tân Sự), được xem là bức thông điệp xã hội đầu
tiên của Giáo hội. Chúng tôi mời các bạn đọc phần tóm lược về
thông điệp và phần bình luận sâu sắc của Chân phước Gioan Phaolô
II nhân kỷ niệm 100 năm ngày ban hành thông điệp, trong đó ngài
đưa ra nhận định và cũng là phương dược cho mọi vấn đề xã hội: “Giáo
huấn xã hội của Giáo hội là một bộ phận không thể thiếu được
trong sứ điệp Kitô giáo. Không thể có bất kỳ giải pháp nào cho
“vấn đề xã hội” mà ở ngoài Phúc âm”.
Tóm lược về Thông điệp Rerum Novarum
(Thông điệp thời
danh Rerum Novarum nay đang bước vào tuổi 121)
Thông điệp Rerum
Novarum (Tân sự) do Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII ban
hành ngày 15 tháng 5 năm 1891, đề cập đến tình trạng của giai
cấp công nhân. Ngài đưa ra câu trả lời của Giáo hội Công giáo
cho cuộc xung đột xã hội đã phát sinh theo sau cuộc công nghiệp
hóa và đã dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội. Đức Giáo
hoàng nói rằng trong khi nhà nước đề cao công bằng xã hội bằng
cách bảo vệ các quyền lợi của công dân, Giáo hội phải lên tiếng
về những vấn đề xã hội để giảng dạy các nguyên tắc xã hội đúng
đắn và bảo đảm sự hài hòa giữa các giai cấp. Ngài nhắc lại một
giáo huấn vốn đã có từ lâu trong Giáo hội về tầm quan trọng của
các quyền tư hữu, nhưng nhìn nhận rằng hoạt động tự do của các
lực lượng thị trường phải chịu sự kềm chế của những xem xét,
ràng buộc về luân lý.
Lý do chính thúc đẩy Đức Lê-ô XIII viết
thông điệp là ngài tin rằng thời đại của ngài đã trao những
người công nhân nghèo vào tay những ông chủ tham lam và phi
nhân. Ngài thấy các công nhân rơi vào tình trạng túng thiếu và
vô phương tự mình cứu mình, không được nhà nước bảo vệ đủ trước
những những bất công và bạo lực. Trong thông điệp, ngài khẳng
định người nghèo phải có một tư cách đặc biệt cần phải được xem
xét trong các vấn đề xã hội: đó là một nguyên tắc quan trọng của
đạo Công giáo mà ngày nay chúng ta gọi là nguyên tắc “ưu tiên
chọn lựa người nghèo” và tư tưởng Thiên Chúa đứng về phía người
nghèo đã được diễn tả trong văn kiện này.
Đức Gioan Phaolô II bình luận về Thông điệp
Rerum Novarum
Đúng 100 năm sau, Chân phúc Gioan Phaolô II
đã bổ sung Thông điệp Rerum Novarum bằng cách viết Thông điệp
Centessimus Annus (Bách niên). Trong chương I của thông điệp này
(các số 4-11), ngài đã nhận định, bình luận về Thông điệp Rerum
Novarum. Dưới đây, chúng tôi xin được đăng lại phần nội dung của
chương đó, bằng cách dựa theo bản dịch tóm lược của Joseph
Donders trong quyển sách John Paul II: The Encyclicals in
Everyday Language, rồi chuyển sang Việt ngữ.
Chương I. Các “Sự Mới" cách đây một trăm
năm
Số 4.
Vào cuối thế kỷ trước, Giáo hội đang đối mặt với một thế giới
mới. Một loại hình mới về quyền sở hữu và một hình thức lao động
mới đã xuất hiện. Sức lao động của con người được mua bán theo
luật cung cầu, khiến cho các công nhân tiếp tục bị đe dọa bởi
nạn thất nghiệp, mà – nếu không có bảo hiểm xã hội – họ có nguy
cơ chết đói. Xã hội chia thành hai giai cấp, cách biệt nhau một
trời một vực. Khi người ta bắt đầu ý thức được tình trạng bất
công này và một cuộc cách mạng đang đe dọa, Đức Giáo hoàng Lê-ô
XIII viết thông điệp này trình bày “tình trạng của công nhân”.
Số 5.
Xã hội bị xâu xé bởi cuộc xung đột giữa tư
bản và giới lao động, đây là “vấn đề công nhân”. Hai bên đối mặt
nhau như những “con sói” một mất, một còn. Bởi vì đức giáo hoàng
mong muốn hòa bình, nên ngài lên án cuộc đấu tranh giai cấp;
nhưng ý thức rằng hòa bình được xây dựng trên công lý, ngài đề
ra một số điều kiện. Không phải tất cả mọi người đều chấp nhận
Giáo hội có quyền và có nhiệm vụ thực hiện điều này. Nhiều người
cho rằng Giáo hội nên tự hạn chế ở chỗ chỉ rao giảng ơn cứu độ
từ trời cao. Thông điệp của đức giáo hoàng đưa Giáo hội vào giữa
đời sống công cộng. Giáo huấn xã hội của Giáo hội là một bộ
phận không thể thiếu được trong sứ điệp Kitô giáo. Không thể có
bất kỳ giải pháp nào cho “vấn đề xã hội” mà ở ngoài Phúc âm.
Số 6.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII viết về phẩm giá lao động và về các
quyền và phẩm giá của công nhân, họ “làm việc quần quật để có
được những gì cần thiết cho các mục đích sống khác nhau, và trên
hết là vì phải tự bảo tồn". Năng lượng họ sử dụng đang khi làm
việc là một phần của con người họ và thuộc về họ. Lao động là ơn
gọi của con người thông qua đó chúng ta tự thể hiện bản thân.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII nhấn mạnh "quyền tư hữu". Mọi người có
quyền đối với những gì cần thiết cho bản thân và gia đình của
mình.
Số 7.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII nhấn mạnh quyền lập hội và công đoàn –
một quyền không nhà nước nào có thể lấy đi mà không phản bội
"chính nguyên tắc tự tồn tại của mình". Ngài đề cập đến quyền có
số giờ làm việc được giới hạn và quyền nghỉ ngơi, không phân
biệt nam nữ và trẻ em. "Bắt những người lao động nam nữ làm việc
quá sức đến nỗi làm cho đầu óc của họ mụ mẫm và bào mòn thân thể
của họ thật là bất công và phi nhân".
Số 8.
Ngài viết về quyền có đồng lương chính
đáng: "Lương công nhân phải đủ để nuôi bản thân và vợ con của
mình". Ngài tuyên bố quyền này cốt yếu đến nỗi không thể bỏ mặc
cho các bên tự do giao kết. Nhiệm vụ của nhà cầm quyền là chăm
lo phúc lợi của công nhân. "Mọi cá nhân đều có quyền tìm kiếm
những gì giúp mình có thể sống. Và người nghèo chỉ có thể kiếm
được điều đó nhờ đồng lương do lao động của mình". "Nếu người
lao động phải chấp nhận các điều kiện rất khắc nghiệt, thì người
đó là nạn nhân của bạo quyền và bất công".
Số 9.
Đức Lê-ô XIII khẳng định, mọi người đều có
quyền chu toàn các bổn phận tôn giáo của mình, đồng thời ngài
nhấn mạnh quyền và nhu cầu được nghỉ ngơi ngày chủ nhật. Chúng
ta có thể tự hỏi liệu các xã hội công nghiệp hóa có bảo đảm
quyền cơ bản được nghỉ ngơi ngày chủ nhật không.
Số 10.
Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII phê bình "chủ
nghĩa xã hội" và "chủ nghĩa tự do". Đối với "chủ nghĩa xã hội"
ngài khẳng định quyền tư hữu. Đối với chủ nghĩa tự do, ngài bảo
rằng nhà nước không được ưu đãi người giàu trong khi bỏ rơi
người nghèo. Chính người nghèo có quyền được quan tâm đặc biệt.
Giai cấp những người giàu có thể tự lo liệu lấy; người nghèo tự
bản thân họ lại không có nguồn lực nào để tự lo cho mình. Họ chủ
yếu nương tựa và sự trợ giúp của nhà nước. Điều này ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị, nếu ta xem xét tình trạng nghèo khổ trên thế
giới. Điều quan trọng là không được cậy dựa vào bất kỳ ý thức hệ
hoặc lý thuyết chính trị nào, mà dựa vào nguyên tắc liên đới, có
giá trị trong trật tự quốc gia và trật tự quốc tế. Đức Lê-ô XIII
sử dụng thuật ngữ "tình bạn" để chỉ về liên đới. Đức Piô XI thì
gọi là "bác ái xã hội"; Đức Phaolô VI, mở rộng khái niệm đó, đề
cập đến một “nền văn minh tình thương".
Số 11.
Diễn tả lập trường “ưu tiên chọn lựa người nghèo” của Đức Giêsu
và của Giáo hội, Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII yêu cầu nhà nước làm
một điều gì đó đối với tình trạng của người nghèo, dầu ngài
không mong nhà nước giải quyết mọi vấn đề xã hội. Ngài đòi phải
có những hạn chế đối với sự can thiệp của nhà nước. Cá nhân, gia
đình và xã hội phải được nhà nước bảo vệ chứ không phải đàn áp.
Điểm chính yếu trong thông điệp của Đức
Lê-ô XIII và trong học thuyết xã hội của Giáo hội là một cái
nhìn đúng đắn về con người. Con người được Thiên Chúa mong
muốn; họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Phẩm giá của họ không đến
từ công việc họ làm, nhưng đến từ nhân vị của họ”.
Nhân dịp kỷ niệm bách chu niên Thông điệp
Rerum Novarum và, Chân phúc Gioan Phaolô II không chỉ bình luận
Thông điệp mà còn đưa ra những bổ sung, cập nhật, phân tích hoàn
cảnh mới đúng một trăm năm sau ngày Thông điệp xã hội đầu tiên
của Giáo hội.
Đan Quang Tâm
(15.5.2012) |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÙNG MẸ VỚI LỜI KINH LẠY CHA
|
Đức Maria là vẻ
đẹp tòan hảo trong lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ
cầu nguyện dâng lên Chúa Cha. Đức Maria đã biến đổi lời kinh Lạy
Cha thành lời kinh thực hiện trong cuộc đời của Mẹ. Với tâm tình
ấy, con xin dâng lên Mẹ Maria những tâm tình suy niệm này trong
tháng hoa Mân Côi.
Tâm tình của người con nơi Mẹ Maria:
Lời kinh tán tụng
Chúa Cha mà Mẹ dâng lên tuyệt hảo nhất là phần đầu của kinh
Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui
mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Tâm tình này biểu lộ một
tâm tình của người con trìu mến đã thấm nhuần ân huệ của Cha.
Đối với người con, không có tâm tình nào đầy đủ cho bằng một tâm
hồn toát ra niềm vui hạnh phúc tràn đầy khi sống trong tình Cha.
Chỉ với câu đầu thưa lên “Lạy Cha” thôi đã nhận ra một niềm vui
khôn tả reo lên của người con, với Mẹ Maria là người được “đầy
tràn Chúa Thánh Thần” reo lên “Lạy Cha” thì có lẽ đã trở thành
niềm cảm hứng tuôn trào khi Thánh Phaolô viết ra: “không miệng
lưỡi nào kêu lên “Cha Ơi” mà không do Chúa Thánh Thần” (Rm 8,
14), và trong niềm vui cảm xúc dâng trào ngập tràn Chúa Thánh
Thần, nhân loại biết bao người từ thế hệ này sang thế hệ khác
cũng đã sống ngập trong hạnh phúc khi cùng Mẹ dâng lên lời kinh
Lạy Cha. Tràn ngập Chúa Thánh Thần, nên Mẹ Maria dâng lên Cha
những gì đặc sắc nhất, mà những điều ấy chính Mẹ đã nhận ra
không phải là do Mẹ mà do “Chúa đã làm cho con những điều trọng
đại”. Mẹ đã cảm nghiệm điều quan trọng của tâm tình người con
hòan hảo, đó là “phận hèn bé mọn”. Trong vòng tay Cha yêu thương
bao giờ con người cũng nhận ra sự bé nhỏ của mình, sự bé nhỏ này
mang lấy một đời sống thơ ấu thiêng liêng thánh thiện nhất vì
được hưởng nhờ sư thánh thiện trọn vẹn của Cha. Chỉ Cha là Đấng
Thánh, trọn hảo Thánh, tuyệt đối Thánh, nên nơi Mẹ Maria được
tinh tuyền là nhờ kết quả Cha thương ban Thánh Thần để thánh hóa
Mẹ. Bao giờ chúng con, những người nhân loại chúng con mới đạt
tới mức độ được Thánh Thần thánh hóa trọn vẹn để chúng con thật
tình say sưa dâng lên lời cầu “Lạy Cha” một cách vui sướng nhất,
hạnh phúc nhất trong những ngày đời của chúng con? Mẹ ơi, xin
giúp chúng con Mẹ nhé, một tâm hồn bé nhỏ thật sự trong tình yêu
của Cha.
Danh Cha cả sáng:
Danh Cha đã tỏa
sáng trong công trình Sáng Tạo của Người, “các tầng trời thuật
lại vinh quang Chúa”. Tiếc thay, nhân thế chúng con, trong tội
lỗi đã che khuất vinh quang của Cha nơi chúng con, khiến chúng
con đi trong mù tối không nhận được ánh sáng của Cha. Hướng về
Mẹ Maria, chúng con mới lấy lại được niềm hứng khởi mà xa lánh
tội lỗi, vì nơi Mẹ chúng con đọc thấy cuộc đời “sen nở giữa
lầy”, từ bóng tối tăm đã lóe lên một ánh sáng. Nơi Mẹ Maria,
chúng con nhận ra vinh danh Cha tỏa sáng nơi Mẹ bởi Mẹ vô tì
tích, trắng trong, không vướng chút bợn nhơ tội lỗi. Cha thực
hiện công trình kỳ diệu của Cha nơi người Mẹ trần thế chúng con,
là một thụ tạo giữa muôn thụ tạo, một điển hình của lòng thương
xót Cha nơi mẹ Maria. Làm sao cuộc đời chúng con thấy được Tình
Cha yêu thương chúng con như Thánh Phao Lô chứng nghiệm: “không
phải vì chúng ta hay, chẳng phải vì chúng ta ngoan mà Thiên Chúa
yêu thương chúng ta nhưng vì Tình yêu thương của Chúa muốn yêu
thương”. Không có cuộc đời nào của con người nào mà không được
Cha yêu thương, chỉ có chúng con không nhận ra tình yêu thương
của Cha và khi chúng con sống trong tội lỗi chúng con chống lại
tình yêu của Cha. Danh Cha cả sáng nơi Mẹ Maria, đó là ánh sáng
mà những người con chạy đến kêu cầu cùng Mẹ đều nhận ra ánh sáng
ấm áp của Tình Cha, ánh rạng ngời không làm chóa mắt chúng con
nhưng là ánh sáng dẫn chúng con trở về cùng Cha qua Mẹ Maria.
Nước Cha hiển trị:
Một tâm hồn thanh
tịnh reo vui là một tâm hồn biểu lộ an bình. An bình tỏ lộ nơi
Mẹ Maria mà trong nhiều người chúng con chạy đến Mẹ xin ơn Bình
An. Mẹ an bình vì Mẹ đón nhận tòan vẹn Con Cha sinh hạ dưới thế
là Đấng Bình An. Mẹ Maria, làm sao chúng con đón nhận Đấng ban
Bình An được tòan vẹn như Mẹ, bởi lúc nào chúng con cũng mang
khát vọng đầy tham sân si thực hiện theo những nẻo gian tà.
Trong lối đường chúng con đi, thiếu vắng Đấng Bình An, chúng
con “đã không tiếp nhân Chúa Con, mà Ngài đã đến nơi nhà Ngài”
(Ga 1, 11), chúng con muốn sống tách biệt với Chúa, chúng con
muốn tự tạo lập an bình cho chúng con không cần Chúa. Chúng con
sai lầm không hiểu rằng: “không thể có an bình nếu không có
Chúa”. Càng muốn thiết lập an bình lại càng gây nên chiến tranh,
càng muốn an bình tự tại lại càng bị xâu xé bởi lòng dục, càng
muốn bình an thiên hạ lại càng gây chia rẽ, chúng con thiếu vắng
Chúa, chúng con xin Mẹ mang Chúa đến cho chúng con như xưa Mẹ
mang Chúa đến thăm bà Elizabeth, để chúng con được thánh hóa nhờ
Con của Mẹ.
Nước Cha là một
nước an bình vì chính Hòang Tử Bình An lãnh đạo, không những
Ngài cai quản thế giới mà còn là Đấng cai quản từng tâm hốn
trong bình an. Nơi Đức Maria, chúng con nhận ra chính Chúa Giêsu
cư ngụ, Ngài là trật tự mới của tâm hồn người đón nhận, chính
nhờ trật tự này mà tâm hồn không bị xáo động bởi những dục vọng
đam mê, mà tất cả được quy hướng về Thiên Chúa là Cha, được
thống nhất trong mọi chiều kích tâm hồn và thể xác. Trong khi
chiêm ngắm Mẹ Maria, chúng con tin chắc chắn rằng chỉ có thể có
được bình an tự tại đích thực là đón nhận Chúa Giêsu Kitô trọn
vẹn trong tâm hồn chứ không do hoàn tòan ý chí của con người nỗ
lực diệt được những dục vọng mà thiết lập được bình an tự tại.
Thế nên, Thánh Phaolô kinh nghiệm chỉ ra rằng: “Tôi thật là một
người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết
này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm
7, 24 - 25). Bình an thật sự mới là tâm hồn tạ ơn thực sự, xin
Mẹ dạy cho chúng con biết đón nhận Chúa Giêsu, Con lòng Mẹ.
Ý Cha thể hiện.
