Duyệt Lại Các Môn Học Của
Giáo Hội |
Thánh Công Ðồng Chung
Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Ðào Tạo Linh Mục
Optatam Totius
(tiếp theo)
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
V. Duyệt Lại Các Môn Học
Của Giáo Hội
13. Giáo dục
về nhân bản. Trước khi học các môn học riêng của Giáo Hội, các
đại chủng sinh phải có một nền giáo dục về nhân bản và khoa học mà các thanh
niên trong quốc gia họ phải đạt tới mới có thể theo học các bậc cao đẳng
53*, ngoài ra, họ phải thâu thập một vốn liếng La
ngữ để có thể thấu hiểu và sử dụng những nguồn khoa học và tài liệu của Giáo Hội
27. Việc học ngôn ngữ phụng vụ riêng của từng
lễ chế phải được coi là cần thiết, lại phải hết sức cổ động cho chủng sinh học
hỏi đầy đủ về các ngôn ngữ dùng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
54*
14. Lớp dự bị.
Việc duyệt lại các môn học của Giáo Hội trước hết phải nhằm làm cho các môn
triết và thần học được phối trí cách thích hợp hơn và cùng chung đường lối góp
phần mỗi ngày mở rộng tâm trí chủng sinh đón nhận Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một mầu
nhiệm liên hệ đến toàn thể lịch sử nhân loại không ngừng ảnh hưởng trên Giáo
Hội, và nhất là không ngừng hoạt động qua chức Linh Mục
28.
Ðể các chủng sinh có được cái nhìn ấy,
ngay từ bước đầu của cuộc đời tu luyện, trước khi học các môn của Giáo Hội, họ
phải qua một lớp dự bị kéo dài trong một thời gian thích hợp. Lớp nhập môn này
55* sẽ trình bày Mầu Nhiệm Cứu Rỗi sao cho
các chủng sinh nhận thức được ý nghĩa, chương trình và mục đích mục vụ của những
môn học của Giáo Hội, đồng thời giúp họ lấy đức tin đặt nền móng và thấm nhuần
cả cuộc đời mình, lại làm cho họ vững tâm theo đuổi ơn thiên triệu bằng một tâm
hồn hân hoan tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình.
15. Các môn
triết học. Phải dạy các bộ môn triết học thế nào để trước hết có
thể dìu dắt các chủng sinh thâu thập được một kiến thức chắc chắn và có hệ thống
về con người, về thế giới và về Thiên Chúa. Hãy lấy di sản triết học giá trị
ngàn đời 56* làm điểm tựa,
29 đồng thời hãy sử dụng những công trình biên
khảo triết học hiện đại, nhất là những chiếu hướng triết học đang ảnh hưởng mạnh
nhất trong quốc gia mình 57* cũng như những
tiến bộ khoa học mới nhất. Ðược chuẩn bị đầy đủ như thế chủng sinh sẽ hiểu đúng
được tâm thức của thời đại để đối thoại được với người đương thời.
30
Phải dạy môn triết sử sao cho các chủng
sinh nắm được các nguyên lý tối hậu của các triết thuyết khác nhau, biết giữ lại
những gì được chứng minh là chân thật, có thể khám phá và luận bác các căn
nguyên sai lầm. 58*
Trong cách thức giảng dạy, phải kích thích
nơi chủng sinh lòng hâm mộ quyết liệt tìm kiếm, khảo sát và minh chứng chân lý,
59* đồng thời cũng nhận chân những giới hạn
của trí óc con người. Phải cẩn thận quan tâm đến mối liên lạc giữa triết học và
những vấn đề nhân sinh đích thực cũng như các thắc mắc làm giao động tâm trí
chủng sinh, phải giúp họ nhận ra các mối liên hệ giữa các lý luận triết học và
mầu nhiệm cứu rỗi mà họ sẽ khảo sát trong ánh sáng đức tin khi học thần học.
16. Các môn
thần học. Phải dạy các môn thần học 60*
trong ánh sáng đức tin 61* và dưới sự hướng
dẫn của Giáo Hội 31 để các chủng sinh chăm
chú múc lấy học thuyết Công Giáo từ nguồn Mạc Khải của Chúa, thấu triệt rồi biến
thành lương thực nuôi đời tu đức của họ 32,
62* lại có thể rao giảng, trình bày cũng như
bảo toàn 63* học thuyết ấy trong khi thi
hành chức vụ Linh Mục.
Phải đặc biệt chuyên lo dạy Thánh Kinh cho
các chủng sinh, vì Thánh Kinh 64* phải như
linh hồn của toàn thể khoa thần học 33; sau
phần nhập môn thích hợp, phải cẩn thận khai sáng cho họ phương pháp chú giải,
cho họ thấu triệt các đại đề của Mạc Khải, cho họ có hứng thú đọc và suy gẫm
Thánh Kinh hằng ngày làm của nuôi dưỡng 34.
Môn tín lý thần học phải được phân phối
theo thứ tự này: trước hết, trình bày chính các chủ đề Thánh Kinh. Phải tỏ cho
các chủng sinh thấy các Giáo Phụ Ðồng và Tây Phương, cũng như diễn tiến lịch sử
tín lý đã đóng góp gì trong việc trung thành lưu truyền và minh giải từng chân
lý Mạc Khải, đồng thời cũng xét đến mối liên lạc của nó với lịch sử Giáo Hội
tổng quát 35. Thứ đến, để khai sáng các mầu
nhiệm cứu rỗi cách thật đầy đủ, các chủng sinh phải học đào sâu và nhận thức
được mối liên hệ giữa các mầu nhiệm đó nhờ công việc suy tư với thánh Tôma
36 là một tôn sư 65*.