Lắng nghe và suy đi
nghĩ lại trong lòng là phương pháp của Mẹ để thực hiện cuộc đời
theo Ý Thiên Chúa. “Xin Người cứ làm cho tôi như sứ thần truyền”
(Lc 1, 38). Tâm hồn lắng nghe Ý Chúa để cả thân xác thực thi ý
muốn của Người, đấy là một nỗ lực từ nơi Mẹ Maria. Chính vì vậy,
Mẹ Maria đã vui mừng khi loan báo “Chúa đã làm cho tôi những
điều trọng đại”. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được những điều trọng
đại kỳ diệu mà không gì sứt mẻ trong khi thực hiện nơi con
người. Nếu con người, chúng con nỗ lực để đi đến thành công thì
chính con người, chúng con cũng nhận thấy từ những thành công đó
có thể làm chúng con vấp ngã. Vấp ngã ngay trong thành công của
người đời, là một sự thực khó tránh khỏi. Chính vì vậy, chúng
con khi chiêm ngắm cuộc đời của Mẹ Maria mới thấy rõ ràng, sự nỗ
lực của Mẹ trở nên sức mạnh phi thường không rơi vào sụp đổ là
do công trình của Thiên Chúa thực thi nơi Mẹ. Ý Cha bao giờ cũng
tòan vẹn, nhưng con người lại đi tìm cho mình việc hòan thành
thế giới này ngoài ý muốn của Cha. Hết sai lầm này đến sai lầm
nọ, hòan thành thế giới theo ý muốn của con người trong lòng
kiêu căng “con người tự tôn vinh nhau và đi tìm vinh quang lẫn
nhau” (Ga 5, 44), nên con người cứ lạc lối, cứ đau thương, cứ
mãi tủi buốn. Làm sao, chúng con có thể sẵn sàng đón nhận ý Cha
như Mẹ Maria, để thưa xin vâng như Mẹ? Xin Mẹ dạy chúng con biết
lắng nghe và suy đi nghĩ lại những điều Chúa nói với chúng con
trong Thánh Kinh và trong Giáo Hội.
Lương thực hằng ngày
Lương thực hằng
ngày là cách nói và mời gọi dùng của cải của mình sinh ơn ích
cho người khác về phần hồn và phần xác. Của cải, theo quan điểm
của Thánh Gioan Kim Khẩu, của cải thuộc về một số người để những
người này lập nên công trạng bằng cách chia sẻ cho người khác.
Chắc chắn rằng Mẹ Maria sống trong gia đình Nazareth đón nhận sự
nghèo khó là hướng tới thiện ích cho người khác và góp phần xây
dựng xã hội công bằng. Chính trong môi trường Thánh Gia này mà
Chúa Giêsu đã học cách bênh vực cho người nghèo khó và luôn đứng
về phía họ để chống lại những kẻ áp bức, bóc lột. Đồng thời, qua
giáo huấn của Chúa Giêsu mà Mẹ Maria cũng nhận ra đường hường
của Chúa Cha trong việc quản lý các ân sủng của Thiên Chúa trong
họat động linh họat của Chúa Thánh Thần. Đối với Đức Maria, khi
chúng con chiêm ngưỡng Mẹ qua đời sống khó nghèo của gia đình
Thánh Gia, chúng con vẫn luôn thao thức về cung cách quản lý và
chia sẻ của chúng con. Dùng của cải để hưởng thụ xa xỉ bên cạnh
người anh chị em thiếu ăn, rách rưới khốn cùng. Ngay cả khi
chúng con dùng của cải cách chính đáng nhưng vượt xa mức cần
thiết, chúng con cũng nghĩ tới đời sống thanh bần của Mẹ. Làm
sao chúng con có được tâm hồn quảng đại đón nhận sự khó nghèo để
anh chị em chúng con được sống dồi dào như Người Con của Mẹ trở
nên nghèo khó để mọi người được giàu có trong ân sủng Thiên
Chúa.
Tha cho chúng con.
“Xin Cha tha cho
chúng, đó là lời khấn nguyện của Chúa Giêsu trên Thập Giá và
cũng là câu nói Mẹ nghe gần kề trong tâm khảm của Người Con. Mẹ
nhiều lần nhắn nhủ con cái Mẹ: “Hãy ăn năn đền tội” vì đấy là
điều kiện để được tình Cha tha thứ. Cha đã tha thứ cho nhân loại
nhờ hiến lễ duy nhất của Chúa Giêsu trong đó Mẹ Maria cùng đồng
công đau khổ để tham dự vào hy tế. Bởi thế trài tim Mẹ vẫn như
lưỡi đòng đâm thấu trái tim như vẫn từng đâm thấu khi xưa trên
núi thánh. Đau khổ vì tội lỗi của những đứa con bởi tội lỗi, bởi
bất khoan dung, hận thù ích kỷ chai đá, không tha thứ… Trái tim
Mẹ bị đâm thấu nên Mẹ vẫn khóc vì con cái loài người được trao
phó cho Mẹ. Xin tha thứ cho chúng con và xin cho chúng con cũng
biết tha thứ. Tha thứ là quyền năng của tình yêu phá tan hận
thù.
Chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Cám dỗ thường
xuyên, và cũng có hai mặt, xin chớ để sa chước cám dỗ là để
chúng con trưởng thành hơn trong đời sống Kitô hữu và mặt khác
sa chước cám dỗ làm chúng con xa cách tình yêu của Thiên Chúa.
Chớ sa chước cám dỗ, hẳn là lời cầu nguyện không ngừng của Mẹ,
bởi Mẹ cũng sống chật vật hơn chúng con, ngày nào cũng canh cánh
nỗi lo cơm nước gạo tiền, nhưng nơi Mẹ vững lòng trông cậy vào
Thiên Chúa và nhìn thấy biết bao ân lành tuôn đổ xuống trên Mẹ:
Thiên Chúa đoái thương phận hèn tớ nữ. Trong ngày đời của chúng
con, lắm phen sa ngã vì bon chen giữa cuộc đời mà quên mất lòng
trông cậy, thiếu kém lòng tin và chẳng có lòng yêu mến. Lời Chúa
nói với chúng con: Trong tình yêu thì không có sợ hãi, nhưng rồi
chúng con cứ xa cách tình yêu, nhạt nhòa lòng mến nên còn nhiều
sợ hãi và sa vào những cám dỗ trần thế. Mẹ ơi xin chuyển cầu
cùng Chúa cho chúng con.
Amen.
L.m Giuse Hòang Kim Toan
www.Joshkimt.blogspot.com
joshkimtoan@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC PHƯƠNG CÁCH GÂY THIỆN CẢM
-
THỰC TẬP SỐNG NHÂN
BẢN KITÔ GIÁO |
1. LỜI CHÚA:
Thánh
Phaolô khuyên tín hữu Cô-lô-xê: ”Anh em là những người được
Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em
hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn
nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người
này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh
em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết
mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: Đó là mối dây liên kết tuyệt
hảo” (Cl 3, 12-14).
2. CÂU CHUYỆN: ĐI TÌM MỘT CON
NGƯỜI HOÀN HẢO.
NASRUDDIN là
hiện thân của những anh chàng độc thân khó tính. Trong một buổi
họp vui với bè bạn, khi được hỏi tại sao đến tuổi này mà chưa
chịu lấy vợ, anh đã trả lời như sau :
”Tôi đã dành
trọn thời gian tuổi thanh niên để đi tìm cho mình một người phụ
nữ hoàn hảo: Tại Cairô thủ đô Ai cập, tôi đã gặp một người đàn
bà vừa đẹp người lại vừa thông minh, với đôi mắt đen huyền như
hạt ô-liu. Nhưng người phụ nữ này lại ăn nói cộc cằn không chút
dịu dàng. Tôi đành bỏ Cairô để đến thành Baghdad thủ đô Irắc, hy
vọng tìm được một người phụ nữ như lòng mong ước. Tại đây, tôi
đã may mắn sớm tìm được một phụ nữ hoàn hảo đẹp người đẹp nết và
thông minh. Nhưng khi tiếp súc, tôi thấy hai người chúng tôi lại
khắc khẩu vì không đồng quan điểm về bất cứ điều gì. Rồi bỏ cô
này tôi tìm đến cô khác: cô thì chấm được về điểm này nhưng lại
thiếu mất điều quan trọng kia và ngược lại... Đến một ngày tôi
thất vọng và nghĩ mình sẽ không bao giờ có thể tìm được một con
người lý tưởng làm vợ, thì một hôm tôi rất mừng khi gặp được một
người phụ nữ toàn vẹn mọi bề: Nàng vừa đẹp, vừa bao dung nhân
hậu và còn luôn biết cách ứng xử tế nhị thông minh… Nàng đúng là
một mẫu người vợ lý tưởng. Nhưng các bạn có biết tại sao đến giờ
này tôi vẫn còn độc thân hay không?... Vì khi nghe tôi ngỏ lời
cầu hôn, nàng đã thẳng thắn từ chối vì nàng cũng như tôi: đang
đi tìm một mẫu người chồng hoàn hảo, và tôi được nàng đánh giá
là người đàn ông quá nhiều khuyết điểm!!!”.
3. SUY NIỆM:
1. Nhân vô
thập tòan:
Thực tế cho
thấy: Con người không ai là người hòan hảo, bởi vì ai cũng có
tội, ai cũng sai lỗi hoặc lớn hoặc nhỏ, nên không ai có thể tự
hào mình là người hoàn hảo, ngòai một mình Thiên Chúa là Đấng
hoàn hảo tuyệt đối. Do đó, thay vì đánh giá người khác cách khắt
khe theo lăng kính của mình, thì chúng ta hãy chấp nhận người
khác với cả ưu lẫn khuyết điểm của họ như thánh Gioan viết: ”Nếu
chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi
Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1
Ga 1,10).
2. Không
thể làm vừa lòng mọi người ?
Chúng ta
không thể tìm thấy trong xã hội một người nào hoàn thiện có thể
làm vừa lòng được mọi người. Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa
làm người, luôn quên mình vị tha bác ái, xót thương phục vụ
những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh… thế mà Người cũng
bị dân Do thái thù ghét và đòi đóng đinh vào thập giá như một tử
tội đai gian đại ác. Còn chúng ta, là con người vốn yếu đuối
mỏng dòn, chắc sẽ không bao giờ có thể làm vừa lòng hết mọi
người được.
3. Các
phương cách gây thiện cảm:
Chúng ta khó
có thể thay đổi được lòng người khác. Tuy nhiên điều có thể làm
được là mỗi người hãy thay đổi bản thân bằng cách tập sống như
một con người dễ thương. Sau đây là một số phương cách đề nghị
thực hành để gây thiện cảm và sống vui vẻ hòa hợp với mọi người:
1) Nghĩ
đến người khác:
Cần luôn quên mình để nghĩ đến người khác. Hãy tập thành thói
quen biết quan tâm đến người bên cạnh và sẵn sàng giúp đỡ hết
mình.
2) Đến với
tha nhân:
Cần chủ động bắt chuyện làm quen với người mới gặp trên tàu xe,
nơi công viên, tại nhà thờ hay trong các buổi sinh họat họp mặt.
Nên tế nhị tìm hiểu về tên tuổi, địa chỉ, số điện thọai, gia
cảnh nghề nghiệp… tùy theo từng trường hợp và mức độ tình cảm
thân thiện.
3) Lắng
nghe cảm thông:
Nên gợi chuyện để người khác trình bày về họ và lắng nghe với sự
cảm thông. Đây là phương pháp gây thiện cảm hữu hiệu. Tuy nhiên
cần tránh thái độ tọc mạch, tò mò khi muốn biết các điều bí mật
mà người kia không muốn tiết lộ.
4) Đáp ứng
nhu cầu:
Tìm hiểu nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần để đáp ứng theo
kinh “Thương người” như: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… Vì yêu
thương phục vụ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.
5) Cho
phúc hơn nhận (x Cv 20,35):
Cần thực hành theo lời Chúa dạy. Những ai đã từng tham gia các
chuyến đi công tác bác ái đều có thể cảm thấy hạnh phúc khi biết
chia sẻ cơm áo cho người nghèo.
6) “Mau
nghe chậm nói khoan giận” (x Gc 1,19):
Trong cuộc sống cần quan tâm thực hành lời thánh Gia-cô-bê nói
trên. Đây là phương cách hữu hiệu để gây thiện cảm với người
chung quanh.
7) Nụ cười
kết thân:
Nên mỉm cười khi tiếp xúc với người khác. Mỉm cười là cách tốt
nhất để làm quen và rút ngắn khỏang cách giữa hai người xa lạ và
là điều kiện để xích lại gần nhau hơn.
8) Biết
tên và ngày sinh của người khác:
Biết tên và ngày sinh của ai là dấu tỏ ra sự quan tâm và là
phương thế hữu hiệu để đạt được thiện cảm của người khác.
9) Xét
đóan ý tốt:
Cần luôn xét đóan ý tốt và nói tốt cho người khác. Tránh nghĩ
xấu cho người mình không ưa. Vì từ nghĩ xấu sẽ dẫn đến nói xấu
và quan hệ giữa hai bên ngày một xấu đi. Trước khi phê bình
người nào, cần xét lại bản thân để tự sửa lỗi trước rồi mới đủ
tự tin để giúp sửa lỗi anh em cách tế nhị khoan dung (x Mt
7,1-5). Nên khiêm tốn tự phê trước khi phê bình người khác
10) Khen
ngợi thành thật:
Nên rộng rãi về lời khen như người ta thường nói: “Lời nói không
mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Lời khen phải
thành thật chứ đừng khen giả dối hình thức, không đúng lúc đúng
chỗ, vì sẽ dẫn tới kết quả trái ngược.
11) Tôn
trọng tha nhân:
Cần có thái độ tôn trọng tha nhân khi tiếp xúc nói chuyện. Sự
tôn trọng biểu lộ qua cách xưng hô xứng hợp địa vị và thân sơ,
lắng nghe người khác khi nói chuyện… Sự tôn trọng của ta chắc sẽ
được đáp lại và quan hệ giữa hai bên ngày một tốt đẹp hơn.
12) Nhiệt
tình dấn thân:
Cần nhiệt tình trong mọi việc, sẵn sàng đi bước trước đến với
người khác, nhất là người mới tiếp xúc để chủ động làm quen, sẵn
sàng dấn thân phục vụ quét dọn, lau nhà, dọn bàn và rửa chén bát
sau bữa liên hoan nội bộ… Tuy nhiên cũng cần động viên mọi người
cùng làm, tránh bị hiểu lầm đó là nhiệm vụ của ta.
13) Khiêm
tốn phục vụ:
Sẵn sàng phục vụ tha nhân cách khiêm tốn. Không làm việc để tìm
tiếng khen. Ánh sáng phục vụ sẽ có sức mạnh chiếu tỏa giúp tha
nhân nhìn thấy việc lành chúng ta làm mà ngợi khen Chúa Cha trên
trời.
14) Chia
sẻ niềm vui:
Nên chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phao-lô: “Vui với
người vui khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy noi gương Mẹ
Ma-ri-a đem thai nhi Giê-su đến chia sẻ cho gia đình Gia-ca-ri-a
làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng (x Lc 1,39-45). Tuy nhiên khi
gặp gỡ nhau, cần tránh nói về những chuyện kín đáo trong nội bộ.
15) Cho
phúc hơn nhận:
Cần luôn sống quên mình vị tha. Tập quảng đại cho đi hơn nhận
lãnh (x Cv 20,35). Tránh đòi tha nhân phải làm gì cho mình,
nhưng luôn tự hỏi mình đã làm gì cho tha nhân?
16) Trạng
sư chữa lỗi:
Khi nghe một lời phê phán chỉ trích về một người khác, cần tránh
nói thêm như “đổ dầu vào lửa”, nhưng nên phản ứng bằng sự im
lặng và chuyển sang đề tài khác. Nhất là tích cực làm trạng sư
bào chữa cho người bị chỉ trích, để minh oan hoặc ít là để giảm
nhẹ sự kết án, noi gương Chúa Giê-su đã bênh vực người đàn bà cô
thế bị bắt quả tang phạm tội ngọai tình (x Ga 8,1-11).
17) Viên
thuốc bọc đường:
Cần tế nhị khôn ngoan khi phải sửa lỗi tha nhân. Cần “khen trước
chê sau” để lời chê giống như viên thuốc được bọc đường, sẽ làm
cho kẻ có lỗi dễ dàng đón nhận và ít bị chạm tự ái hơn.
18) Thảo
luận hơn tranh luận:
Thảo luận là khi trao đổi nói chuyện người này biết tôn trọng
người kia bằng cách chú ý lắng nghe, dù đó là ý kiến khác biệt
để tìm ra chân lý. Còn tranh luận là thái độ của kẻ háo thắng,
thể hiện qua sự không lắng nghe lý lẽ mà chỉ muốn “lấy thịt đè
người”, thể hiện qua thái độ cướp lời người đang nói và nói to
tiếng để lấn át đối phương.
19) Sứ giả
hòa bình:
Cần năng đọc “Kinh Hòa Bình” của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa
giúp chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân Nước Trời, đem bình an và
niềm vui của Chúa đến mọi người. Học cách giải hòa tranh chấp
giữa hai người đang thù ghét nhau.
20) Công
khai tài chánh:
Cần làm các việc chung tập thể với tinh thần công minh chính
trực. Khi quyên góp cần đi hai ba người, mang theo sổ sách và
sớm báo cáo kết quả với cấp trên.
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa.
Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Cô-lô-xê cũng là khuyên chúng
con: ”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến
thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân
hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ
cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc
người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh
em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em phải có lòng
bác ái: Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 12-14). Xin
Chúa đổ Thần Khí giúp mỗi người chúng con biết sống tinh thần
“Hiệp Sống- xin vâng và phục vụ” noi gương Chúa Giêsu như Mẹ
Maria xưa, để chúng con có thể gây được thiện cảm với người khác
là điều kiện để chu tòan sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho mọi
người.- AMEN.
LM ĐAN
VINH
www.hiephoithanhmau.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Hành-trình vô-thần của Karl Marx khi còn thanh-niên qua những
sách đọc tham-khảo về tôn-giáo (tiếp theo) |
Gs. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
1. Marx đọc
sách các triết-gia thời thượng cổ
(tiếp theo)
1.2 - Tài-liệu phê-bình
tôn-giáo trích từ các triết-gia thời thượng-cổ
Trong 7 Cặp vở ghi-chú về
triết-học của Êpicur (Berlin, 1839), những đoạn quan-trọng được trích ra là
lấy từ tác-phẩm của Điogênê Laertios, Sextus Empiricus, Plutarch, Lucretius và
Cicêrô. Những tác-giả này đã đem lại cho Marx nhiều tài-liệu bổ-túc cho những
yếu-tố đã có trong triết-lý về thiên-nhiên của Êpicur.
1.2.1 - Marx đọc sách của
Cicêrô
Nói chung thì không thấy
Cicêrô và Marx có gì giống nhau : Cicêrô thì được xếp vào sổ các triết-gia phái
Stoa (khắc-kỷ), còn Marx thì không theo lập-trường như thế. Nhưng Marx có đọc
Cicêrô.
Trong các sách của Cicêrô
thì Marx đã đọc De natura deorum (Về bản-tính của thần-linh), Tusculana, De
finibus (Về các mục-đích), và ông đã trích ra nhiều đoạn có liên-quan đến
đề-tài của luận-văn. Có thể chắc-chắn rằng ngoài những đoạn đó ra, Marx còn biết
nhiều yếu-tố khác, tuy không được chép lại. Thực vậy, sách viết Về bản-tính
của thần-linh thì chia ra làm ba quyển, Chắc là Marx đã đọc hết, nhưng ông
chỉ chép lại những đoạn văn có liên-quan đến Êpicur trong quyển thứ I, đoạn thứ
8 và từ đoạn 13 đến 26. Trong một bài viết sau đó mấy năm, tức là bài
Phê-bình triết-lý của Hegel về Pháp-luật. Phần dẫn-nhập (1843-1844), có một
chi-tiết không quan trọng, mà tôi chưa thấy ai tò-mò tìm xuất xứ, đó là kiểu
nói La-tinh oratio pro aris et focis .
Mà người ta thường để vậy chứ không phiên-dịch, đôi khi người ta chú-thích rằng
nó có nghĩa là bài để biện-hộ cho chính mình. Nay xin thưa rằng : đó là
câu nói mà Cicêrô đặt vào miệng một trong ba nhân-vật đang thảo-luận trong sách
Về bản-tính của thần-linh, trong phần cuối quyển thứ ba, tức là nhà
khắc-kỷ (phái Stoa) tên là Lucilius Balbus. Chi-tiết đó cho ta biết là có những
điều Marx đã đọc được, tuy không chép lại, nhưng vẫn để trong trí khôn. Có điều
chắc, là Marx chỉ trưng-dẫn những tác-giả mà ông đã đọc và biết lập-trường
triết-học tổng-quát.
Vậy khi đọc sách của Cicêrô,
Marx đã tìm thêm được những yếu-tố nào để phê-bình tôn-giáo ?
Trong sách vừa nói trên đây,
Cicêrô dàn cảnh ra cuộc đàm-đạo giữa ba nhân vật tượng-trưng cho ba lập-trường
khác nhau : một là Valleius, thuộc học-phái Êpicur, hai là Lucillius, thuộc
học-phái Stoa (khắc-kỷ), ba là Aurelius Cotta, thuộc học-phái Platôn. Trong
quyển I, Valleius bắt đầu phê-bình phái Stoa, rồi tóm-tắt quan-niệm của các
triết-gia về thần-linh, sau đó thì trình-bày học-thuyết của Êpicur. Đến lượt
học-thuyết này bị Aurelius Cotta phi-bác. Quyển II trình-bày quan niệm của
học-phái Stoa về thần-linh. Quan-niệm này bị Aurelius Cotta đứng trong quan niệm
Platôn phi-bác trong quyển III, Theo như thế thì chỉ có quyển I là có liên-quan
đến học-thuyết Êpicur mà thôi.
Lập-trường của Êpicur được
Velleius tóm-tắt như sau :
‘’Các ông đặt chúng tôi suốt
đời ở dưới ách của một ông chủ khắc-nghiệt, mà đêm ngày chúng tôi phải sợ. Thực
vậy, một vị thần luôn luôn để ý đến mọi việc, nghĩ đến mọi sự, quan-sát hết mọi
cái, một vị thần hoạt-động không có lúc nào ngừng, cái gì cũng nhúng tay vào,
cái gì cũng cho là có liên-quan tới mình, một vị thần như thế thì ai mà lại
không phải sợ ?’’ Ấy thế mà ‘’chính Êpicur là người đã làm cho chúng ta không
còn phải sợ-sệt như trước nữa. Nhờ có triết-gia đó mà chúng ta dễ thở. Chúng ta
biết rằng các thần-linh không hề có ý làm cái gì phiền-hà đến chính mình, cũng
không hề tìm cách gây khó chịu cho kẻ khác. Chúng ta tôn-kính thiên-nhiên, vì
bên trên thiên-nhiên thì không còn có gì nữa : thiên-nhiên mới là đáng chúng ta
thờ-phụng’’ .
Như thế không có nghĩa là
Êpicur phủ-nhận các thần-linh. Người theo học-phái Platôn biết như thế, nhưng
đồng thời cũng thấy ngay hậu-quả của lập-trường đó, cho nên đặt câu hỏi :
‘’Khi người ta nói rằng
nguồn gốc tất cả các tín-ngưỡng có liên-quan đến thần-linh bất tử, đều là do
những người khôn-khéo bày-đặt ra vì lý-do công-ích, vì những kẻ không biết theo
lý-trí cũng được thần-linh chỉ-dẫn cho làm việc bổn-phận hẳn-hoi, nói như thế
phải chăng là tiêu-diệt tôn-giáo ?’’ Rồi kết-luận :’’Bây giờ trở lại Êpicur, khi
chủ-trương rằng thần-linh không phải là những vị có đặc-tính là cứu-độ và ban
phát đặc-ân cho người ta, thì tức là đã nhổ tận rễ cái tình-cảm tôn-giáo trong
tâm hồn người ta ; chính trong khi ca-tụng bản-tính thần-linh là hoàn-hảo vượt
bực, thì ông lại cho rằng thần-linh thiếu hẳn lòng nhân-ái, tức là đặc-tính của
vị nào thực là hoàn-hảo cao-minh’’ .
Hậu-quả đó, Marx đã thấy
ngay. Ông đi theo quan-niệm duy-vật và vô-thần của Lucretius.
Có một điều rất quan-trọng ở
đây, là cũng trong quyển I, từ đoạn 10 đến 15, có duyệt lại tất cả quan-niệm về
thần-linh của các triết-gia, từ Thales và Anaximandre cho tới Zênôn và
Chrisippe, tất cả hơn hai chục người. Trình-bày cả ra đây, thì quá dài, cho nên
thiết-tưởng chỉ cần nêu ra mấy lập-trường căn-bản mà thôi. Có một số triết-gia
cho rằng thần-linh chẳng qua chỉ là những yếu-tố vật-chất
, hay là những tinh-tú trên trời. Một
số người khác nghĩ rằng thần-linh là một thượng-trí tác-tạo và an-bài mọi vật,
hoặc là một linh-hồn điều-động tất cả vũ-trụ. Lại có người do-dự không chắc có
thần-linh hay không, vì thế đối với những ai tin, thì thần là có thực, mà đối
với những ai không tin, thì thần-linh chỉ là do người ta bày-đặt ra để làm cho
đời người dễ sống hơn. Tiếp vào đó thì Aurelius Cotta (học-phái Platôn) cho biết
là :’’có những dân-tộc man-di đã tôn một số cầm-thú lên bậc thần-linh, vì đó là
những loài vật có ích’’ .
Thế thì thần-linh là gì ?
Thiên-Chúa là gì ? Là hữu-hình hay là vô-hình ? Là một hay là nhiều ? Là
bất-diệt hay là có diệt-vong ? Ở ngoài vũ-trụ hay là ở trong vũ-trụ ? Là vô-tình
đối với vũ-trụ hay là có quan-phòng cho vũ-trụ ? Chính vì có nhiều câu hỏi,
nhiều câu trả lời như thế, cho nên không còn quan-niệm nào là tuyệt-đối nữa, mà
chỉ còn là tương-đối mà thôi. Lại cũng không còn ai có uy-tín nữa, nhất là từ
khi người Hi-lạp khám phá ra cái Lý, và bắt đầu triết-lý, thì :’’Trong khi
tranh-luận thì không được tựa vào uy-tín mà bắt người ta phục, người ta có phục
thì là phục những lập-luận có lý-sự mà thôi. Tôi muốn nói thêm nữa, là uy-tín
của người làm thầy thường có hại cho học-trò : vì những người này chỉ biết
tin-tưởng vào ông thầy và tin chắc những điều thầy dậy, mà không còn biết tự
mình quyết-định lấy cho mình’’ .
Hơn nữa, nếu bàn-luận về một
đối-vật mà mình không chắc là có thật, thì rõ-ràng là ta chỉ còn chắc được một
điều, là có cái Ý-thức của ta, có cái Tự-kỷ Ý-thức, như Marx đã bàn-luận trên
đây !
Từ quyển II và quyển III,
thì Marx không trích ra đoạn văn nào cả, nhưng ông cũng lấy ra được ba ý-kiến
sau đây :
Một là :
con người ta có khuynh-hướng đem những đức-tính về luân-lý và những người đã
sáng chế ra những đồ-vật hữu-ích ,
tôn lên làm thần-linh. Thực vậy, người Hi-lạp ‘’thường quan-niệm rằng tất cả
những gì có ích cho nhân-loại đều phát-xuất do lòng nhân-hậu của một vị thần’’
. Nói thế khác, người ta thờ phụng là
vì lòng biết ơn. Đó là ý-kiến mà nhà khắc-kỷ Balbus trình-bày trong quyển II,
đoạn 23, mà sau này Marx cũng sẽ thấy trong tác-phẩm của Feuerbach.
Hai là :
tiêu-chuẩn để phân-biệt tôn-giáo với mê-tín. Sau đây ta sẽ bàn tỉ-mỉ, khi nói vể
Pluarch, là tác-giả một cuốn sách nhan đề là Bàn về mê-tín. Còn ở đây thì
ta tạm trưng-dẫn mấy câu mà Cicêrô đặt vào miệng của Balbus, cũng trong quyển
II :’’Không phải chỉ có các triết-gia, mà cả tổ-tiên chúng ta cũng đã phân-biệt
tôn-giáo với mê-tín. Những người cả ngày cầu-khấn và cúng-tế thần-linh, để cho
con cái được sống, thì người ta cho là mê-tín... Còn những người giữ cẩn-thận
các điều phải làm khi thờ phụng thần-linh, thì cho là có tinh-thần tôn-giáo...
Như thế hai thái-độ khác nhau ở chỗ này : mê-tín là một nhược-điểm, còn tôn-giáo
là việc làm đáng công’’ .
Ba là :
ý-kiến về nguồn-gốc của ý-niệm về thần-linh. Sau đây là lời giải-thich của
Cotta, triết-gia theo học-phái Platôn : ‘’Theo như tiên-sinh vừa nói, thì
Clêanthe nghĩ rằng ý-niệm thần-linh được thành-hình trong tâm-hồn người ta do
bốn lối : thứ nhất là vì, như đã nói, chúng ta có kiến-thức tiên-đoán về
tương-lai, thứ hai là vì có thời tiết thay đổi bất-thường và có động đất, thứ ba
là vì trong thiên-nhiên có dư-dật những sự-vật làm cho đời sống chúng ta
thoải-mái, bốn là vì trên trời có thứ-tự điều-hòa và có tinh-tú vận-chuyển
đều-đặn’’ .
Có lẽ không cần phải
trình-bày nội-dung hai cuốn sách Tusculana và De finibus của
Cicêrô, vì Marx chỉ chép lại trong đó mấy câu đại ý nói rằng Êpicur đã
giải thoát nhân-loại cho khỏi dốt-nát, khỏi mê-tín, vả khỏi sợ chết.
1.2.2 - Marx đọc sách của
Lucrêtius
Marx đã đọc của Lucrêtius
sách De rerum natura (Về bản tính của vạn vật), theo bản mới được in lại
tại Eichstảdt năm 1801, sách viết theo loại thơ, có âm điệu hẳn-hoi,.
Những đoạn văn đáng ghi thì Marx chép lại trong phần thứ hai của Cặp vở
thứ tư và trong tất cả Cặp vở thứ năm .
Lucrêtius đi theo lập-trường
của Êpicur, nhưng từ đó đã chuyển hướng rõ-rệt sang vô-thần. Ông ca-tụng Êpicur
là đã giải-thoát tâm hồn người ta cho khỏi những dây ràng buộc của tôn-giáo.
Thiết-tưởng chỉ cần trưng ra đây đoạn văn mà Marx chép lại về nguồn-gốc vì sao
người ta tin có thần-linh (trích từ quyển V, câu 1168- 1182) :’’Ngay từ buổi
sơ-khai thì trong lúc tỉnh-táo, người ta đã thấy được trong tinh-thần của mình
những hình-dáng đẹp như thần như tiên, và khi ngủ lại thấy chúng có tầm-thước
đồ-sộ. Họ cho rằng các hình-dáng ấy có sống-động, vì thấy tứ-chi có cử-động, lại
nghe thấy nói lên những câu oai-vệ, tương xứng với uy thần và sức thần . Thế rồi
cho rằng chúng được bất-tử, vì các hình-dáng ấy cứ hiện ra trước mắt mà không
thấy kém vẻ đẹp, và vì thấy những vị hùng mạnh như thế không thế nào thua trận
được. Thêm vào đó, lại đoán rằng các vị đó phải có một vận-mệnh không ai sánh
kịp, vì các vị đó không sợ chết và vì người ta mộng thấy các vị ấy làm được
những công-trình phi-thường mà không mệt-mỏi gì cả‘’
.
Marx không chép lại những
câu thơ tiếp theo 1183-1188, trong đó Lucrêtius giải-thích thêm rằng người ta
còn thấy các hiện-tượng trên trời và thấy bốn mùa nối tiếp nhau một cách
đều-đặn, mà không hiểu được lý-do vì sao. Muốn khỏi thắc-mắc bận tâm, người ta
gán tất cả cho thần-linh và cho rằng tất cả đều tùy theo thần-linh ra hiệu mà
vận-chuyển. Nói tắt một câu, chỉ vì không biết được nguyên-nhân, cho nên người
ta qui tất cả vào ý muốn của thần-linh và gán cho thần-linh một thứ uy-quyền
tuyệt-đối.
1.2.3 - Marx đọc sách của
Plutarch
Marx coi thường Plutarch vì
cho rằng ông này hiểu sai Êpicur, mà hiểu sai có lẽ là vì ông không phải là
triết-gia, nhưng là sử-gia (sống vào thế-kỷ I-II trước TLKN). Trong luận-văn
tiến-sĩ và nhất là trong phần phụ-lục, Marx đã chép và trưng dẫn một số đoạn
văn từ tác phẩm của Plutarch. Trong khoảng từ năm 70 đến 80, Plutarch có viết
bằng tiếng Hi-lạp một cuốn sách có liên-quan đến tôn-giáo, nhan đề là Peri
deisidaimonias (Luận về mê-tín). Tuy Marx không trích từ sách này ra một
đoạn văn nào cả, nhưng có thể đoán rằng sách đó đã không thể qua mắt một người
biết tham-khảo cẩn-thận như Marx.
Vấn-đề của Plutarch là xác
định thế nào là kính thần cho phải phép, để chống lại hai thái-độ rất khác nhau
là vô-thần và mê-tín.
Ông phân-biệt hai thái-độ đó
như sau :’’Vô-thần là tư-tưởng sai lạc, chủ-trương rằng không có cái gì là
chí-thiện bất hủ, do đó làm cho ta dửng-dưng đến chỗ phủ-nhận thần-linh, và vì
tin rằng không có thần-linh, cho nên rốt cục không còn sợ thần-linh nữa ; ngược
lại, theo như tên gọi nó, thì mê-tín là một quan-niệm quá nhiều tình-cảm, làm
cho người ta tin rằng có thần-linh, nhưng các vị này lại độc-ác và làm hại ta,
cho nên người ta sinh ra sợ quá hóa ra tê-liệt, mất can-đảm. Thực vậy, người
vô-thần thì xem ra có lập-trường vững chãi đối với thần-linh, còn người mê-tín
thì cựa quậy và có những tác-động bất-xứng. Như thế, vì không biết rõ, cho nên
một bên thì nghĩ rằng không có thần-linh thiện-hảo, còn bên kia thì lại tin rằng
có thần-linh độc-ác. Tựu chung ,vô-thần là một lập-luận sai lạc, còn mê-tín là
một tình-cảm phát sinh từ một lập-luận sai lạc’’
.
Có nhiều đoạn văn khác cũng
nóí lên như thế, ví dụ :’’Vô-thần là thái-độ dửng-dưng đối với thần-linh, đồng
thời thiếu ý-tưởng về điều thiện ; còn mê-tín thì là cảm-xúc thái quá, đồng thời
lại hiểu ngầm rằng điều thiện là điều ác. Những người mê-tín thì sợ thần và núp
bóng thần, vừa nịnh thần vừa chửi thần, vừa cầu-khấn vừa oán-trách’’
. Và một đoạn văn khác :’’Người
vô-thần thì nghĩ rằng không có thần-linh ; còn người mê-tín thì lại muốn là
không có thần-linh, họ có tin thì là vì bất đắc dĩ, vì nếu không tin thì lại
sợ... Thực ra người vô-thần thì hoàn-toàn không mê-tín ; còn người mê-tín thì
tuy muốn là vô-thần, nhưng không vững tâm đủ để dám tự-ý quan-niệm về thần-linh
như mình muốn’’ .