Họ phải học hỏi cho thấy các mầu nhiệm ấy luôn luôn hiện diện và tác động trong
các nghi thức Phụng Vụ 37 và trong toàn thể
đời sống Giáo Hội. Họ phải học cho biết cách giải đáp các vấn đề nhân sinh theo
ánh sáng Mạc Khải, biết áp dụng những chân lý Mạc Khải vĩnh cửu vào hoàn cảnh
đổi thay của những thực tại nhân loại và biết thông truyền các chân lý ấy cho
thích hợp với con người thời đại 38.
Những bộ môn thần học khác cũng phải được
canh tân nhờ tiếp xúc linh động hơn Mầu Nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu rỗi. Phải
đặc biệt chú ý cải thiện môn luân lý thần học 66*,
với lối trình bày có khoa học và thấm nhuần giáo lý Thánh Kinh nhiều hơn, nó sẽ
minh giải vẻ cao đẹp của ơn thiên triệu tín hữu trong Chúa Kitô cũng như nhiệm
vụ của họ phải mưu cầu lợi ích cho đời sống thế giới trong đức ái. Cũng vậy,
phải trình bày Giáo Luật và dạy Giáo Sử 67*,
cho liên lạc với Mầu Nhiệm Giáo Hội, theo Hiến Chế tín lý "về Giáo Hội" do Thánh
Công Ðồng này tuyên bố. Môn Phụng Vụ 68*
phải được coi là nguồn mạch thiết yếu số một của tinh thần Kitô giáo đích thực,
nên phải được giảng dạy đúng theo tinh thần các khoản 15 và 16 của Hiến Chế về
Phụng Vụ 39.
Tùy theo hoàn cảnh từng miền, các chủng
sinh phải được hướng dẫn để biết đầy đủ hơn về những Giáo Hội và những Cộng Ðoàn
Giáo Hội ly khai khỏi Tông Tòa Roma, để có thể góp phần xúc tiến việc tái lập
hiệp nhất 69* giữa toàn thể Kitô hữu theo
các chỉ thị của Thánh Công Ðồng này 40.
Hơn nữa, phải mở đường cho họ hiểu biết
các tôn giáo khác hiện đang quảng bá trong mỗi miền
70*, để họ nhận thấy rõ hơn những gì tốt lành và chân thật do Thiên
Chúa an bài, đang tiềm tàng nơi các tôn giáo ấy, để họ biết luận bác những sai
lầm và để có thể thông truyền ánh sáng chân lý đầy đủ cho những kẻ chưa được đón
nhận ánh sáng ấy.
17. Duyệt xét
lại phương pháp giáo dục. Việc huấn luyện học thuyết không chỉ
nhằm thông truyền một số khái niệm, nhưng phải nhằm huấn luyện chủng sinh cách
đích thực và sâu xa, vì thế phải duyệt các phương pháp giáo dục
71* về cách giảng dạy, thực tập, thảo luận, cũng
như về việc khích lệ chủng sinh làm việc riêng rẽ hay từng nhóm. Phải liệu sao
cho toàn thể chương trình huấn luyện được duy nhất và vững chắc; tránh gia tăng
qua đáng các môn và giờ học, lại phải loại bỏ những vấn đề không còn quan trọng
mấy, hoặc là những vân đề phải dành cho các bậc cao đẳng nghiên cứu sâu rộng
hơn.
18. Các môn
học cao đẳng. Các Giám Mục có nhiệm vụ gửi các chủng sinh có tư
cách 72*, nhân đức và trí thông minh tới học
tại những Học Viện chuyên biệt, tại các Phân Khoa hay Ðại Học, để chuẩn bị cho
có những Linh Mục được học hành cao hơn và uyên thâm hơn về các khoa học đạo
cũng như các khoa học đời xem ra thích hợp, khả dĩ có thể đáp ứng những nhu cầu
tông đồ khác nhau; nhưng khong bao giờ được xao lãng việc huấn luyện tu đức và
mục vụ, nhất là khi họ chưa chịu chức Linh Mục.
____________
chú thích
53*
Sắc Lệnh định rõ những kiến thức cần thiết trước khi theo học những môn học kinh
viện; trau dồi văn chương và khoa học của quốc gia. Nhưng Công Ðồng không nói về
bằng cấp quốc gia vì tại một vài nước, chương trình quốc gia khó dung hòa với sự
đào tạo Kitô giáo hoàn toàn cho các ứng viên muốn tới chức linh mục. Một đề nghị
tu chỉnh (M 33; 84-85/1) đã nói: "Một vài chính phủ đòi hỏi những điều không
chính đáng". LTCB số 65 muốn "họ phải được đào luyện cho xứng với tước hiệu".
27 Xem
Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, n.v.t. trg 993.
54*
Ðây là một lời khẩn khoản dầu không bắt buộc mọi người, 66 Nghị Phụ đã yêu cầu
phải bắt buộc biết tiếng Hy Lạp; nhưng Công Ðồng chỉ khuyên nhủ, vì các hoàn
cảnh khác nhau trong toàn Giáo Hội (xem LTCB số 80).
Sau khi nói về các ngôn ngữ cần thiết,
LTCB (số 67) đã thêm một đoạn về việc khai tâm đối với các phương tiện truyền
thông xã hội (xem TT số 67 và 16).
28 Xem
CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 7 và 28: AAS 57 (1965),
trg 9-11; 33.
55*
LTCB nói lớp nhập môn này "có mục đích rút ra ý nghĩa chiều hướng và mục đích
của những môn học kinh viện ngoài ra nó còn phải giúp bảo đảm những nền tảng của
đức tin, giúp hiểu sâu xa hơn rằng ơn thiên triệu linh mục phải được gìn giữ
bằng một hành động có suy xét hơn" (LTCB số 62). Chỉ có một Nghị Phụ không đồng
ý về sự cần thiết của lớp nhập môn này.
56*
Xem LTCB số 71. Khi giới thiệu "di sản triết học ngàn đời", Ủy Ban đã muốn ta
phải hiểu là các nguyên tắc của Thánh Tôma (xem Laplante, sd 153-156).
29 Xem
Piô XII, Tđ Humani Generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), trg 571-575.
57*
Công Ðồng không hề quên khía cạnh mục vụ đã là khởi hứng và là mục đích của tất
cả việc đào tạo linh mục. Cũng thế, bản văn thường nhắc đến nỗi lo lắng chuẩn bị
cho họ đối thoại với những người đồng hương và đương thời; xem LTCB số 64; đối
với các xứ truyền giáo; xem TG 16, 4.
30 Xem
Phaolô VI, Tđ Eccleiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964) trg 637 tt.
58*
Ðoạn này được thêm vào lược đồ G, theo nhiều đề nghị tu chỉnh.
59*
Những từ ngữ đã được lựa chọn "tìm kiếm, khảo sát, minh chứng" nói lên bổn phận
phải trau dồi chính xác, từ bỏ cái mơ hồ, nghiêm chỉnh với các lý chứng, trong
công việc tìm kiếm và chuyển thông tư tưởng. Cần xem thêm LTCB, ghi chú 150 cho
số 71 về sự quan trọng của các môn triết học.
60*
Theo Giáo Luật (kh 1365, 2), LTCB lập lại rằng thần học phải kéo dài ít nhất là
4 năm (LTCB số 60 và 76).
Số này dài nhất trong Sắc Lệnh và đặc sắc
nhất, đã được tất cả các Nghị Phụ đồng ý.
61* Ở
đây đưa ra những hướng dẫn tổng quát về việc khảo cứu thần học: "trong ánh sáng
đức tin". "Tất cả cuộc khảo cứu thần học, dầu theo ngữ học, triết học hay sử
học, đều phải phát khởi từ ánh sáng nội tâm của đức tin". (Ðề nghị tu chỉnh
96/1). - "Dưới sự hướng dẫn của Giáo Quyền". Ðức Piô XII trong Tđ Humani
genesis: "các nhà thần học phải tùy thuộc Giáo Quyền trong vấn đề về đức tin,
phong hóa, luật trực tiếp hay phổ quát về chân lý, vì Chúa Kitô Chúa chúng ta đã
ủy thác cho Giáo Quyền toàn bộ kho tàng đức tin". Ghi chú 31 của Sắc Lệnh lấy
lại Hiến chế tín lý về Giáo Hội số 25 nơi đòi phải có sự "qui thuận tôn giáo
trong cả ý chí lẫn lý trí đối với Quyền Giáo Huấn chính đáng của Ðức Thánh Cha,
cả khi ngài không tuyên bố long trọng "ex cathedra". Ta còn có thể kể thêm đoạn
văn của Hiến chế tín lý về Mạc Khải sô 10: "Nhiệm vụ chú giải chính thức Lời
Chúa, thành văn hay truyền tụng, chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống động
của Giáo Hội mà uy quyền hành sự nhân danh Chúa Giêsu Kitô".
31 Xem
Piô XII, Tđ Humani Genesis, 128-1950: AAS 42 (1950), trg 567-569. Diễn văn Si
Diligis, 31-5-1954: AAS 46 (1954), trg 314 tt. - Phaolô VI, diễn văn đọc tại Ðại
Học Gregoriô, 12-3-1964: AAS 56 (1964), trg 364. - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, số 25: AAS 57 (1965), trg 29-31.
32 Xem
T. Bonaventura, Itinerarium mentis in Deum, Prol số 4: "Ước gì đừng ai tự phụ
rằng mình chỉ cần đọc qua mà không cần thấm nhiễm, chỉ cần thuyết lý mà không
cần sùng kính, chỉ cần khảo cứu mà không cần khâm phục, chỉ cần chú tâm mà không
cần hoan lạc, chỉ cần khéo léo mà không cần đạo hạnh, chỉ cần kiến thức mà không
cần yêu đương, chỉ cần hiểu biết mà không cần khiêm tốn, chỉ cần chuyên chăm mà
không cần ơn Thánh, chỉ cần ánh sáng mà không cần đức khôn ngoan thần linh" (S.
Bonaventura, Opera Omnia, V. Quaracchi 1891, trg 296).
62* Có
thể xem thêm Truhlar (Việc dạy thần học trogn đời sống thiêng liêng), trong
Seminarium 1968, số 4.
63*
Xem những khai triển về vai trò của các giáo sư thần học trong LTCB số 86-89.
64*
Sắc Lệnh đặt Thánh Kinh vào tâm điểm thần học và cách nói "như hồn của toàn thể
khoa thần học" đã được xử dụng trong Hiấn chế tín lý về Mạc Khải, số 24. Các nói
đó đã được Ðức Lêô XIII dùng trong thông điệp Providentissimus Deus, 1893, về
những môn học Thánh Kinh.
33 Xem
Leô XIII, Tđ Providentissimus Deus, 18-11-1893: AAS 26 (1893-1894), trg 283.
34 Xem
Ủy ban giáo hoàng về Thánh Kinh, Instructio de Sacra Scriptura recte docenda,
13-5-1950: AAS 42 (1950), trg 502.