Và đây là kết-luận của
Plutarch :’’Người vô-thần thì hoàn toàn không gây ra mê-tín ; còn người mê-tín
thi lúc đầu cho rằng vô-thần có lý-do tồn-tại, rồi khi có vô-thần rồi thì đưa lý
lẽ ra biện-chính’’ .
Nói tóm lại : theo như
Plutarch thì thái-độ mê-tín là bất-kính thần-linh hơn thái-độ vô-thần. Vì thê
thà rằng chẳng có tín-ngưỡng gì, còn hơn là tin vào một tôn-giáo vô-lý quái-đản.
Và ông kết luận rằng phải tránh mê-tín, nhưng đừng rơi vào vô-thần, và con đường
trung-đạo mới thực là kính thần cho phải phép.
Như ta biết, đó không phải
là lập-trường của Marx. Marx muốn đem vô-thần ra để chống lại cả tôn-giáo lẫn
mê-tín, vì cho rằng hai cái cũng là một.
Có đìều bất ngờ là
lập-trường này không phải là không có chút nguồn-gốc trong tư-tưởng Hi-lạp thời
thượng-cổ. Thực thế, từ-ngữ Hi-lạp deisidaimonia mà người La-tinh
phiên-dịch là superstitio, thì vừa có nghĩa là sợ thần-linh, vừa
có nghĩa là tôn-giáo. Một chữ mà hai nghĩa, cho nên cũng dễ chuyển từ
nghĩa này sang nghĩa kia. Vì thế, khi Plutarch nói rằng Êpicur, là người tin có
thần-linh, đã giải thoát nhân-loại cho khỏi sợ thần-linh, thì Lucrêtius
và Marx có thể hiểu thêm ra là đã giải-thoát nhân-loại cho khỏi tôn-giáo. Và như
thế ta hiểu vì sao cho đến ngày nay vẫn có người đinh-ninh rằng tôn-giáo phát
sinh vì ngươì ta u-mê và sợ những mãnh-lực vô-hình, nghĩa là vì người ta mê-tín
.
1.2.4 - Marx đọc sách của
Sextus Empiricus
Sextus Empiricus là nhà
tư-tưởng thuộc phái hoài-nghi do Pyrrhon xướng xuất, ông sống vào thế-kỷ II-III.
Marx đã đọc của ông này mấy cuốn sách, như : Chống lại các triết-gia, Chống
lại các học-giả và Những kiểu mẫu của Pyrrhon
. Từ mấy cuốn sách đó Marx có
chép vào Cặp vở về triết-học của Êpicur (vở thứ hai) một số đoạn văn, nay
in trong bộ MEGA được chừng dăm sáu trang, trong đó có mấy đoạn nói về quan-niệm
của Đêmocrit, của Êpicur và của Aristotêlês về thần-linh. Nhưng cũng trong mấy
cuốn sách đó Sextus Empiricus còn trình-bày khá dài những quan-niệm khác nhau về
Thiên-Chúa cũng như về sự hiện-hữu của các thần-linh. Tôi dám chắc rằng Marx đã
đọc được cả, cho nên xin trình bày ra đây cho đủ ý-tứ.
Điểm thứ nhất :
về ý-niệm Thiên-Chúa, về ý-niệm thần-linh,
Sextus Empiricus không
trưng-dẫn nhiều tác-giả như Cicêrô, nhưng trưng-dẫn một cách chính-xác hơn. Theo
như ông quan-niệm thì trong buổi đầu nhân-loại, những người đầu-mục đã bày vẽ ra
các thần-linh và huyền-thoại về âm-phủ, để không một ai dám làm điều ác. Theo
như Êvhêmêrus, thì các thần-linh chỉ là những người được tôn-phong làm thần, vì
có sức, có trí phi-thường. Nhà ngụy-biện Prođicos quê ở đảo Kos, chủ-trương rằng
thời xưa người ta coi là thần-linh tất cả những gì có ích lợi cho nhân-loại, như
mặt trời, mặt trăng, sông, nguồn, và cả những người đã sáng chế ra các
nghề-nghiệp nữa. Còn theo như Đêmôcrit thì người thời xưa căn-cứ vào những
hình-ảnh (eidola) giống như người ta, có hình-ảnh có lợi, có hình-ảnh có hại,
khủng-khiếp, mà đoán rằng có Thiên-Chúa là một vị có bản-tính bất-diệt
.
Riêng đối với Aristotêlês
thì ‘’người ta có quan-niệm về thần-linh là do hai nguyên-lý, một là những điều
nảy ra trong tâm-hồn, hai là những hiện-tượng trên trời. Có những điều nảy ra
trong tâm-hồn khi được linh-ứng trong giấc mơ, hay là do lời sấm truyền lại. Vì
lẽ rằng khi ngủ, thì hồn người ta trở về bản-tính của mình, cho nên có thể phát
ra lời sấm và đoán trước được tương-lai. Hồn người ta cũng ở trong trạng-thái đó
lúc sắp ra khỏi xác, lúc sắp chết’’ .
Từ đó người ta đoán rằng có
cái gì thần-thiêng , giông-giống như linh-hồn. Và Sextus Empiricus giải-thích
thêm :’’Lại có người khác nghĩ rằng tinh-thần là như cái gì nhọn và năng động,
khi nó suy-xét về bản-tính riêng của mình, thì cũng suy nghĩ về vũ-trụ, và
quan-niệm rằng có một quyền-lực có khả-năng hiểu biết tối cao, cũng giông-giống
như mình (tinh-thần), nhưng lại có bản-tính thần-linh’’
.
Êpicur thì tin rằng ‘’Ý-niệm
thần-linh là do người ta lấy ra từ những ấn-tượng thâu-nhận được trong lúc ngủ,
khi ngủ mà thấy những hình người đánh mạnh vào cảm-quan, thì người ta đoán là
có thật những thần-linh có hình ngườì như thế’’
.
Về nguồn gốc các quan-niệm
về thần-linh, cũng nên nói thêm rằng có nhiều người nhận ra như thế trong khi
chiêm-ngưỡng thấy các tinh-tú trên trời lúc nào cũng vận-chuyển đều-đặn. ‘’Những
người vượt biển muốn tìm cho biết ai đã an-bài trời đất như thế. Và vì nghĩ rằng
cái thứ-tự đó không phải tự-nhiên mà có, cho nên tất phải là do một vị nào có
bản-tính siêu-việt và bất diệt, vị đó là Thiên-Chúa’’
.
Bây giờ ta đặt lại câu hỏi :
thần-tính là gì ? thần-linh là gì ? Đây là câu trả lời mà Marx chép ra từ sách
Những kiểu mẫu của Pyrrhon do Sextus Empiricus viết :
‘’Có những triết-gia cho
rằng thần-linh là hữu-hình, người khác lại cho rằng là vô-hình. Người này cho
rằng thần-linh ở trong không-gian, người khác lại bảo là không như thế. Trong số
những người cho là ở trong không-gian, thì kẻ này cho là ở trong vũ-trụ, kẻ khác
lại cho là ở ngoài vũ-trụ. Như vậy làm thế nào ta có thể quan-niệm được
thần-linh là gì, nếu không biết được bản-tính, hình-hài và chỗ ở của thần-linh ?
Những người trên đây muốn phác họa cho ta mấy nét về thần-linh, thì họ cứ
thỏa-thuận với nhau rằng thần-linh là thế nọ thế kia trước đi đã, rồi sau đó mới
có thể bảo chúng ta quan-niệm về thần-linh. Bao lâu họ chưa đồng-ý được với
nhau, thì chúng ta chưa thấy phải đồng-ý mà quan-niệm như thế nào.
Có thể là họ sẽ nói rằng :
cứ tưởng-tượng ra một cái gì vừa bất-diệt vừa được hạnh-phúc, rồi bảo đó là
thần-linh. Nhưng nói như thế là ngu : cũng như ai chưa quen biết Điôn, thì làm
sao mà biết được Điôn có những đặc-điểm nào, cũng thế, chính vì chúng ta không
biết bản-tính thần-linh, cho nên cũng không biết, không quan-niệm được các
đặc-điểm của thần-linh’’ .
Như đã nói trên đây, Marx
không chép lại những quan-niệm đó, có lẽ vì quá dài-dợ. Nhưng nếu Sextus
Empiricus trình-bày cả ra, thì tất có dụng-ý : vì càng có nhiều quan-niệm khác
nhau về thần-linh, thì người ta càng thấy rõ là các nhà tư-tưởng đó đều không
biết chắc đâu là sự thật .
Tuy nhiên ông có ý-kiến là
người ta bẩm sinh đã có chút tư-tưởng. Ông viết :’’Tất cả những người mà tôi
nhắc tới, đều đã có từ trước một ý-kiến chung về Thiên-Chúa ? Theo đó,
Thiên-Chúa là một hiện-hữu có sống-động, thánh-thiện, bấy-tử, hoàn-toàn
hạnh-phúc, không vướng mắc điều ác. Vì nếu mọi người đều nghĩ về Thiên-Chúa với
những đặc-tính như nhau, thì không có lẽ gì mà lại do ngẫu-nhiên, nhưng tất phải
là do lẽ tự-nhiên như thế. Cho nên phải kết-luận rằng nếu cổ-nhân công-nhận là
có thần-linh, thì không phải là vì đã thỏa-thuận với nhau, hay là vì có luật
xác-định như thế’’ .
Quan-niệm bẩm-sinh đó làm
cho Sextus Empiricus quan-niệm về Thiên-Chúa khác Êpicur :’’Người ta có ý-tưởng
về Thiên-Chúa, không phải là vì đã nới rộng tầm vóc của một tạo-vật có hình
người, nhưng còn là vì đã thêm vào đó mấy đặc-tính, như : thánh-thiện, bất-tử và
có quyền-lực trên vũ-trụ’’ .
Điểm thứ hai :
Về sự hiện-hữu của các
thần-linh.
Sextus Empiricus đưa ra bốn
chứng-lý, mà sau này người ta hay dùng trong phần Thiên-Chúa-luận (théodicée).
Chứng-lý thứ nhất là mọi
người đồng-ý như thế.
Chứng-lý thứ hai thì căn-cứ
vào trật-tự trong vũ-trụ. Chứng-lý này lại chia ra làm nhiều hạng. Hạng thứ nhất
tựa vào sự-kiện là vũ-trụ có xoay-vần và biến dạng. Hạng thứ hai cho rằng các
sự-vật trong trời đất được hoàn-hảo theo nhiều mức độ, và vì thế phải có cái gì,
hay là một vị nào, ở mức độ hoàn-hảo cao nhất. Quan-niệm rằng Thiên-Chúa là
thượng-trí đã tác-tạo nên một thế-giới các sự-vật được an-bài có thứ-tự, và một
thế-giới những con người có trí-khôn, quan-niệm đó đã được trình-bày theo nhiều
kiểu. Ví-dụ như :’’Muốn sinh ra được loài có trí khôn, thì tất nhiên chính mình
cũng phải có trí khôn ; vậy nếu quyền-lực mà ta nói trên đây đã tác-tạo ra được
loài người, thì quyền-lực ấy tất nhiên phải có trí khôn, và đây là đặc-điểm của
bản-tính thần-linh. Vì thế phải kết-luận là có thần-linh’’
.
Chứng-lý này cũng là của
Xênôphôn : nếu khi thấy một pho tượng, ta nhận ra người nghệ-sĩ, thì khi thấy
con người có linh-hồn linh-động lại có thân-xác khéo-léo, ta cũng phải nhận đó
là công-trình của một vị thượng-trí. Đó cũng lại là chứng-lý của các triết-gia
phái khắc-kỷ (phái Stoa) : vũ-trụ vận-chuyển có thứ-tự, như thế không thể do cơn
gió lốc ngẫu-nhiên mà ra được, cho nên phải là do một thượng-trí, nghĩa là do
Thiên-Chúa.
Chứng-lý thứ ba cho rằng nếu
không có thần-linh thì sẽ có hậu-quả vô-lý. Vì rằng : nếu không có thần-linh,
thì cũng không có nhân-đức kính-thần, không có công-bình, không có lời sấm
(prophétie). Nhưng ta biết là có nghi-thức kính-thần và đó là nhân-đức
kính-thần, ta biết là kính thần như thế là công-bình đối với thần và như thế là
thánh-thiện, ta cũng còn biết là có khoa dạy giải-thích các điềm lành hay dữ, mà
thần-linh cho ta biết (trong khoa chiêm-tinh, khoa bói-toán, khoa đoán
tương-lai. Cho nên tất nhiên là phải có thần-linh.
Chứng-lý thứ bốn trình-bày
khá dài các vấn-nạn chống lại sự hiện-hữu của thần-linh, của Thiên-Chúa, và nêu
lên rằng các vấn-nạn đó sẽ đưa đến chỗ mâu-thuẫn, nếu ta quan-niệm Thiên-Chúa là
một vị có linh-hồn, có hình-hài, có nhân-đức, lại để tâm quan-phòng cho người
ta. Thiết-tưởng không cần đi vào chi-tiết của chứng-lý này, vì Marx cũng không
coi là quan-trọng, hơn nữa tựu chung tất cả đều đưa tới lập-trường hoài-nghi của
Sextus Empiricus : ’’Kết quả là những ngườì theo phái hoài-nghi đều ngừng không
phán-đoán gí cả, nhất là vì quan-niệm của quần-chúng về thần-linh rất là khác
nhau. Khi nói về thần-linh thì những người khác nhau có những ý-tưởng khác nhau
và chống nhau nữa. Ví thế nói chung thì không có một ý-tưởng nào có thể coi là
đáng tin cả, và còn vì lẽ là có một vài ý-tưởng cũng vững như nhau, rồi sau cùng
thì vì có nhiều người bày vẽ ra huyền-thoại, có những thi-sĩ đưa ra những điều
thật là bất kính thần-linh. Cho nên trong khi phê-bình thi-sĩ Hômêr và Hêsiôde
thì Xênôphan nói :’’Cả Hêsiode lẫn Hômêr đều gán cho thần-linh những hành-động
mà loài người ta coi là xấu và đáng xấu-hổ, như : trộm cắp, ngoại-tình, lừa bịp
nhau’’ .
Đoạn văn vừa trưng-dẫn ra
đây làm cho ta nghĩ đến một triết-gia người Pháp thời Cận-đại, René Descartes
viết trong Qui-tắc (thứ hai) để hướng-dẫn trí khôn (Règles pour la direction
de l’esprit) :’’Về cùng một đề-tài, khi mà hai học-giả có ý-kiến khác nhau,
thì chắc-chắn là một trong hai ngườì đã lầm, lại rất có thể là cả hai đều không
nắm được kiến-thức vững-chắc, ví nếu chứng-lý của người này vừa vững-chắc vừa
hiển-nhiên, thì tất-nhiên là phải có thể trình-bày sao cho người kia chịu phục’’
. Có đìều là Descartes không
chịu dừng lại ở thái-độ hoài-nghi, nhưng đã cố gắng tìm ra tiêu-chuẩn đưa tới
kiến-thức vững chắc và hiển-nhiên. Có thế tư-tưởng mới không bị ngừng-trệ.
1.2.5 - Toát- yếu
Đọc sách các nhà tư-tưởng
thời thượng-cổ, nhất là của Cicêrô và Sextus Empiricus, Marx nhận thấy rằng về
sự hiện-hữu và về bản-tính thần-linh, người ta đã có những quan-niệm rất khác
nhau, có khi còn mâu-thuẫn nhau nữa, và vì thế không thuyết-phục được ai. Sextus
Empiricus giữ một thái độ dè-dặt, hễ không biết thì nói là không biết, cho nên
chủ-trương là trong tình-trạng ấy thì chỉ nên hoài-nghi, chứ không nên chọn
lập-trường nào cả. Nhưng Marx thì lại không dè-dặt như thế : thay vì nói là mình
không biết là có thần-linh hay không, thì ông quả quyết rằng mình biết và
biết là không có thần-linh. Ông chọn hẳn lập-trường của Lucrêtius, và
cao-tuyên là không có thần-linh nào hết. Nếu thái-độ ‘’không biết là có’’
không cần phải minh-chứng, thì thái-độ ‘’biết là không có’’ cần phải có
chứng-lý thêm, Vì lẽ rằng nếu có quan-niệm nào về thần-linh hay là về Đức-Chúa,
khác hẳn những quan-niệm đã nêu ra trong tôn-giáo Hi-lạp, mà mình chưa
nghiên-cứu cho rõ, thì chưa đủ lý để tuyên-bố như thế.
Có lẽ đây là một chỗ sơ-hở
trong qui-tắc nghiên-cứu, mà ta thường thấy nơi những người muốn biết thật nhiều
nhưng lại thiếu nhẫn-nại : chưa biết tất cả mà đã đưa ra một câu phán-đoán
tổng-quát. Vì như đã nói trên đây, sau khi khảo-cứu về tôn-giáo Hi-lạp, thì Marx
đi thẳng luôn tới thời Cận-đại, và tìm đọc sách vở của những triết-gia phê-bình
tiêu-cực tôn-giáo, và như thế là bỏ qua đi hơn một nghìn năm trong đó người ta
trình-bày tích-cực đạo Thiên-Chúa, và đưa ra những quan-niệm ngược hẳn lại
tôn-giáo Hi-lạp. Cũng rất có thể là Marx đã lấy lại thiên-kiến của một số người
đương-thời, cho rằng trong một nghìn năm giữa thời Thượng-cổ và Cận-đại thì
không có gì đáng kể, cho nên ông bỏ qua và rồi sau đó chỉ đọc những ai chống
tôn-giáo mà thôi. Lựa chọn tài-liệu nghiên-cứu như thế, tức là đã chọn sẵn trước
câu kết-luận. Nhưng có một điều chắc-chắn là cho dù thực sự có muốn đọc thêm về
những lập-trường khác, thì khi soạn luận-văn tiến-sĩ trong một hai năm, Marx
cũng không tài nào tìm ra thì-giờ để đọc qua được những điểm then chốt của một
nghìn năm sách vở thời Trung-cổ.
Thêm vào những nhận xét
trên đây, ta cũng nên nhắc lại rằng : xét chung chung thì lập-luận của Marx về
tôn-giáo, vào khoảng những năm 1840-1841, vẫn chưa được nhất-quán, vì có lúc thì
nó là duy-vật, có lúc nó lại là duy-tâm, và còn duy-tâm hơn cả Hegel nữa. Sau
đây Marx không còn lấy lại lập-trường duy-tâm căn-cứ vào Tự-kỷ Ý-thức nữa.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Gía trị việc làm của Con Người trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội (3) |
NGUYỄN HỌC TẬP
Việc làm như là thống trị trên vạn vật.
- "
Ta hãy làm ra con ngươi
theo hình ảnh Ta..., để con người làm bá chủ cá biển, chim trời,
gia súc, dã thú , tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất...
( Gen 1, 26).
Ý nghĩa của câu Thánh
Kinh vừa trích dẫn cho thấy địa vị trổi thượng và thống trị của
con người trên các tạo vật được Chúa dựng nên.
Nhưng thống trị, theo
HDXHGH không có nghĩa là con người áp đặt lên tạo vật những gì
không thuộc về bản tính của chúng, hay nói cách khác là đàn áp
vũ phu lên tạo vật. Các biến cố ô nhiểm môi sinh, ô nhiểm không
khí do cách " áp đặt " vô ý thức của con người lên tạo
vật đang diễn ra trước mắt chúng ta. Chính những tác động đó
đang và sẽ đưa đến những tác hại quật ngược lại đối với mạng
sống con người.
Thống trị trên tạo vật
cũng không có nghĩa là chiếm hữu tạo vật, coi công trình sáng
tạo của Thiên Chúa là một siêu thị, một thi trường mở rộng để
mỗi cá nhân tha hồ cạnh tranh, tha hồ chiếm hữu. Đó cũng là thái
độ nguyên tội của kinh tế lắm khi tạo ra bao nhiêu tệ nạn cho
con người.
Làm việc là cộng tác sáng tạo với Thiên
Chúa.
Điều vừa kể có nghĩa là
tôn trọng và gìn giữ các mục đích mà Thiên Chúa đã đặt vào bản
tính của tạo vật, khi Người dựng nên.
Ý nghĩa đó nói lên con
người có những giới hạn rõ ràng trong động tác làm việc của
mình, mặc dầu với trí khôn được Chúa ban cho, con người vẫn có
nhiều khoản không gian rộng lớn để triển nở trí sáng tạo của
mình.
Các giới hạn mà con
người phải lưu ý đến, đó là vạn vật được sáng tạo có trật tự thứ
bậc nơi chính mình và xử dụng vạn vật bị bắt buộc phải xử dụng
để mưu lợi ích cho tất cả mọi người, không trừ ai, đảng viên của
Đảng và Nhà Nước hay không cũng vậy.
Vạn vật được sáng tạo,
được dựng nên có trật tự nơi mình và đối với các tạo vật khác,
điều đó con người hiện nay thường hay quên đi.
Bởi đó phát minh ra một
sản phẩm mới không phải chỉ có nghĩa là mãnh lực của gân cốt,
bấp thịt, mà còn là kết quả của trí khôn ngoan. Không có tạo vật
nào được tạo dựng nên riêng rẽ, tách rời, mà luôn luôn hoà hợp
với môi trường của mình. Điều đó có nghĩa là mỗi tạo vật được
xác định bởi mối liên hệ của mình với cả thể giới được tạo dựng
nên.
Giữa các tạo vật và
chính con người cũng có mối tương quan trong trật tự thế giới-vũ
trụ vừa kể.
Như vậy
- " Chúa là Thiên
Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để trồng trọt và canh
giữ đất đai " ( Gen 2, 15) là động tác sản xuất và gìn giữ
kính trọng các mối tương quan đó giữa các tạo vật.
Đừng nên làm lẫn giữa tư
tưởng về trật tự trong các tạo vật được Chúa sáng tạo với thứ tự
phẩm bậc văn hoá, là những gì được các thói quen, truyền thống
của con người đưa vào.
Cũng vậy, không nên
tưởng rằng trật tự các tạo vật được dựng nên là trật tự, thứ bậc
đã hoàn hảo rồi. Trật tự các sự vật được Chúa dựng nên là một
nguyên tắc trật tự, thứ bậc được Chúa đặt vào để sống động hoá
tạo vật và mối liên hệ giữa chúng với nhau, chúng ta cần còn
phải tìm hiểu để biết đưọc thoả đáng.
Lạm dụng và nô lệ hoá
thiên nhiên đã khiến con người đặt mình trên trật tự các tạo vật
được dựng nên và quên đi con người chúng ta cũng tùy thuộc phải
lẽ vào tạo vật để sống.
Làm băng hoại môi
trường, dùng súc vật một cách bất chính như là dụng cụ và cả
việc pha trộn thủ chế ( manupuler) thân thể con người đang cho
thấy là những hành động tai hại và hủy hoại đối với chính con
người.
Ngày nay trong thế giới
giàu sang dư dả của con người, không mấy ai còn nghĩ đến việc
tiên liệu, giúp đỡ, giải quyết các vấn đề cho cuộc sống cá nhân,
cho bằng mối lo âu làm sao bảo đảm cho sự sống còn của cả nhân
loại. Càng ngày chúng ta càng ý thức rằng thái độ không tôn
trọng đối với thế giới vật chất không con người, chúng ta sẽ
không bao giờ có khả năng thực hiện hoàn hảo con người. Bởi đó
không phải ít khi nhiều người đang suy nghĩ rằng cần phải trở về
trạng thái trật tự của tạo vật.
Việc làm của con người
phải khởi sự lại từ đây, từ việc duyệt xét lại vị trí của con
người giữa thể giới được dựng nên.
Như vậy trước khi có tác
động thống trị qua động tác làm việc của con người, con người
cần phải nhận thức rằng mình cũng là tạo vật như tất cả những
tạo vật khác trên thế gian và có liên hệ với chúng bởi một số
mạng sống còn hay bị tiêu diệt.
Duới nhãn quang vừa kể,
mọi thái độ đề cao quá đáng địa vị thượng đẳng của con người
trên mọi tạo vật là thái độ không phải cách, bởi lẽ chính đời
sống chúng ta nhiều khi tùy thuộc vào cả những tạo vật bé mọn,
gần như vô nghĩa.
Nhu vậy, nếu một mục
đích của việc làm là " ...và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 45),
bảo vệ và canh giữ tạo vật , thì phận vụ đó là bổn phận
phải có của con người đối với tất cả các tạo vật hiện diện khắp
đó đây trên thế giới.
Con người làm việc
được mời gọi hãy nói lên tiếng nói cho các tặo vật, định chuẩn
giá trị của chúng. Hiểu như vậy, kỷ thuật thay vì có thái độ
khiêu khích, xem tạo vật như là kho năng lượng và nguyên liệu
cần phải khám phá, khai khẩn và lợi dụng để cho thấy quyền năng
thống trị con người trên tạo vậy, thì trái lại, có lẽ con người
nên có nhãn quang mới mẻ hơn,
làm việc là để đem ra ánh sáng
những gì còn đang được ẩn giấu trong tạo vật.
Con người làm việc, hiểu
như vậy, là con người " trồng trọt và canh giữ đất đai ",
chớ không phải làm việc để thu tóm, chất chứa và lợi dụng, bốc
lột, tước đoạt.
Bởi đó canh nông
là lãnh vự tiêu biểu cho ý nghĩa vừa kể của làm việc và
bởi đó HDXHGH luôn luôn nhìn canh nông dưới nhãn quang đầy cảm
tình:
- " Động tác của
người nông dân không kích động đất đai đồng ruộng. Trong động
tác gieo giống, người nông dân ủy thác hạt giống cho sức manh
phát triển của thiên nhiên và trông coi cho chúng lớn lên " ( S.
Mosso, La Chiesa e il lavoro, Ed. Lavoro, Bologna 1982, p.187).
Cả kỷ nghệ
cũng được coi là động tác con người trên động tác của thiên
nhiên. Kỷ nghệ cũng có thể được coi là động tác rút ra năng
lượng và nguyên liệu đang còn tiềm ần trong thiên nhiên, miễn là
động tác kỷ nghệ không đi ngược lại và làm tiêu diệt bản năng
của vật liệu được dùng cho kỷ nghệ và phá hoại môi trường hiện
hữu của các vật thể đó.
Hiểu như vậy, sự
sáng tạo của kỷ nghệ càng làm cho con người sát gần hơn với Đấng
Tạo Hoá, nhưng đồng thời cũng nói lên một mức quân bình rất khó
thực hiện giữa sáng kiến của người làm việc và và tiềm năng đang
ẩn chứa trong thiên nhiên (
M. Heidegger, Saggi e discorsi,
trad. it. di G. Vattimo, Mussa, Milano 1976, p. II).
Bởi đó " gìn giữ
và thống trị " không chỉ có nghĩa là để cho vạn vật sống
còn, không bi phá hủy tiêu diệt hay chỉ để cho vạn vật tự chúng
nảy sinh theo bản tính của chúng, mà còn là mở ra con đường
cho những thực, hiên những kết quả mới đang còn tìm ẩn trong khả
năng của chúng: bón phân thêm, lựa chọn giống sinh nhiều hoa
quả tốt hơn, họp tập những khả năng khác hơn của nhiều loại thực
vật với thực vật hay động vật với động vật khác nhau, để được
hoa trái nhiều hơn, lớn hơn, ăn ngon miệng với nhiều hương vị
hơn, hoặc nhiều động vật có nhiều sức lực hơn để giúp trong việc
đồng áng chẳng hạn.
Nhưng nên coi chừng luôn
luôn phải đặt hai đặc tính " gìn giữ và thống trị
" đi đôi với nhau, nếu chúng ta không muốn đạt được tiến bộ,
nhưng đồng thời lại phá hủy thiên nhiên.
Hiểu như vậy chúng ta
thấy được việc làm của con người
- không thể chỉ được
xác định để đáp nhu cầu sơ đẳng của con người,
- nhưng còn có ý
nghĩa căn bản là bổn phận làm cho thiên nhiên được phát triển,
- định chuẩn giá trị
của những gì tự chúng bất động và cho phần thiên nhiên câm nín
cũng có tiếng nói của chúng.
Con người làm việc là để
mưu ích tốt đẹp cho cả thiên nhiên vạn vật.
Ý nghĩa vừa kể cho phép
chúng ta liệt kê vào việc làm của con người, cả những động tác
không chỉ nhằm trực tiếp đáp ứng lại nhu cầu sống còn của con
người.
Và ngay cả việc làm nhằm
đáp ứng lại những đòi hỏi sống còn của con người cũng cần có
những suy nghĩ rộng rãi hơn và thay đổi chiều hướng hạn hẹp, chỉ
nhằm lợi thú trước mắt, cá nhân hay phe nhóm, không đếm xỉa gì
đến sự sống còn và phát triển của thiên nhiên.
Làm
việc và quyền tư hữu.
Dưới một nhãn
quang nào đó, con người cũng là tạo vật như những tạo vật khác,
nhưng dưới một nhãn quang khác, không ai có thể chối cải được
con người trong thiên
nhiên có một sứ mệnh, phận vụ đặc biệt.
Điều vừa kể ai cũng thấy
được, không những do những gì Thánh Kinh thuật lại, mà ngay cả
trong kinh nghiệm của tất cả.
Tín lý về việc tạo dựng
cho rằng địa vị cá biệt đó của con người trên thế giới là địa vị
do Chúa muốn:
- "
Chúa là Thiên Chúa đem con người
đặt vào Vườn Địa Đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen
2, 15).
Địa vị đó của con người
đối với thiên nhiên không phải là những gì con người chính phục
được hay là một chiến thắng trong cuộc đấu tranh giữa các giống
loại với nhau. Càng không phải chỉ là đặc ân dành riêng cho
những ai có trí óc hơn, có khả năng hơn, hoặc của những ai thắng
trận được trong cuộc chiến dành quyền sống còn, càng không phải
do việc hên xuôi may rủi, như trong một cuộc xổ số.
Mỗi người, do sự kiện
là người thuộc dòng gióng nhân loại, đã được Thiên Chúa nghĩ
đến và muốn cho là người gìn giữ va thống trị thiên nhiên vạn
vật, từ những giống vật khôn ngoan nhứt đến những giống kém
nhứt, từ những giống đẹp nhứt đến những giống xấu xí nhứt, từ
những giống lành mạnh nhứt, đến những giống èo uột yếu kém nhứt.
- "
Thiên Chúa phán: " Ta hãy tạo dựng
con người theo hình ảnh Ta, giống như Ta, để cho con người làm
bá chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi
giống vật bò dưới đất " ( Gen 1, 26).
Điều đó cho chúng ta
hiểu được lý do cho sự biện minh địa vị thống trị con người trên
tạo vật.
Nếu ai khước từ tín lý
về công cuộc sáng tạo, ơn gọi trên của con người không còn là ơn
gọi nguyên thủy nữa, mà chỉ là kết quả của những gì do nền văn
minh phát triển chiếm được.
Và nếu hiểu như vậy, địa
vị thống trị của con người trên vạn vật không còn có lề luật lằn
mức nào nữa và cũng không phải cho tất cả mọi người, mà chỉ là
quyên lực của những kẻ giàu có, uy quyền hoặc phe nhóm, phái
giống nào đó.
Trái lại, nếu thống trị
trên vạn vật là phận vụ được Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ
giao cho mỗi ngưới, bất cứ ai là con người của dòng giống nhân
loại, chúng ta thấy được địa vị đó được trải rộng ra cho mọi con
người, như là đại diện Thiên Chúă Tạo Hoá trên trần gian.
Hiểu được như vậy,
chúng ta hiểu được tại sao các Thông Điệp về xã hội cuối cùng (
Laborem exercens, Sollecitudo rei socialis, Centesimus annus)
nhấn mạnh đến đặc tính
phổ quát của tài nguyên, của cải trên mặt đất ( CA, n. 31):
- " Thiên Chúa đã
ban mặt đất để dùng và hưởng thụ cho cả dòng giống nhân loại,
bởi vì Thiên Chúa không ban cho con người để tất cả đều có quyền
sở hữu chung và rối loạn. Đây không phải là ý nghĩa của chân lý
đó. Điều đó chỉ có nghĩa là Thiên Chúa không giao một phần đất
nào cho bất cứ một người cá biệt nào, nhưng để việc phân chia
các quyền sở hữu cho khả năng sắp xếp của con người và cho các
tổ chức cơ chế của các dân tộc. Nói cho cùng, mặc dầu được chia
thành các quyền tư hữu, đất đai vẫn còn được dùng để phục vụ và
lợi ích cho tất cả, như vậy không ai trên thế giới mà không tìm
đuợc thức ăn từ các sản phẩm đồng áng " ( RN, n.7 ).
Như vậy chúng ta có thể
nói là mọi sự vật đều được ban cho mỗi người, để con người thống
trị và quản trị theo đồ án của Thiên Chúa, nghĩa là có lợi ích
cho tất cả mọi người.
Con người làm việc từ
lúc khởi đầu đã có trước mặt mình cả cánh động được dựng nên.
Như vậy anh ta có trăm phương ngàn cách để tác động khả năng
sáng tạo của mình và phận vụ mình.
Mọi người đều có quyền
tác động mỗi việc làm và không có việc làm nào dành riêng cho
một người nào.
Tuy nhiên do tính cách
giới hạn của con người ( mặc dầu trước viễn ảnh bao la của nhiều
hình thức làm việc khác nhau, nhưng mỗi người chúng ta có giới
hạn trong việc chọn lựa việc làm tùy theo khả năng cá nhân, trên
thị trường làm việc hiện đại), chúng ta nhận thức được chúng ta
còn xa xôi so với đồ án nguyêh thủy của công trình sáng tạo, của
đồ án dành cho nhân loại và cuộc sống ngắn ngủi của con người,
chúng ta bị bắt buộc đặt trọng tâm việc làm vào một lãnh vực xác
định và cũng không phải lúc nào cũng có thể thay đổi việc làm
trong cuộc sống.
Điều vừa kể có nghĩa là
mỗi người chúng ta có một mối tương quan đặc thù với một phần bé
nhỏ của thế giới được tạo dựng và điều đó có liên quan thiết yếu
đến quyền tư hữu.
Để có được quyền
tư hữu tài nguyên của cải và chiếm hữu tài sản, cần phải
có sự phân chia và quy hữu cho từng cá nhân, để cho tài sản được
thể hiện một cách có trật tự theo mục đích nguyên thủy của mình,
đó là được cộng đồng con người quản trị.
Nhưng điều quan trọng là
việc xử dụng các tài sản đó phải nhằm lợi ích cho tất cả.
Tư hữu có lý do
chính đáng bởi vì đó là phương thế
cho phép mỗi con người đều có thế
dùng chung các tài sản.
Trái lại nếu
tước bỏ đi quyền tư hữu, mỗi con người trong địa vị
cá nhân của mình bị làm
cho trở thành bất lực tự mình đáp ứng lại ơn gọi tiên khởi là
thống trị mọi vạn vật được dựng nên.