35 Xem
Piô XII, Tđ Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950) trg 568 tt: "Nhờ khảo cứu
các nguồn gốc mà khoa thần học luôn trẻ trung, trong khi đó, sự thuyết lý không
chịu đào sâu vào kho tàng Mạc Khải chỉ là sự thuyết lý khô cằn, như kinh nghiệm
đã minh chứng".
36 Xem
Piô XII, bài giảng cho các chủng sinh, 24-6-1939: AAS 31 (1939), trg 247:
"Khuyến khích học thuyết của Thánh Tôma không có nghĩa là bóp nghẹt, nhưng là
thúc đẩy và vững vàng hướng dẫn những cuộc thi đua khảo cứu và quảng bá chân
lý". Phaolô VI, Diễn văn đọc tại Ðại Học Gregoriô, 12-3-1964: AAS 56 (1964), trg
365. "Các Giáo sư sẽ kính cẩn lưu tâm đến học thuyết của các Ðấng Tiến Sĩ trong
Giáo Hội, và đặc biệt là Thánh Tôma Aquinô. Quả thật, nơi vị Tiến Sĩ Thiên Thần
này, có một trí năng sâu sắc, một lòng yêu chân lý trung thực, một sự khôn ngoan
phi thường khi đào sâu, tổng hợp và trình bày những chân lý cao sâu nhất, đến
nỗi học thuyết của ngài đã thành khí cụ hiệu nghiệm nhất, không những để xây nền
vững chắc cho đức tin mà còn để thu lượm một cách chắc chắn và hiệu nghiệm những
kết quả của một bước tiến lành mạnh"; xem diễn văn đọc trước Ðại Hội Quốc Tế kỳ
VI của học thuyết Tôma, 10-9-1965: AAS 57 (1965), trg 788-792.
65*
Vấn đề này đã được tranh luận như sau: 161 Nghị Phụ muốn dùng từ ngữ "như mẫu
mực"; 31 Nghị Phụ đề nghị: "và của các tôn sư khác", hay "nhất là Thánh Tôma";
46 Nghị Phụ muốn nói tổng quát: "các thánh tiến sĩ". Nhưng có 459 Nghị Phụ muốn
bảo vệ bản văn của lược đồ nên ủy ban đã để nguyên như lược đồ F: "với thánh
Tôma là một tôn sư"; 1,500 Nghị Phụ khác mặc nhiên chấp thuận. (xem 1189, đề
nghị tu chỉnh 11, 12, 13, 14).
37 Xem
CÐ Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrasanctum Concilium số 7 và 16: AAS 56
(1964), trg 100 tt và 104 tt.
38 Xem
Phaolô VI, Tđ Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 640 tt.
66* Cả
đoạn này hoàn toàn mới mẻ: các lược đồ từ A tới F không có. Xem vài ghi nhận
trong LTCB số 79.
67*
Giáo sử cần trình bày sự phát triển của giáo thuyết, những điều kiện xã hội, sự
cộng tác kỳ diệu giữa hành động thần linh và hoạt động con người để những người
thụ huấn có được "một cảm giác chân thực của Giáo Hội và của Truyền Thống".
Ngoài ra còn phải chú ý tới lịch sử của mỗi miền (xem LTCB số 79).
68*
Môn phụng vụ phải được coi như "một trong những môn học chính" (môn quan trọng
trong các Ðại chủng viện và chính yếu trong các phân khoa thần học). Phụng vụ
phải được dạy dưới khía cạnh thần học, lịch sử, thiêng liêng và mục vụ (xem LTCB
số 79).
39 CÐ
Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrasanctum Concilium, số 10, 14, 15, 16.
Thánh bộ Nghi lễ Instructio ad exsecutionem Constitutionis de Sacra Liturgia
recte ordinandam, 26-9-1964, số 11 và 12: AAS 56 (1964), trg 879 tt.
69*
Niềm lo âu tìm về hiệp nhất này như một dấu chỉ thời đại, sẽ giúp tìm thấy nhiều
lợi ích qua việc học hỏi những nguyên tắc hướng dẫn việc hiệp nhất (Spiritus
Dominus, do Văn Ph2ng Thư Ký về Hiệp Nhất xuất bản ngày 16-4-1970: trích dẫn
Doc. Cath. 18-6-67 và 7-6-70), nhất là phần thứ hai; xem thêm những Sắc Lệnh về
Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương và về Hiệp Nhất với các chú thích.
Tiếng "các Giáo Hội" có ý chỉ Giáo Hội
Chính Thống, Hy Lạp, Anh Giáo v.v... và tiếng "các Cộng Ðoàn Giáo Hội" (do Ðức
Hồng Y Koening đề ra) chỉ các Giáo Hội nhỏ. Sắc Lệnh về hoạt động Truyền Giáo
nhấn mạnh đặc biệt tới tinh thần cộng đoàn này trong các xứ truyền giáo: số 15,
5.
40 CÐ
Vat II, Săc Lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio, số 1, 9, 10: AAS 57
(1965), trg 90 và 98 tt.
70*
Ðoạn này đặc biệt quan trọng đối với linh mục tương lai trong những miền đa số
không phải là Kitô hữu. Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo cũng nhấn mạnh tới
điểm đó: "Họ phải được chuẩn bị để thích hợp cho cuộc đối thoại huynh đệ với
những người ngoài Kitô giáo" (TG số 16 và NK).
71*
LTCB số 90-93 thêm những lời khuyên thực tế: đừng vội tăng thêm những môn học
mới, nhưng nên đưa vào những vấn đề mới trong giáo huấn cổ truyền: đó không phải
là nhiều khoa nhưng chỉ một khoa là khoa đức tin và Phúc Âm.
72*
Ðoạn này xuất hiện lần đầu trong lược đồ E, vào tháng 4 năm 1965 và đã được
nhuận chính nhiều lần. Vấn đề liên hệ nhiều tới các xứ truyền giáo. Lần can
thiệp đầu tiên là do Ðức Cha Sani người Nam Dương. Nhiều vấn đề tiềm ẩn trong số
này: một nhu cầu thực tế cho nhiều giáo phận là phải chuẩn bị các linh mục cho
những trách vụ cao hơn, và các Giám Mục có nhiệm vụ phải chọn lựa. Cũng phải đọc
thêm số 16, 4 và 7 của Sắc Lệnh TG. Xem thêm những yêu cầu của LTCB số 83-84.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHƯƠNG TIỆN VÀ TIN MỪNG
|
Suy niệm
Tin Mừng CN 15 TN B ( Mc 6, 7 – 13 )
Từ câu chuyện chiếc
Minsk
Sau khi về
nhận xứ Malâm, Cha Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy
Honda Nhật đang chạy để mua một chiếc Minsk. Bà con nực cười ông
cha xứ mình chạy chiếc Minsk giống mấy người xe thồ, xe ôm,
chẳng ra dáng vẻ ông cha xứ tí nào. Mãi đến mấy tháng sau họ mới
hiểu, chiếc Minsk là phương tiện tốt nhất có thể đưa cha đi đến
vùng Đami cách Giáo Xứ nhà 70 cây số về hướng Tây Bắc, giáp ranh
với Bảo Lộc, Lâm Đồng, nơi ấy, có vài trăm con chiên đang tản
mác trên các đồi chè ngập nắng.
Vào ngày
11.9.2001, chúng tôi được đi với cha Gioan đến thăm vùng Đami
đèo núi. Được biết, bà con hầu hết từ những tỉnh miền Bắc đến
đây tìm kế sinh nhai. Họ sống trên đồi, nhà này cách nhà kia có
khi cả cây số. Chỉ mới 6 tháng sau khi về nhận xứ và năm lần
“đến xem nơi người ở và ở lại với người” mà cha Gioan đã thuộc
hầu hết địa chỉ của con chiên và thành lập được ba điểm tập
trung để dâng Thánh Lễ. Còn các Bí Tích hầu hết cử hành tại nhà
dân. Sau hơn 10 năm, Đami nay đã tràn đầy sức sống mới của Tin
Mừng, đã là Giáo Xứ với ba bốn Giáo Họ.
Chiếc Minsk
là phương tiện, nhưng là phương tiện đơn sơ mà hiệu quả của một
sứ giả có tấm lòng mang Sứ Điệp Tin Mừng đến cho muôn dân. Chiếc
Minsk ắp đầy kỷ niệm của bao lần vấp đá, trượt đồi, té ngã, cán
chó, tai nạn… và cả những lần bị rượt đuổi vì tội làm Lễ nhà dân
không xin phép…
Các Linh Mục được sai
đi
Hy vọng đây
là một trong trăm ngàn minh họa rất hùng hồn về việc các Linh
Mục, Sứ giả Tin Mừng tại Việt Nam đã và đang tuân thủ đúng lệnh
truyền của Chúa Giêsu, Người Sai Đi:
“đừng mang gì, ngoài cây gậy, không
mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép,
và đừng mặc hai áo”.
Vâng, có thể
nói, không vì hoàn cảnh quá sức khó khăn đến nổi Giáo Dân Việt
Nam không lo lắng được, hoặc chính các Linh Mục không sắm sửa
cho mình những phương tiện, tiện nghi thoải mái, nhưng vì các
ngài muốn thực hiện cuộc sống đơn sơ khó nghèo như đòi hỏi của
Tin Mừng, và hơn thế nữa, các ngài ý thức được việc chính yếu
của lệnh sai đi là “rao giảng
sự thống hối”.
Khi đề cập
đến chi tiết này có thể có người bi quan vặn hỏi: “Được bao
nhiêu phần trăm như thế mà dám cả quyết vậy ?” Chúng ta nên biểu
quyết: “Gần trăm phần trăm”. Bởi vì, con số những người được sai
đi hôm nay bị tục hóa, bị phương tiện hóa, không thi hành sứ vụ
chính yếu của mình… chỉ là số phần trăm nho nhỏ thôi. Nhưng, bởi
vì, sự xấu xa dễ ảnh hưởng nhanh và rộng hơn là điều tốt lành,
nên khi có vài trường hợp không phù hợp là đã có thể gây hoang
mang lớn lao cho mọi người.
Hơn nữa, cũng
cần phải cẩn trọng trước những đồn đoán, phao tin làm mất danh
dự của các Linh Mục bởi vì những người chống phá Giáo Hội cũng
đang rắp tâm tìm các khe hở của các Linh Mục để thổi phồng lên
cho thỏa mãn ý đồ đen tối. Thiết tưởng, dẫu sao, chúng ta cũng
hãy cầu nguyện và tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần và tình yêu
Chúa Kitô sẽ thúc bách các Linh Mục “thống hối, canh tân” trước
khi rao giảng sự thống hối, đổi mới theo Tin Mừng.
Giáo Dân được sai đi
Không chỉ các
Linh Mục mới là những người nhận lệnh sai đi loan báo Tin Mừng,
mà cả mỗi tín hữu hôm nay, được sai đến trong môi trường sống
của mình để làm chứng cho Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cũng được mời
gọi sống đời đơn sơ khó nghèo và đặc biệt quan tâm đến việc
truyền giáo ngay trong chính lúc khó nghèo đau khổ nhất. Thế
nhưng, chúng ta vẫn:
Từ chối một
sẻ chia với người vì cho rằng phải đợi đến dư thừa mình mới chia
sẻ được.