Trong tình trạng như
vậy, quyền thống trị vạn vật nguyên thủy được thiết dịnh lúc
Thiên Chúa sáng tạo vạn vật sẽ bị ủy thác cho một công đồng vô
danh tánh, chiếm hữu công quả việc làm của mỗi người, tước bỏ đi
mọi trách nhiệm sản xuất và phân phối các tài sản đó.
Điều đó đưa đến
kết quả là người làm
việc bị giảm thiểu địa vị của mình và làm cho mình không có
trách nhiệm gì nữa:
- " Quyền tư hữu
hay một quyền nào đó trên của cải vật chất bảo đảm cho mỗi người
có được một khoản không gian tự lập cần thiết cá nhân và gia
đình. Của cải vật chất bên ngoài đó phải được coi như là một sự
nối dài của tự đo con người. Chính quyền tư hữu, tự bản thế
mình, cũng có động tác xã hội, được đặt trên nền tảng luật về
mục đích chung của tài sản " ( Gaudium et spes, n. 71)
Thuộc về lãnh vục làm
việc và người làm việc
- không những là động
tác sản xuất,
- mà còn có
động tác can thiệp vào việc phân chia các kết quả của việc mình
làm ( S. Tommaso
d'Aquino, Summa Theologia, II = II, q.66).
Quan niệm về chủ quyền
hay sở hữu chủ của HDXHGH bao gồm cả tư tưởng nầy lẫn tư tưởng
kia, bởi vì mục đích của làm việc được hàm chứa trong ý nghĩa
của việc làm.
Quyền tư hữu
là một
trong những hình thức cần thiết để
- bảo đảm cho phận vụ
sản xuất
- và phân chia trong
ý nghĩa tổng quát của nó.
Về phía mình, quyền tư
hữu trên phương diện lề luật luân lý , con người không được dùng
của cải vật chất như là những gì riêng tư của mình, mà như là
của chung, làm thế nào để cho người khác cũng có thể dự phần vào
được trong trường hợp cần thiết. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Kẻ quấy
rầy |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề: CẦU NGUYỆN
(tiếp theo)
15. Kẻ quấy rầy
Một cụ già đạo đức cầu nguyện mỗi ngày năm lần đang khi bạn đồng
nghiệp của ông chẳng bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Hôm mừng sinh
nhật thứ tám mươi của mình, cụ già cầu nguyện như sau:
“Ôi lạy chúa! Từ lúc con còn trẻ, chưa một ngày nào mà con không
đến nhà thờ buổi sáng và đọc kinh mỗi ngày năm lần. Con đi đâu,
quyết định điều gì, quan trọng hay không quan trọng, không khi
nào mà con không kêu danh Chúa. Nay, với tuổi già, con phải làm
gấp đôi mọi chuyện đạo đức và cầu nguyện với Ngài không ngưng
nghỉ, đêm cũng như ngày; vậy mà, con đây, vẫn nghèo đói như một
con chuột nhà thờ. Ngài coi, ông bạn đồng nghiệp của con. Ông ấy
uống rượu, bài bạc, thậm chí khi đã về già lại còn giao du với
các bà xấu nết, vậy mà ông ấy cuộn mình trên vàng. Con sợ rằng
chưa bao giờ ông ấy mở miệng cầu nguyện dù là một lời cầu nguyện
đơn sơ nhất. Giờ đây lạy Chúa, con không cầu Chúa phạt ông ấy,
vì như thế, con đâu còn là người có đạo. Nhưng xin Chúa hãy nói
cho con, tại sao, tại sao, tại sao Chúa để cho ông ấy giàu có và
tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”.
Chúa trả lời, “Bởi vì ngươi là kẻ quấy rầy Ta chưa từng thấy”.
Nội quy của một đan viện kia không bảo: “Đừng nói”, nhưng
“Đừng nói, trừ phi bạn làm cho sự thinh lặng có ý nghĩa hơn”.
Về việc cầu nguyện, cũng có thể nói được như thế chứ?
ڰ
16. Lời cầu nguyện, người cầu nguyện
Bà hỏi: “Tối nào con cũng cầu nguyện chứ?”.
Cháu nói: “Vâng, thưa bà!”.
Bà hỏi: “Mỗi sáng thì sao?”.
Cháu nói: “Không, vì ban ngày con không sợ”.
ڰ
17. Bà lão đạo đức
Sau cuộc chiến, một bà lão đạo đức bảo: “Chúa quá tốt lành với
chúng ta. Chúng ta đã cầu nguyện và cầu nguyện rất nhiều, thế là
bao nhiêu bom đạn đều trút xuống thành phố bên kia!”.
ڰ
18. Cầu nguyện cho Hitler
Cuộc bách hại người Do Thái của Hitler trở nên quá tàn bạo đến
nỗi có hai người Do Thái quyết định ám sát ông. Họ ôm súng mai
phục ở một địa điểm mà họ biết Hitler sẽ đi qua. Hitler đến trễ
và một ý nghĩ kinh hoàng chợt đến với Samuel. “Joshua”, anh nói,
“hãy cầu nguyện cho đừng có điều chi xảy ra với ông ấy!”.
ڰ
19. Bà dì đạo đức
Mỗi năm, các cô cậu đều có thói quen mời bà dì đạo đức của chúng
đi chơi xa. Năm nay, chúng quên mất. Nhưng rồi, giấy mời cũng
đến vào phút chót, dì chúng bảo, “Trễ quá rồi. Mình vừa cầu
nguyện cho trời mưa”.
ڰ
20. Cho đến khi Cha xen vào
Một linh mục thấy có người phụ nữ tay ôm lấy đầu
ngồi trong ngôi nhà thờ vắng tanh. Một giờ trôi qua, rồi
hai giờ. Người phụ nữ vẫn ngồi đó.
Nghĩ rằng đây là một linh hồn thất vọng. Nóng lòng giúp đỡ cô,
vị linh mục tiến lại phía cô và nói, “Tôi có thể giúp cô điều gì
chăng?”. “Không, thưa Cha”, cô ấy đáp, “Con đã có được tất cả
những gì con cần”.
Cho đến khi Cha xen vào!
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT MÔ HÌNH LINH MỤC CHO NGÀY HÔM NAY (tiếp theo) |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN
A. MỘT MÔ HÌNH LINH MỤC CHO NGÀY HÔM NAY
(tiếp theo)
A.5. Linh mục là người mở ra với hiệp thông
Hiệp
thông và hiệp nhất là lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Cứu Thế cho các môn đệ
của Ngài. Mối hiệp thông này bắt rễ trong Chúa Ba Ngôi và từ Chúa Ba Ngôi: sự
hiệp thông và trao đổi tình yêu vĩnh cửu giữa ba ngôi vị trong chiều kích hướng
nội (ad intra); ba ngôi hoạt động riêng biệt nhưng trong một thể thống nhất cho
con người và mọi loài thụ tạo theo chiều kích hướng ngoại (ad extra).
Linh
mục phải sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh phổ quát trong tâm tình vâng
phục thảo hiếu, để xây dựng nhiệm thể toàn vẹn của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô nói đến các yếu tố đa dạng xây dựng nên thân mình Chúa Kitô là Hội
thánh, mà trước hết là các ân sủng;
tiếp đến là các bộ phân trong một thân thể, sánh ví với các loại người và các
chức năng trong Hội Thánh, tuy nhiều nhưng hiệp thông với nhau nên một duy nhất,
và sự hiệp thông cao nhất và trọn vẹn nhất trong bí tích Thánh Thể: ngàn hạt lúa
miến làm thành tấm bánh và muôn hạt nho ép thành chén rượu, các tín hữu hiệp
thông với nhau trong đức ái kết dệt nên một Hội Thánh duy nhất.
Theo
tinh thần Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu số 43, linh mục còn phải sống và
làm việc trong tinh thần hiệp thông và cộng tác để làm chứng cho tình yêu Thiên
Chúa, góp phần xây dựng mối hiệp thông của toàn thể nhân loại và thế giới được
tạo thành vẫn hằng ngóng chờ ngày được giải thoát.
Đối với
sứ vụ của Giáo Hội, hiệp thông và truyền giáo luôn song hành và kết nối không
thể tách lìa nhau,
bởi vì trước khi nói về Chúa, thì phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa, nói
với Chúa và nghe Chúa nói đã: không ai có thể cho cái mình không có! “Chỉ khi
chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta mới có khả năng dẫn dắt con người về với Chúa và
mở lòng trí họ ra với tình yêu thương nhân từ của Chúa và như thế mở thế giới
nầy ra với lòng thương xót của Thiên Chúa.”
Nhưng sự hiệp thông đó ngày nay đang bị đe
dọa, chúng ta phải nỗ lực xây dựng và bảo vệ nó. Cha Lombardi, phát ngôn viên
Tòa Thánh, nói rằng đối với ĐTC Biển Đức XVI thì sự hiệp thông trong Hội Thánh
là ưu tiên hàng đầu. Ngài đã đích thân và với hết sức lực dấn thân vào việc khử
độc và lành mạnh hoá các căng thẳng vì không hiểu biết và cảm thông đang làm cho
cộng đồng lo lắng đau khổ. Những nguy hiểm và các cám dỗ nghiêm trọng
nhất với Hội Thánh ở ngay trong lòng Hội Thánh. Trong những thời kỳ khó khăn như
những thời kỳ chúng ta đang trải qua, thì những căng thẳng từ bên ngoài đưa vào
tạo điều kiện cho những căng thẳng bên trong nỗi lên, góp phần vào việc gieo rắc
thêm hỗn loạn và bất ổn. Ngài nhấn mạnh rằng trong giai đoạn xung khắc và ngờ
vực nầy, thế giới đang chờ đợi nơi các Kitô hữu một chứng từ về sự hoà thuận nẩy
sinh từ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô phục sinh, là căn nguyên sự tương trợ
của họ, để xã hội nầy cũng tìm thấy được con đường đúng đắn của nó cho tương
lai.
Chính trong chiều hướng đó mà ĐTC chọn chủ đề cho Ngày Truyền
Giáo 2010 “Xây dựng sự hiệp thông Giáo Hội là chìa khóa của việc truyền
giáo.”
A.6. Linh mục là người hăng say truyền giáo
Chúa Giêsu là nhà
truyền giáo được Chúa Cha thánh hóa và sai đi đầu tiên.
Đức Mẹ thực hiện sứ mệnh truyền giáo khi mang Chúa Giêsu đến thăm bà Elizabeth.
Các tín hữu sơ khai đã hăng say truyền giáo, dù phải chịu bách hại: “Hồi ấy,
Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ
ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri… những
người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.”
Công Đồng Vaticanô II,
đặc biệt qua Sắc lệnh Ad Gentes, giúp Giáo Hội tái khám phá căn tính
truyền giáo của mình. Truyền giáo là bản chất, là cảm thức và lẽ sống, là ý
nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Giáo Hội.
Do đó, vừa tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu vừa lãnh nhận lệnh truyền của Ngài,
linh mục là nhà truyền giáo tự bản chất và phải luôn hăng say truyền giáo. Nếu
không thế, linh mục sẽ không còn là linh mục nữa và đánh mất căn tính của mình:
“Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm.”
Đấng Cứu Thế đã sinh ra
ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ở Á châu ngày nay vẫn còn là một thiểu số tuyệt đối ở
cái lục địa rộng lớn nhất địa cầu này, với gần hai phần ba dân số thế giới.
Vậy chúng ta phải có trong trí óc và con tim lời kêu gọi khẩn thiết tiếp tục sứ
vụ của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với ước vọng nồng cháy làm cho Ngài được
nhận biết và yêu mến. Chúng ta phải “tự vấn lương tâm – trong
tư cách cộng đồng Giáo Hội cũng như trong tư cách cá nhân – chúng ta có thể sống
đức tin thế nào cho tốt hơn và có thể thực hành khá hơn sứ mệnh chúng ta đã nhận
lãnh từ Chúa Giêsu, Chúa chúng ta: “Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em”(Mt 28, 19-20). Huấn lệnh này ngày nay rất khẩn trương và nghiêm khắc
hạch hỏi lương tâm chúng ta, khi chúng ta nghĩ đến 94% người Việt Nam chưa biết
Chúa Giêsu.”
Trong nỗ lực này, lời khuyên của
thánh Phaolô cho Timôthêô vẫn luôn còn là thời sự và nặng ý nghĩa cho chúng ta
hôm nay: “Anh
hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không
thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ
tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành
mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi
ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những
chuyện hoang đường.”
Vatican
II mở rộng tầm nhìn của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa (lớn hơn là Giáo Hội mà
chúng ta thường quan niệm) và thúc đẩy chúng ta truyền giáo, tin tưởng rằng Chúa
Thánh Thần đã khơi dậy một tinh thần truyền giáo thực sự nơi con tim của nhiều
người. ĐTC Biển Đức XVI dùng hình ảnh ngôi nhà chung của mọi dân tộc để
diễn tả Nước Thiên Chúa này trong ý hướng truyền giáo như sau: “Trong một xã
hội đa sắc tộc càng ngày càng kinh nghiệm những hình thức cô độc và dửng dưng
đầy quan ngại, các kitô hữu phải học biết đề nghị những dấu chỉ hy vọng và trở
nên những người anh em đại đồng, bằng việc vun trồng những lý tưởng lớn lao biến
đổi lịch sử, và không ảo tưởng sai lạc hay sợ hãi vô ích, dấn thân biến hành
tinh này thành ngôi nhà chung của mọi dân tộc.”
Giáo Hội tại Á châu ngày càng thao thức sứ
mệnh của mình: Tháng 10/2006 một Hội nghị được tổ chức tại Thái Lan với đề tài
“Kể lại câu chuyện của Chúa Giêsu
tại Á châu. Hãy đi và nói với mọi người;”
và từ 30/8 đến 5/9/2010 có Hội nghị Giáo dân Á châu tại Séoul, Nam Hàn với đề
tài “Loan báo Chúa Giêsu tại Á châu hôm nay.” Thông cáo nhấn mạnh tầm
quan trọng của Hội nghị như sau: “Sáng kiến của đại hội này muốn là một cử
chỉ ân cần truyền giáo đối với một châu lục giàu các truyền thống văn hóa và tôn
giáo, một châu lục chắc chắn đang nổi lên trên trường thế giới, trên bình diện
chính trị nhưng cũng trên bình diện kinh tế, giữa những biến chuyển to lớn đủ
loại.”
Có một tương tác chặt chẽ giữa phụng vụ đích
thực và truyền giáo. Đỉnh cao của Phụng vụ là Thánh Thể.
Chúng ta truyền giáo là để đưa mọi người vào hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống
trong phụng vụ Thánh Thể. Và chính kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa sẽ thúc
đẩy chúng ta truyền giáo. Phụng vụ mang lại cho chúng ta lòng nhiệt thành truyền
giáo và thánh hóa thế giới. Việc dùng ngôn ngữ địa phương trong phụng vụ đã
khuyến khích người giáo dân tham dự cách ý thức năng động và sáng tạo tích cực,
không chỉ trong phụng vụ mà còn trong mọi khía cạnh của sứ vụ của Giáo Hội.
Phụng vụ Thánh Thể còn được kết thúc bằng dấu chỉ truyền giáo: chúng ta được sai
đi, được trao sứ vụ chia sẻ với tất cả mọi người kho tàng chúng ta đã khám phá
trong thánh lễ qua hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Nói như thế truyền giáo không chỉ nhắm tới
lương dân, nhằm đưa người ngoài vào trong Giáo Hội, mà còn nhằm thăng tiến người
ở trong Giáo Hội, nhằm làm cho Phúc Âm thấm nhuần đời sống người tín hữu, đời
sống và mọi hoạt động của Giáo Hội và xã hội. Từ đó, chúng ta có cụm từ tái
Phúc Âm hóa
và có thể liên kết với bất cứ phạm trù nào, ví dụ tái Phúc Âm hóa Phụng vụ, tái
Phúc Âm hóa nhân sự, tái Phúc Âm hóa cơ cấu, tái Phúc Âm hóa cộng đoàn, tái Phúc
Âm hóa giảng thuyết v.v... Và chính việc tái Phúc Âm hóa này làm cho chúng ta có
đủ nội lực và khả năng thực hiện công cuộc truyền giáo hiệu quả, như thánh
Phaolô quả quyết “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” khiến “tôi có thể
làm đuợc mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.”
A.7. Linh mục là người của đối thoại
Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và
Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã chỉ rõ con đường hiện diện mới của
Giáo Hội với ba chiều kích đối thoại: đối thoại với các nền văn hóa, đối thoại
với các tôn giáo khác, và đối thoại với người nghèo. Con đường đối thoại bắt rễ
trong Thiên Chúa và bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy trì cuộc đối thoại cứu
rỗi đầy yêu thương với nhân loại,
đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi… Là chứng tá của Tin
Mừng, linh mục giáo phận phải là một con người của đối thoại, với cả bên ngoài
lẫn bên trong Giáo Hội. Đáng buồn là lắm khi cuộc đối thoại bên trong Giáo Hội
và cộng đoàn không mấy dễ dàng!
Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều truyền
thống văn hóa, tôn giáo lớn và đại đa số người nghèo của thế giới, sứ mệnh đối
thoại và truyền giáo lại còn thích hợp và cấp bách hơn. Do đó, ứng sinh linh mục
cần được đào tạo và tự đào tạo tốt các kỹ năng đối thoại. Điều tiên quyết là
phải nắm vững đạo lý của mình trong tinh thần phục thiện khiêm tốn nhưng cương
quyết: nhìn nhận cái chủ quan thiếu sót của mình mà sửa chữa và thừa nhận cái
khách quan đúng của người mà học hỏi, hầu đi tới chỗ gặp gỡ được nhau, đồng thời
đưa ra và cố gắng thuyết phục người ta đón nhận cái chủ quan đúng và chân lý của
mình.