Từ chối thăm
viếng người vì cho rằng mình không có thời gian cho việc vô bổ
ấy.
Từ chối một
chút chạnh lòng vì cho rằng lúc mình khốn khó chẳng thấy ai ngó
tới.
Từ chối một
lời tốt lành khuyên nhủ vì cho rằng người lòng chai dạ đá.
Từ chối một
lời xin lỗi vì cho rằng người thấp bé hèn kém hơn mình.
Từ chối một
lời cảm ơn vì cho rằng người làm ơn cho mình đang bố thí hơn là
giúp đỡ.
Chúng ta đã
bị lệ thuộc quá nhiều vào phương tiện, vào điều kiện, mà không
chú tâm đến việc đáp đền hồng ân Thiên Chúa bằng cách loan báo
sứ điệp Tin Mừng cho anh em, làm chứng về “cuộc sống bình an
trong Chúa” cho mọi người.
Lời Chúa hôm
nay đang nhắc nhớ chúng ta đơn sơ khiêm tốn bắt chước gương tiên
tri Amos, nhận ra ơn gọi rao giảng Tin Mừng của mình là hồng ân
cao cả vượt lên trên thân phận tầm thường và bất toàn của mình:
“Tôi chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi:
Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân của Ta” ( Am 7, 15 ),
và chu toàn sứ vụ của mình theo thể cách đơn sơ nhất, phù hợp
nhất với Tin Mừng, để phục vụ cho Tin Mừng.
Nguyện xin
Chúa cho các Linh Mục của Chúa chuyên tâm
“rao giảng sự thống hối”, “trừ quỷ,
xức dầu, chữa lành” cho đoàn chiên Chúa. Và xin
cho các tín hữu Chúa không quá lệ thuộc vào phương tiện trần
gian, những luôn năng nổ chu toàn sứ vụ tông đồ trong đời
thường. Amen.
PM. CAO
HUY HOÀNG, 12.7.2012 |
VỀ MỤC LỤC |
|
MẠC KHẢI LÀ
GÌ ? THIÊN CHÚA MẠC KHẢI NGÀI CÁCH NÀO CHO CON NGƯỜI
? |
I- Mặc
khải là gì
?(Revelatio, revelation)
Sách Giáo lý Công Giáo giải thích về mac khải như sau:
“ Trong sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Ngài, Thiên Chúa đã
vui lòng đích thân tỏ mình ra và cho biết mầu nhiệm của thánh ý
Ngài , nhân đó và nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, con người có
thể đến gần Đức Chúa Cha , trong Chúa Thánh Thần và được trở nên
thông phân bản tính thần linh của Ngài.”
( SGLGHCG, số 51)
Như thể, hiển nhiên có nghĩa là nếu Thiên Chúa không tự tỏ mình
ra (tự mạc khải) bằng nhiều cách mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau
đây, thì chắc chắn con người không có cách nào biết được Thiên
Chúa là AI cũng như không thể hiểu được thánh ý của Chúa cho con
người từ muôn thủa cho đến ngày nay và còn cho mãi đến ngày cánh
chung tức là ngày hết thời gian.
Sở dĩ chúng ta không thể biết được Thiên Chúa vì Ngài quả thật
siêu vượt ra khỏi mọi khả năng hiểu biết của trí tuệ con người.
Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng “ẩn mình” như ngôn sứ I-saia
đã nói :
“Lậy Thiên Chúa của nhà It-rael, Lậy Đấng cứu độ.
Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình
( hidden)”
(Is 45: 15)
Thánh Phaolô cũng được soi sáng để nhận biết Thiên Chúa là Đấng
“ngự nơi ánh sáng không ai đến được”, vì :
“ Chỉ mình Người là Đấng trường
sinh bất tử -
Ngự trong ánh sáng siêu phàm - Đấng không một người nào đã thấy
hay có thể thấy.”
( 1 Tm 6: 16)
Không thể biết và không thể thấy đối với mọi khả năng trí khôn
và giác quan của con người, cho nên, nếu Thiên Chúa không tự tỏ
mình ra thì không bao giờ con người có thể biết được gì về Ngài
. Đó là sự thật không ai có thể phủ nhận.
II-
Vậy Thiên Chúa đã tự mạc khải hay tỏ mình ra cho con người
biết phần nào về Ngài qua những phương cách nào ?
1- Trước
hết , Thiên Chúa tỏ mình cho con người qua công trình Người
sáng tạo trong vũ trụ thiên nhiên hùng vĩ mà con người có thể
quan sát thấy:
“ Tôi
quả rõ, CHÚA thật là cao cả
Chúa chúng ta trỗi vược trên hết chư thần
Muốn làm gì là Chúa làm nên
Chốn trời cao cùng nơi đất thấp
Lòng biển cả và đáy vực sâu
Từ cùng tận địa cầu xa tắp
Chúa đẩy lên từng đám mây trời
Làm cho chớp giật mưa rơi
Mở kho thả gió khắp nơi tung hoành.”
( Tv 135(134) : 5-7)
Hoặc :
“Trời
xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
Không trung loan báo việc tay Người làm
Ngày qua mách
bảo cho ngày tới
Đêm này kể lại với đêm kia
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh
Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
Và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.”
( Tv 19 (18) : 2-5)
2- Qua các giấc mơ hay chiêm bao khi con người ngủ:
a- Cụ
thể là trường hợp vua A-vi-ma-lec( Abimelech) đã sai người đến
bắt bà Xa-ra ( Sarah), vợ ông Ap-raham. Nhưng ban đêm, khi vua
A-vi-ma-lec ngủ, Thiên Chúa đã cảnh cáo ông trong giấc mơ là
“Này ngươi sắp phải chết vì người đàn bà
mà ngươi đã bắt, bởi người ấy có chồng.”( St 20: 3).
Vì lời cảnh cáo này của
Chúa, vua A-vimalec đã trả bà Xa-ra về cho ông Ap-raham và được
tha chết.
b- Đặc biệt là Giuse con ông
Gia-cóp bị bán sang Ai Cập. Nhưng đã trở thành người cứu sống
cho cả gia đình dòng họ sau này nhờ địa vị của ông trong triều
đình vua Pharaon. Giuse có ơn giải mộng, nên một ngày kia vua
Pharaon cho vời Giuse đến để giải mộng cho nhà Vua. Giuse đã nói
với vua như sau : “ Không phải
tôi mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả lời đem lại bình an cho
Pharaon.”( St 41: 15-16)
c- Đặc biệt hơn nữa là Thánh Giuse,
bạn thanh sạch của Đức Trinh Mữ Maria, đã được Thiên Chúa báo
mộng trước hết là không được bỏ trốn khi biết Maria có thai,
sau là phải đem Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập; và
sau cùng là đem thánh gia thất về sống ở Nazaret. Tất cả những
việc trên đều được báo mộng trước cho Thánh Giuse và Ngài đã
hoàn toàn thi hành những gì đã được báo cho biết trong giấc mơ.
Như thể đủ cho thấy Thiên Chúa cũng dùng giấc mơ để mạc khải
cho con người biết về Chương Trình và Thánh Ý của Người.
3- Qua các Sứ ngôn (Prophets) trong thời Cựu Ước và các Tông Đồ
của Chúa Giêsu trong thời Tân Ước:
Đây là những người
được Thiên Chúa đích thân kêu gọi để trao cho sứ mệnh loan
truyền lại lời Chúa và thánh ý của Ngài cho con người ( cho dân
Do Thái trước tiên, và cho các dân khác trên toàn thế giới sau
này), như Ngôn sứ Amos đã nói rõ như sau:
“ Vì Đức Chúa là Chúa thượng không làm điều gì
Mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ của Người
được biết.” ( Am 3:7)
Ông Mô-sê cũng nói thêm về ơn gọi và vai trò của các ngôn sứ
như sau :
“ Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để
giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy.”
( Đnl 18:15)
Lại nữa, qua miệng ngôn sứ E-de-kien
( Êzekiel) Thiên Chúa đã nói với dân Israel như sau :
“ Hỡi con người , hãy đi đến với nhà Israel và nói với chúng
những lời của Ta…(
Ez 2: 4)
Mặt khác, cũng có khi chính Chúa Cha mạc khải trực tiếp cho con
người như Chúa Giêsu đã nói cho Phêrô biết rằng:
“ này anh Si-môn, con ông Giona, anh
thật là người có phúc , vì không
phải phàm nhân mạc khải cho anh biết điều ấy (
biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống
như Phêrô tuyên xưng (Mt 16: 16)
nhưng là Cha của Thầy Đấng ngự
trên trời.” ( Mt 16:17)
Vì thể, sau khi Adam và Eva phạm tôi và bị đưổi ra khỏi địa
đàng, cho đến khi có đông đảo con người trên mặt đất cùng với
các sinh vật khác. Nhưng con người đã dần dần sa đọa và làm
những sự dữ trái với ý muốn tốt lành của Thiên Chúa, nên Người
đã nổi giận và quyết định tiêu diệt hết mọi người và sinh vật
trên mặt đất, trừ ông Noe là người sống đẹp lòng Chúa. Cho
nên, Chúa đã truyền cho ông: “
làm cho mình một chiếc tàu bằng
gỗ bách” đủ sức chứa mọi loài sinh vật, mỗi loài
một đôi cùng với gia đình con cái ông lên tầu, vì Thiên Chúa
“ sắp cho Hồng Thủy, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất
để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời; mọi loài
trên mặt đắt sẽ tắt thở.” Thiên Chúa đã giáng
tai họa nước lụt, vi Người “ thấy rằng sự gian ác của con
người quả là nhiều và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý
định xấu” (St 6: 5) , nên Thiên Chúa đã tiêu diệt hết mọi
loài, mọi vật , trừ những sinh vật và người trong gia đinh ông
Nô-E đã lên tầu trước khi mưa tuôn đổ xuống địa cầu để cuốn đi
mọi sinh vật bên ngoài con tầu này vào lòng đại dương. ( St 6:
6- 22; 7: 1-5)
Sau đại hồng thủy, Thiên Chúa lại tỏ mình cho ông Abraham, cũng
là người sống đẹp lòng Chúa, đã dám hy sinh con mình là Isaac
theo lời Chúa thử thách ông và ông đã toan giết con làm lễ vật
dâng lên Thiên Chúa. Nhưng Chúa đã kịp thời can thiệp để cứu
Isaac vì đã thấy lòng tin yêu đích thực của ông. Vì thế, Thiên
Chúa đã phán bảo Abraham qua miệng Sứ Thần của Chúa như sau:
“
Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi
vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một
của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi , sẽ làm cho
dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như
cát ngoài bãi biển..”( St 22 :
16-17)
Nhưng đặc biết hơn hết trong thời các Tổ Phụ, sau Đại Hồng
Thủy, là Thiên Chúa đã tỏ mình cho ông Mô-Sê qua hình ảnh Bụi
gai bốc cháy và từ giữa bụi cây Thiên Chúa đã nói với ông những
lời sau đây:
“Ta là Thiên Chúa của cha ngươi,
Thiên Chúa của Ap-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-Ác, Thiên Chúa của
Gia-cóp..” (Xh 3: 2-6)
Thiên Chúa đã gọi Mô-sê (Moses) để truyền cho ông sứ mạng dẫn