Đối thoại nhằm đi
tới một sự thật có thể khác hơn mình nghĩ, nên các bên tham gia phải sẵn sàng
thay đổi cách hiểu cách nhìn chủ quan của mình để có thể đi tới một sự thật cao
hơn. Nếu thiếu sự sẵn sàng đó thì không thể nào đối thoại được. Phải không ngừng
phát triển và thăng tiến cuộc đối thoại theo mô hình biện chứng pháp tiến lên để
đôi bên ngày càng hiểu nhau hơn (chính đề tương phản với phản đề làm phát sinh
ra một hợp đề; hợp đề này trở thành một chính đề mới và bộ ba biện chứng mới lại
bắt đầu; rồi cứ như thế mà tiến triển không ngừng).
Chúng ta cần, không chỉ đối thoại ba chiều
như đường lối hiện hữu và truyền giáo mới của Giáo Hội, nhất là tại Á Châu;
nhưng trong bối cảnh đặc biệt của Việt Nam, chúng ta còn cần đến chiều kích đối
thoại thứ tư, đối thoại với người Cộng Sản.
Đối thoại với con người hơn là đối thoại với chủ nghĩa ý thức hệ, một cuộc đối
thoại được mô tả là cuộc đối thoại giữa hai người điếc. Chỉ có thể đối thoại khi
có phần truyền cảm, chứ không chỉ có phần truyền tin, nghĩa là cả người nói và
người nghe đều biết và tôn trọng nội dung của nhau để có thể hiểu nhau và thông
cảm nhau. Dù cái khác biệt tận căn hữu thần và vô thần không thể nào vượt qua
được, hãy để thời gian và con người thử nghiệm: bất cứ cái gì đi ngược lại hay
không đáp ứng được khát vọng sâu xa của con người sẽ bị đào thải, loại bỏ.
Cuộc đối thoại với con người Cộng sản này bao gồm hai
khía cạnh:
-
Đối thoại bằng cuộc sống
là sống tinh thần cởi mở và thân thiện, chia sẻ niềm vui nỗi buồn, những vấn
đề nhân sinh và những mối bận tâm vì công lý, nhân quyền, hòa bình và tình
thương.
-
Đối thoại
bằng hành động là hợp tác lành mạnh
vì sự phát triển toàn diện con người và lợi ích của cộng đồng, nhất là bằng
việc làm chứng tá cho tình yêu Thiên Chúa đối với họ: một tình yêu lớn hơn
vượt thắng một tình yêu nhỏ hơn và những lôi cuốn của nó, để:
Nhiễu điều phủ
lấy giá gương,
Người trong một
nước phải thương nhau cùng.
Bầu ơi thương
lấy bí cùng,
Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn.
Tình yêu ấy biến
đổi mọi sự, một sự biến đổi từ bên trong của mỗi cơ cấu. Ngày nay không ai tìm
cách loại trừ và tiêu diệt người khác, không ai chờ đợi một Revolution (cách
mạng), cho bằng mong đợi một Evolution (tiến hóa, biến đổi) từ nội bộ của mỗi
phía.
Vì theo một tác giả nọ thì “Cuộc đối thoại ngày nay là đối thoại giữa những
người có quan điểm khác biệt nhưng phải nhắm tới cái tốt đẹp chung cho xã hội
trong tổng thể. Cuộc đối thoại này phải tiến về phía trước và phát triển lên một
cách linh động và thường xuyên.”
Nhưng trước hết,
chúng ta phải bắt đầu, bắt đầu lại, và luôn tiếp tục cuộc đối thoại đại kết bên
trong lòng Giáo Hội
vì lắm khi cuộc đối thoại với bên trong lòng Giáo Hội còn khó khăn hơn cuộc đối
thoại với bên ngoài, như chúng ta thấy những tai tiếng và thiệt hại trong những
thập niên gần đây! Nếu trong nhà có được hiểu nhau, yêu thương và hợp nhất với
nhau thì nội lực mạnh mẽ đó sẽ đem lại thành công trong đối thoại hay bất cứ một
hoạt động nào đối với bên ngoài. Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục
(Presbyterorum Ordinis) nói nhiều đến các cuộc đối thoại đó: Đối thoại giữa
Giám mục và linh mục, cũng như giữa linh mục với Giám mục (x. PO số 7); đối
thoại giữa linh mục với linh mục: giữa già và trẻ, giàu và nghèo, mạnh và yếu
(x. PO số 8); đối thoại giữa linh mục với giáo dân, và cả với lương dân (x. PO
số 9) và đối thoại với người đương thời (x. PO số 19).
__________
Chú thích
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHUỘT RÚT |
Ðang đắm mình
trong giấc ngủ say, đột nhiên ông Vân thấy bắp chân co giựt liên
hồi rồi đau nhức từ gót chân lên đầu gối, đau chịu không nổi,
như cắt thịt đứt da.Ông nhăn nhó ôm chân la làng. Bà Vân nằm bên
cạnh vội vàng nhổm dậy, kiếm hộp dầu cù là thoa thoa, bóp bóp,
an ủi.
Mấy phút sau,
cơn đau giảm dần nhưng bắp chuối còn mỏi. Ông bà Vân không ngủ
trở lại được, bèn rủ nhau dậy nấu nước sôi pha trà Thái Nguyên
uống, nhắc lại chuyện đời xưa
Sáng hôm sau
lật đật đi bác sĩ để tìm hiểu nguyên do, điều trị. Từ mấy tuần
lễ nay, chân ông cứ bị đau thắt như vậy nhiều lần.
Thưa đó là
ông Vân đã bị chứng “chuột rút” ở bắp thịt dưới chân.
Ông Vân chẳng
phải là người duy nhất với “nửa đêm thức giấc đau chân” như vậy.
Cùng lúc đó có cả triệu người khác cũng đang ôm chân nhăn nhó.
Con chuột nó rút cơ bắp chuối của quý thân hữu và nó không chịu
nhả ra, cơ liên tục co cứng, gây đau.
Tiếng Hồng
Mao gọi là “leg cramp”, tiếng lóng
“Charley
horse” người mình gọi giản
dị là “Chuột Rút” hoặc “Vọp bẻ”.
Vậy
Chuột Rút là gì?
Chuột rút là
sự co đột ngột, ngoài ý muốn và gây đau ở một bắp thịt làm cho
cử động khó khăn.
Chuột rút có
thể xẩy ra ở bất cứ bắp thịt nào, nhưng thường thấy ở bắp chuối
giữa đầu gối và cổ chân, bắp thịt đùi và hông (cơ đùi trước và
đùi sau giữa đầu gối và hông), dọc theo bàn tay, bàn chân và cơ
bụng. Cơ co có thể chỉ lâu vài giây đồng hồ tới vài phút nhưng
cũng có thể hết đi rồi co trở lại.
Bệnh thường
xẩy ra vào ban đêm khi đang ngủ hoặc mới thức giấc; sau khi vận
động, sử dụng cơ bắp lâu dài.
Bệnh thấy ở
mọi giới mọi tuổi nhưng nhiều hơn ở trẻ em và lão niên trên 65
tuổi, người mập phì , vận động viên thể dục thể thao, nam nhiều
hơn nữ.
Nguyên Nhân
Nguyên nhân
của chuột rút chưa được biết rõ, có thể là là do vận động quá
mức hoặc trong tình trạng tĩnh tại quá lâu như khi ngủ ban đêm,
khi ngồi lâu cùng vị trí.
a- Chuột rút ban đêm có thể vì:
-
Ban ngày đứng lâu trên mặt bằng cứng, cơ bắp không hoạt động,
cứng nhắc
-
Có tật ở bàn chân, như trường hợp không có độ cong của mu bàn
chân, gót chân nằm phẳng trên mặt đất (flat-foot) khiến cho bắp
thịt luôn luôn căng
-
Thiếu nước trong cơ thể
-
Người hơi mập, chân chịu sức nặng liên tục
-
Mang giầy quá chật, gót quá cao
-
Mất cân bằng chất điện giải trong máu
-
Tác dụng của một số dược phẩm như thuốc statin, prednisone,
thuốc lợi tiểu chữa cao huyết áp làm giảm K và magnesium trong
máu,
-
Thiếu K, Na. vì ói mửa, tiêu chẩy, đổ nhiều mồ hôi
-
Chuột rút trong các bệnh tiểu đường, Parkinson, đường huyết
thấp, thiếu hồng cầu, bệnh tuyến giáp hoặc nội tiết, bệnh thận
đang lọc máu...
-
Rối loạn tuần hoàn, bệnh mạch máu chi dưới khi đi lại nhiều
b- Chuột rút sau khi vận động thường thấy
ở các bắp thịt lớn, kéo dài tới vài chục giây đồng hồ. Nguyên do
có thể vì:
-
Cơ bắp mệt mỏi
-
Vận động quá lâu, quá mạnh
-
Vận động khi thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh
-
Mất chất điện giải trong cơ thể như K, magnesium, muối natri,
calcium.
-
Tích tụ acid lactic trong bắp thịt sau khi vận động lâu dài.
-
Mới đây có giải thích cho rằng, rối loạn dẫn truyền tín hiệu
giữa cơ bắp và dây thần kinh bị rối loạn, cho nên dù não bộ muốn
cơ thư giãn sau khi co nhưng cơ vẫn tiếp tục co, gây ra đau.
Theo giải thích này, người ngồi làm việc lâu, ngồi không ngay
ngắn đúng vị thế cũng hay bị chứng co cứng cơ đau nhức này.
c- Sách
Danh Từ Y Học do bác sĩ Lê Khắc Quyến soạn có ghi nhiều chứng
chuột rút liên quan tới một số nghề nghiệp khác nhau như
chuột rút thợ cạo, chuột rút người đánh máy, chuột rút văn sĩ,
chuột rút người hầu bàn, chuột rút điện báo viên, chuột rút
người vắt sữa bò, chuột rút diễn giả... Ðây là những công việc
mà người thực hiện phải dùng đi dùng lại một số bắp thịt. Riêng
trường hợp chuột rút nhà diễn giả, chắc là hăng say, miệng dính
chặt vào micro, nói thao thao bất tuyệt, nên con chuột trong bắp
thịt lưỡi mệt mỏi, co cứng.
Ðiều trị
Thường thường
chuột rút không kéo dài lâu và không gây ra hậu quả trầm trọng.
Tuy nhiên, khi đang lái xe, điều khiển máy móc hoặc đang bơi lội
thì tai nạn có thể xảy ra. Sau đây là một số phương thức nên áp
dụng để giải tỏa cơn đau:
- Nhẹ nhàng
thoa bóp bắp thịt bị co
- Khi chuột
rút ở bắp chuối, nhè nhẹ vươn duỗi cơ theo chiều đối ngược: kéo
đầu ngón chân và bàn lên phía trần nhà, hướng về đầu gối.
- Khi co cơ
bắp đùi, nhờ người kéo thẳng chân ra, nâng cao gót chân đồng
thời ấn đầu gối xuống.
- Khi co cơ
xương sườn, nên hít thở sâu để thư giãn cơ hoành đồng thời xoa
bóp nhẹ các bắp thịt quanh ngực
- Tắm nước
nóng để thư giãn bắp thịt
- Thong thả
đạp xe đạp chừng dăm phút trước khi đi ngủ
- Ðặt một cái
chăn ở cuối chân giường để các ngón và bàn chân khỏi chúi xuống
trong khi ngủ. Bàn chân chúi xuống làm căng thẳng bắp chuối.
- Mang giày
thích hợp, không bó chặt bàn chân, gót giày không quá cao.
- Bơi lội
cũng giúp nhả duỗi cơ bắp, giảm co cứng cơ.
- Mang tất
đàn hồi hơi ép vào mạch máu để tránh máu ứ đọng ở tĩnh mạch hạ
chi.
Có người nói
để một cục xà bông dưới khăn phủ giường để tránh chuột rút. Xin
quý thân hữu áp dụng thử coi và “công bố” kết quả cho bà con
biết mà làm theo.
Thuốc Quinine
sulfate được coi như khá công hiệu để điều trị chuột rút, nhưng
có nhiều tác dụng ngoại ý không tốt (ù tai, rối loạn thị giác,
chóng mặt, buồn nôn, giảm tiểu cầu, rối loạn nhịp tim), cho nên
cần được sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ khi dùng. Vì lẽ đó,
từ năm 1995, Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cấm bán tự do các
loại thuốc bổ (tonic) có chất quinine. Ðang có thai, bệnh thận,
bệnh tim không được dùng quinine.
Dược phẩm có
hoạt chất diphenhydramine hydrochloride (benadryl), sinh tố E,
thuốc thư giãn cơ (equanil, miltown), veramil hydrochloride
(Calan, Isoptin, Verelan), chloroquine phosphate (Aralen
Phosphate) và hydroxychloroquine sulfate (Plaquemil sulfate)
cũng có đôi chút công hiệu.
Phòng ngừa
Phòng bệnh
hơn chữa bệnh, cho nên xin hiến vài mẹo vặt để phòng tránh:
- Uống nước
đầy đủ. Liên hệ nhân quả giữa thiếu nước và chuột rút chưa được
biết rõ, nhưng khi cơ thể thiếu nước thì chuột rút xẩy ra. Vì
thế, cần uống nước đầy đủ trước, trong khi và sau khi tập luyện
cơ thể và trước khi đi ngủ buổi tối.
-Thư giãn cơ
bắp trước và sau mỗi lần vận động cơ thể.
-Tập vươn
duỗi chân mỗi buổi sáng, trước khi ăn và trước khi đi ngủ vào
buổi tối:
a- Ðứng thẳng
cách xa tường 15 cm, gót chân chạm đất
b- Giữ gót
chân chạm mặt đất, ngả mình về phía trước, hai bàn tay chống lên
tường
c- Ðẩy hai
bàn tay lên trên, giống như lau tường, càng cao càng tốt
d- Giữ nguyên
vị trí trong 30 giây, rồi buông tay xuống, thư giãn.
Nhắc lại các
động tác trên năm lần.
- Khi ngồi,
co bàn chân về phía đầu gối càng cao càng tốt. Làm như vậy để
máu dễ dàng lưu thông ở bắp chuối
Trước khi vận
động cơ thể, nên dành mươi phút “hâm nóng” toàn thân và “vươn
duỗi” cơ bắp để tránh chuột rút.
Chuột rút bắp chân khi có thai
Phụ nữ có
thai thường hay bị chuột rút vào tháng thứ sáu của thai kỳ và
kéo dài khi bụng ngày càng lớn. Khó khăn thường xảy ra vào ban
đêm.
Nguyên nhân
chưa được biết rõ.
Có
ý kiến cho là vì :
-
Thiếu calcium, phospho, magnesium,
-
Do các cơ ở dưới chân phải mang sức nặng quá lâu của dạ con,
thai nhi nên mệt mỏi hoặc
-
Thai nhi và tử cung lớn dần, cơ và dây chằng tử cung căng giãn
-
Sức nặng và độ lớn của tử cung ảnh hưởng lên các mạch máu ở hạ
chi.
Ðể tránh khó
khăn này:
- Không nên
đứng hoặc ngồi tréo chân quá
lâu
- Vươn duỗi
bắp thịt cẳng chân (bụng chân, bắp chuối) nhiều lần trong ngày
và trước khi đi ngủ.
- Cử động
khớp cổ chân, các ngón chân trong khi ngồi, ăn cơm, đọc sách báo
hoặc coi TV
- Chậm rãi đi
bộ nếu bác sĩ không cấm
- Tránh làm
việc quá mệt mỏi, nằm nghỉ khi cần
- Uống nước
đầy đủ.
- Tắm nước ấm
trước khi đi ngủ để thư giãn bắp thịt
Nếu đang bị
chuột rút, có thể thoa bóp bắp thịt hoặc chườm với bình nước
nóng; vươn duỗi bắp chuối, kéo bàn chân và ngón chân về phía ống
quyển, nhẹ nhàng đi lại để bắp thịt thoải mái, tránh chúi đầu
ngón chân khi thả lỏng bắp thịt...
Có ý kiến cho
là dùng thêm calcium hoặc magnesium cũng giúp giảm thiểu chuột
rút, nhưng nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Nếu chuột rút
kéo dài, xảy ra nhiều lần thì nên đi bác sĩ để tìm ra căn nguyên
và điều trị, vì đôi khi có thể là do cục máu hạ chi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Chuột trong đời sống dân gian - Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Chuột và mèo là hai con vật rất quen thuộc và gần gũi đối với
người nông dân Việt Nam. Ở ngoài đồng, chuột cắn lúa và phá hại
mùa màng. Còn ở trong nhà, chuột cắn quần áo và làm hư hỏng đồ
đạc. Để trị lũ chuột trong nhà, người ta thường phải nuôi mèo.
Thực vậy, tự bản chất mèo rất ghét chuột.
Hễ gặp đâu là xơi tái liền tù tì. Chó với mèo tuy có ghét nhau
thật đấy, nhưng thỉnh thoảng cũng vẫn có thể sống chung hòa bình
với nhau. Còn với chuột thì khác. Gã chưa thấy con mèo nào lại
nằm chung hay đùa dỡn với lũ chuột. Sự thù ghét này xuất phát từ
lục phủ ngũ tạng và đã ăn sâu vào tim gan phèo phổi của loài
mèo.
Theo sự diễn tả của ban AVT ngày xưa, thì
Nga với Mỹ, vì lợi ích riêng tư của đất nước mình, mặc dù chẳng
hề thương nhau, nhưng vẫn có thể ngồi chung một bàn tròn, để
tính chuyện đại sự. Còn mèo với chuột thì không bao giờ.
Hai cô ca sĩ vì cạnh tranh nghề nghiệp, mặc
dù chẳng hề thương nhau, nhưng nhiều lúc cũng vẫn phải xuất hiện
bên nhau trên cùng một sân khấu. Còn mèo với chuột thì không bao
giờ.
Mẹ chồng nàng dâu cũng vậy :
- Mẹ chồng nàng dâu,
Chủ nhà người ở, khen nhau bao giờ.
- Thật thà cũng thể lái trâu,
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Vì sợ tình cảm của mình bị chia sớt, nên
thường hay đối đầu và đối chọi với nhau, thế nhưng vì hạnh phúc
gia đình, nhiều khi cũng đã phải nhường nhịn và chịu đựng lẫn
nhau. Còn mèo với chuột thì không bao giờ. Ở mọi nơi và trong
mọi lúc, mèo mãi mãi là một cơn ác mộng đối với chuột.
Chính vì thế, người Pháp vốn thường nói :
- Mèo với chuột ký kết hòa bình, khi chuột
chỉ còn là một bộ hài cốt. Mèo chính là một con sư tử đối với
chuột.
Chuột thì chắc chắn chẳng bao giờ yêu
thương mèo cả. Còn mèo, nếu có yêu thương, thì tình yêu ấy cũng
chỉ là một tình yêu vị kỷ, một tình yêu vì mình, một tình yêu
giả hiệu.
Sở dĩ mèo nói rằng mình yêu thương chuột,
chỉ vì chuột là một món ăn khoái khẩu cho mình. Và như vậy mèo
yêu chính cái bao tử, chính cái dạ dày của nó, hay nói một cách
mạnh mẽ hơn :
- Mèo yêu chính bản thân nó.
Cũng giống như một anh chàng nhìn vào cặp
mắt người yêu không phải để thấy rằng cặp mắt ấy xinh, cặp mắt
ấy đẹp, mà chỉ thấy hình ảnh của mình hằn in trên cặp mắt ấy.
Chàng yêu nàng nhiều lắm, chỉ vì nàng
luôn….chiều chàng từ A đến Z , còn chàng thì lại luôn bắt nàng
phục vụ cho mình, từ việc nhỏ đến việc lớn, mà chẳng hề quan tâm
mưu tìm hạnh phúc cho nàng. Nếu gọi đó là tình yêu, thì quả
thực chỉ là một loại tình yêu dổm mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta phải biết vượt
qua thứ tình yêu vị kỷ, thứ tình yêu vì mình này để tiến đến một
tình yêu vị tha, một tình yêu vì người. Có nghĩa là chúng ta
phải biết dấn thân để phục vụ và đem lại cho người mình yêu niềm
vui và hạnh phúc.
Tuy nhiên, để được một tình yêu vị tha, một
tình yêu vì người như thế không phải là chuyện dễ dàng, vì nó
đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng, để ra khỏi cái vỏ ốc sên,
ra khỏi cái pháo đài kiên cố của bản thân mình.
Vì vậy, có những người, dù đã mang nặng
tuổi đời, trên đầu muối đã nhiều hơn tiêu, mà tình yêu của họ
vẫn cứ ấu trĩ, chưa trưởng thành cho đủ.
Trở lại với tình yêu mà mèo danh cho chuột,
ca dao đã diễn tả :
- Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đàng xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo.
Nếu suy nghĩ một tí, gã sẽ nhận thấy rằng
tất cả những “cử chỉ ưu ái” kể trên đều là giả dối. Nếu như lúc
đó chú chuột đang ở nhà, thì chắc chắn mèo cũng chẳng tha cho
chú chuột đâu. Còn đối với chú chuột thì làm gì có chuyện tổ
chức cúng giỗ cho cha con mèo, gọi là để đền ơn đáp nghĩa.
Cũng vì tính cách giả dối này mà những hành
động giữa chuột và mèo đều nói lên tính cách hão huyền, viển
vông và xảo quyệt…
Trước hết là tính cách hão huyền và viển
vông.
Chẳng hạn “chuột cắn dây buộc mèo”, theo
nghĩa đen là giúp phương tiện cho kẻ thù trở lại sát hại mình,
nếu có thì chỉ là một việc làm dại dột. Còn theo nghĩa bóng, thì
đó là chuyện mỉa mai khó có thể xảy ra.
Cũng vậy, “chuột gặm chân mèo”, nghĩa là
mơn trớn với kẻ thù mạnh mẽ hơn mình với ý đồ kết thân để cùng
nhau chung sống, thế nhưng đó cũng chỉ là một hành động dại dột,
chọc cho kẻ thù mau chóng hãm hại mình mà thôi.
Hôm nay, trong khi tìm hiểu về chuột, gã
bắt gặp câu thành ngữ “cột lạc cổ mèo” hay
“cột nhạc cổ mèo” với câu truyện như sau :
Trước tình hình dân số mỗi ngày một giảm
sút, vì bị mèo xơi tái, dòng họ nhà chuột bèn tổ chức một đại
hội hoành tráng để tìm mưu tính kế đối phó với mèo.
Các vị đại biểu dòng họ nhà chuột, từ chuột
nhà đến đồng, từ chuột bạch đến chuột cống, đều thi nhau phát
biểu. Ý kiến của chúng đều được ban thư ký ghi nhận và rồi
sẽ…ngâm kíu sau.
Cuối cùng một bác chuột cống thâm niên quân
vụ, trụi hết cả lông và giàu kinh nghiệm chiến trường, đã anh
dũng leo lên diễn đàn và dõng dạc tuyên bố :
- Chỉ cần cột một cái nhạc (lục lạc) vào cổ
mèo, để bất kỳ mèo đi tới đâu, thì chuông sẽ kêu, chúng ta nghe
thấy và tìm đường chạy trốn.
Tất cả hội nghị đều vỗ tay hoan hô nhiệt
liệt. Thế nhưng, khi đề cử người đi cột nhạc vào cổ mèo, thì
chẳng ai dám liều, dám mạo hiểm. Rốt cuộc đành bó tay chịu thua,
để cho mèo mặc sức tung hoành, xông xáo tìm mồi.
Câu truyện đó muốn nói lên rằng :
- Ý kiến ý cò thì rất hay nhưng khó thực
hiện và cũng chẳng ai làm được. Vì thế, đó chỉ là một kế hoạch
không tưởng, viển vông mà thôi.
Tuy nhiên, hồi còn bé, có lần trong một giờ
học tiếng Pháp, gã đã phải viết bài chính tả mang tựa đề
“Conseil des rats”, tạm dịch là “Hội đồng chuột”. Gã không nhớ
tác giả là ai, nhưng mang cùng một nội dung như trên. Vì thế,
cho đến bây giờ gã vẫn cứ thắc mắc không hiểu tây lấy của ta,
hay ta lấy của tây ?
Cũng trong chiều hướng ấy, gã xin ghi thêm
một câu thành ngữ khác, đó là “đầu voi,
đuôi chuột”. Câu thành ngữ này có hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất ám chỉ hành động ra oai để
ức hiếp người khác, thế nhưng khi gặp phải một tay cự phách hơn,
thì bèn cúp gập mình xuống mà quị lụy.
Ý nghĩa thứ hai xuất phát từ một điển tích
:
Trình Giảo Kim, sống đời nhà Tùy và nhà
Đường, là một tay chơi…búa rất lợi hại. Tuy nhiên, chỉ có ba búa
đầu là mạnh mẽ như trời giáng. Vô phúc cho tên nào lãnh đủ ba
búa đầu này, thì chỉ có nước lăn dùng ra mà chết không kịp ngáp.
Thế nhưng, từ búa thứ tư về sau thì lại yếu xìu và nhẹ hều.
Vì thế, đối phương thường tìm mọi cách luồn
lách tránh né ba búa đầu thế nào, để Trình Giảo Kim luôn đánh
vào không khí. Còn đến búa thứ tư, lỡ có bị phang trúng, thì
vẫn cứ nhởn nhơ nhe răng cười, vì chẳng mệnh hệ gì cả.
Chính vì thế, mà câu thành ngữ trên muốn
nói lên rằng :
- Công việc lúc khởi sự thì thật lớn lao to
tát, như cái đầu con voi, nhưng đến khi kết thúc thì lại tầm
thường và nhỏ bé như cái đuôi con chuột vậy.
Tiếp đến là tính cách xảo quyệt
Bàn dân thiên hạ thường bảo “cháy nhà ra
mặt chuột”, có những kẻ giả danh đạo đức, nhưng đến khi sự việc
vỡ lở, mới thấy được bộ mặt điêu ngoa, xảo trá và gian dối của
họ.
Sau tết Mậu Thân, gã phải lên Đalạt để tiếp
tục việc học còn dang dở. Đi đương bộ thì sợ xe bị chặn, nên chỉ
có một phương tiện duy nhất, đó là đi máy bay.
Gã tới trạm bán vé của Air Việt Nam thời
bấy giờ ở đường Phạm Ngũ Lão, gần chợ Bến Thành. Thế nhưng, muốn
lên Đàlạt thì phải chờ ba tuần lễ nữa vì đã hết vé. Gã tiu nghỉu
và chán nản. Vừa bước chân xuống đường, thì một anh thanh niên,
ăn mặc rất lịch sự, vỗ vai gã và hỏi :
- Anh lên Đàlạt hả.
- Đúng thế, nhưng không còn vé nữa, mà công
việc lại rất gấp.
- Thật uổng quá, tôi mới vừa đem trả một vé
đi Đàlạt, vì ngày mai ông cậu tôi có chuyến máy bay quân sự đáp
xuống phi trường Cam Ly.
Anh ta tần ngần một lúc rồi nói tiếp :
- Được rồi, tôi sẽ về nói với ông cậu tôi
cố dành cho anh một chỗ. Nhưng nhà anh ở đâu.
- Tôi trọ nhà người quen ở đường Nguyễn
Thiện Thuật.
- Thế này nhé, sáng mai mình sẽ gặp nhau ở
ngã ba Nguyễn Thiện Thuật và Hồng Thập Tự vào lúc bảy giờ. Tôi
hy vọng ông cậu sẽ nhận lời.
Nói xong anh ta đưa thẻ căn cước cho gã
xem. Anh ta đúng là dân Đàlạt, cắm dùi tại đường Phan Đình
Phùng.
Anh ta mỉm cười và nói với gã :
- Ngày mai gặp lại nhé.
Gã vui mừng về nhà kể lại cho mọi người
nghe sự việc kể trên và ai cũng nghĩ rằng gã được “quới nhân phò
trợ”.
Đúng bảy giờ sáng hôm sau, gã khăn gói quả
mướp ra ngã ba, thì đã thấy anh ta đứng chờ dưới cột đèn. Anh ta
cười lớn và bảo gã rằng :
- Ông cậu tôi bằng lòng rồi. Thôi chúng
mình đi điểm tâm để còn kịp chuyến bay.
Anh ta dẫn gã vào một tiệm ăn, mỗi người
xơi một tô phở tái và một ly cà phê đen. Sau đó, anh ta vẫy taxi
ra phi trường. Khi xe tới đường Công Lý, anh ta nói với gã :
- Tôi đặt mua một cái lư hương làm bàn thờ
tổ tiên, nhưng còn thiếu tám trăm đồng. Nếu có thể, anh cho tôi
mượn đỡ, tới Đàlạt tôi sẽ thanh toán sòng phẳng.
Tôi không ngần ngại đưa cho anh ta tám trăm
đồng. Anh ta bảo tài xế dừng lại và nói với gã :
- Chịu khó chờ một chút, tôi sẽ ra ngay.
Nói xong anh ta rẽ vào một con hẻm. Gã chờ
năm phút, mười phút, rồi hai mươi phút mà vẫn không thấy anh ta
ra. Gã bèn nói với bác tài :
- Bác vui lòng đợi tí nhé, tôi vô nhà xem
anh bạn thế nào.
Bước vào con hẻm, nhưng biết đâu mà tìm. Gã
bỗng “ngộ ra” rằng mình đã bị lừa. Quay trở ra, gã đã phải nói
dối bác tài :
- Bạn tôi mắc kẹt công chuyện không đi nữa.
Vậy bác hãy cho tôi ra bến xe Đàlạt, gần Viện Hóa Đạo.
Chiếc xe Minh Trung rời bến. Gã vừa buồn,
vừa tức, lại vừa thầm phục anh ta. Đúng là cháy nhà ra mặt
chuột, bản chất của anh ta chỉ là một tên lừa đảo. Tám trăm đồng
cũng là giá vé máy đi Đàlạt lúc bấy giờ đấy.
Hạng người xảo quyệt này đã được tục ngữ ca
dao diễn tả một cách chính xác :
- Khẩu Phật, tâm xà. Miệng thì gõ mõ tụng
kinh, nhưng lòng thì lại hung ác như một loài rắn độc.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Cũng trong chiều hướng ấy, người ta còn nói
“chuột đội vỏ trứng”, để ám chỉ những kẻ giả nhân giả nghĩa để
tự vệ, cũng như để bóc lột người khác.
Có một câu truyện kể lại rằng :
Màn đêm vẫn còn bao phủ. Gió lớn và lạnh
giá, mới khoảng hai giờ, chuông điện thoại nhà xứ bỗng reo vang.
Có tiếng nói hốt hoảng la lên :
- Con nghĩ rằng ông ngoại con sắp qua đời.
Vì gia đình của người gọi điện thoại chỉ
cách nhà xứ một con phố, nên cha sở chỉ cần đi bộ tới. Khi bước
chân vào một ngõ hẻm, ngài chợt thấy xuất hiện một bóng đen cầm
súng tiến tới và truyền lệnh :
- Đưa tiền đây.
Ngài nói với tên cướp :
- Ví của tôi để ở trong áo khoác.
Khi ngài đưa tay mở nút áo khoác để lấy ví
tiền, tên cướp chợt nhìn thấy chiếc cổ áo Rôma, liền ấp úng thưa
lại :
- Con không biết là cha, con xin lỗi cha và
xin cha cất tiền đi.
Khi đã bình tĩnh lại, cha sở đưa cho tên
cướp một điếu thuốc lá, để hút cho đỡ lạnh, nhưng hắn vội lắc
đầu và nói :
- Không, con cám ơn cha, vì trong mùa chay,
con không hút thuốc.
Thật là chéo cẳng ngỗng và nực cười :
- Vừa sống tinh thần hy sinh mùa chay, lại
vừa vô tư chặn đường cướp tiền bạc của người qua đường.
Người Pháp có câu thành ngữ “Absent le
chat, les souris dansent”, có nghĩa là vắng mèo, lũ chuột nhảy
múa. Cũng giống như người Việt Nam chúng ta thường bảo :
- Vắng chủ nhà gà vộc niêu tôm.
Để diễn tả một người có tài nhưng gặp bước
đường cùng, nên cũng đành phải bó tay chịu vậy, vì bế tắc không
tìm thấy phương cách giải quyết, cũng giống như một nhà thơ cổ
đã viết :
- Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.
Theo định nghĩa thì chuột chù hay chuột xạ
là một loại chuột mõm dài và nhọn, ban ngày không thấy đường,
“lù đù như chuột chù phải khói”. Chuột chù không có tài leo,
nhưng lại có mùi hôi.
Theo các nhà chuyên môn, thì mùi hôi này là
một thứ vũ khí rất hiệu nghiệm để tự vệ, bởi vì các động vật
khác, khi ngửi phải mùi hôi này, sẽ cảm thấy ngán ngẩm, chẳng
thèm bắt ăn thịt, nhưng lo cao chạy xa bay.
Thế nhưng, trong cuộc sống đôi khi chúng ta
gặp phải cảnh “chuột chù lại có xạ hương”. Có một loại
chồn, được gọi là chồn hương, trong người mang một cục xạ, toát
ra một chất rất thơm, thường được dùng làm nước hoa.
Câu thành ngữ này muốn nói lên rằng : Kẻ
hèn hạ mà lại có tài cao. Cũng giống như khi bảo :
- Đất sỏi mà lại có trạch vàng.
Ngôn ngữ Việt Nam vốn lai láng tình cảm và
thường dùng những hình ảnh cụ thể đối chọi nhau để diễn tả những
sự việc rất tế nhị. Chẳng hạn như :
- Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.
Câu ca dao này nói lên thân phận cô gái
xinh đẹp, con nhà quyền quí, mà vớ phải ông chồng thuộc vào
hạng…”nông nãi, vũ phu chi cục mịch”. Cũng giống như việc Huyền
Trân Công Chúa bị gả cho Chế Mân, vua nước Chiêm Thành.
Chuyện xưa kể lại rằng :
Vua Trần Anh Tông qua du lịch ở đất Chiêm
Thành, gặp Chiêm Vương là Chế Mân. Ngài hứa gả Huyền Trân Công
Chúa để tình Việt Chiêm được thêm đằm thắm. Sau khi trở về, vua
Anh Tông đã giữ đúng theo lời hứa.
Chiêm Vương Chế Mân liền sai người mang lễ
vật sang xin cưới. Triều đình nhà Trần có nhiều người phản đối
cuộc hôn nhân này. Để thuyết phục vua Anh Tông, Chế Mân liền xin
dâng châu Ô và châu Rí để làm hôn lễ…
Trong khi đó, “đũa mốc mà lại chòi mâm
son”, có ý nói kẻ xưa nay vốn hèn kém và vô dụng, thế mà lại đòi
sánh cùng người quyền quí, hay đòi lên chỗ cao sang, giống như
một anh chàng vừa xấu trai, học dốt, con nhà nghèo, mà lại đòi
lấy cho được vợ đẹp, con nhà giàu, thì quả thật đúng là…đũa mốc
mà lại chòi mâm son.
Để kết thúc, gã cũng thấy người đời thường
hay bảo : “Chuột sa chĩnh gạo”. Câu này trước hết ám chỉ kẻ may
mắn tìm được một chỗ làm tốt, dễ bề kiếm ăn.
Tuy nhiên, bàn dân thiên hạ vốn thường dùng
câu thành ngữ này, điểm thêm một chút khinh bỉ, để ám chỉ một
anh chàng khố rách áo ôm, nghèo rớt mồng tơi, nhưng lại may mắn
được chui tọt vào làm rể nhà giàu.
Và từ đó, đối với anh ta, cuộc đời bỗng
dưng “dzui” và lên hương phơi phới!!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|