đưa dân Do Thái đang làm nô lệ và thống khổ trên đất Ai Cập trở
về quê hương. Đưa họ bằng an trở về, vì Thiên Chúa muốn
chọn Israel làm dân riêng của Ngài, như ông Mô-sê đã truyền lại
cho dân thánh chỉ sau đây của Thiên Chúa:
“Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ Giao
Ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng
của Ta. Vì toàn cõi đất là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một
vương quốc tư tế, một dân thánh.” ( Xh 19: 5-6)
Ngoài các ngôn sứ như Abraham và Môsê ra, Thiên Chúa còn gọi
thêm nhiều ngôn sứ khác trong thời Cựu Ước như Joshua, Samuel,
Isaiah, Jeremiah, Ezekiel, Daniel…để qua họ, Chúa nói với Dân
Israel những điều Người muốn họ nghe và thi hành để được chúc
phúc hoặc đe dọa trừng phạt nếu họ bất tuân thánh ý của Chúa và
làm những điều sai trái, những sự dữ đáng phải phạt. Chúa đã
truyền cho các Ngôn sứ không những phải nói lời của Người
cho Dân mà còn phải ghi lại những thánh chỉ của Người cho
hậu thế như ngôn sứ Isaia cho biết rõ như sau::
“Bấy giờ trước mặt chúng
Ngươi hãy viết điều ấy trên một tấm bảng và ghi vào hồ sơ
Để lưu lại mai sau làm bằng chứng đến muôn đời.” ( Is 30:8)
Liên quan đến tệ trạng “hôn
nhân đồng tính
(same sex marriage) đang được đòi hỏi và đã được cho phép ở
một vài tiểu bang Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới, Thiên Chúa
đã phán từ ngàn xưa với ngôn sứ Giê-rê-mia như sau
:
Đức Chúa phán thế này :
“chúng tôi đã nghe tiếng kinh hãi
Báo hiệu khiếp đảm chứ không phải bình an
Cứ hỏi mà xem : có đàn ông nào đẻ con không?"
( Gr 30 : 5-6)
Vậy tạo sao lại cho hai đàn ông hoặc hai đàn bà kết hôn như
người ta đang làm hiện nay ở Mỹ, Anh, Canada…? Thật là điều kinh
tởm cho con người ngày nay sống trái với
luật thiên nhiên , trái với trật tự mà Thiên Chúa đã qui định từ
đầu khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho ho
:
“
hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đát và thống trị mặt
đất.( St 1: 28)
Như vậy, cho hai đàn ông hay hai đàn bà lấy nhau thì làm sao
sinh sản, hỡi những kẻ mê muội đang nhắm mắt chiều theo đòi hỏi
của những người bệnh hoạn tâm sinh lý kia
???Họ
bệnh hoạn thì mặc kệ cho họ sống, không cần phải hợp thức hóa
cho họ vì làm như thế là đảo lộn trật tự và mục đích của hôn
nhân trong xã hội loài người.
Trên đây là một vài thí dụ minh chứng sự kiên Chúa đã tỏ mình
hay tự mạc khải mình cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Các
Ngôn sứ lớn nhỏ là những phát ngôn viên của Thiên Chúa trong sứ
mệnh truyền lại cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ biết và thi
hành để được chúc phúc và tránh phải phạt. Các ngôn sứ cũng cầu
khẩn Chúa thay cho dân để xin Nguời tha thứ mọi lầm lỗi của họ
như ông
Mô-sê đã làm khi dân Do Thái còn sống lưu đầy trong sa mạc, sau
khi từ Ai Cập trở về :
“Vậy
xin Ngài tha thứ lỗi lầm cho dân này theo lượng cả ân nghĩa của
Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai Cập cho đến đây.”
(
Ds 14: 19)
Nhờ lời van xin tha thiết của ông Mô-sê thay cho dân mà Thiên
Chúa đã nguôi cơn thịnh nộ định giáng xuống trên dân ngỗ nghịch
đó khi Ngài phán với ông
:
“Ta tha thứ như lời ngươi xin.” ( Ds 14: 20)
Một thí dụ nữa về việc các ngôn sứ cầu xin Thiên Chúa thay cho
dân. Đó là trường hợp con cái Israel nói với ông Samuel: “
xin ông chớ ngưng cầu kêu lên Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi để
xin Người cứu chúng tôi khỏi tay người Philitinh.”
( 1 Sm 7: 8)
Ông Samuel đã dâng lễ toàn thiêu và cầu xin thay cho dân theo
lời van xin của họ, và họ đã đánh bại quân Philitinh.
( cf. Sm 7: 9-11)
4- Qua
Chúa Giêsu-Kitô:
Sau hết, ngoài những phương thế trên đây, đến thời sau cùng,
Thiên Chúa đã tỏ mình cách đẩy đủ nhất cho nhân loại qua chính
Con Một Người là Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đã sinh
xuống trần gian làm Con Người để thi hành Chương Trình Cứu Độ
loài người đáng bị phạt vì tội lỗi như ta đọc thấy trong Thư Do
Thái sau đây:
“ Thủa xưa , nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha
ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người
mà dựng nên vũ trụ và đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật
muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung
thực của bản thể Thiên Chúa.”
( Dt 1 : 1-3)1
Là hình ảnh hay hiện thân trung thực nhất của Chúa Cha, nên
Chúa Giêsu đã trả lời môn đệ Philiphê như sau
:
“Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha
Sao anh lại nói : xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha.?” ( Ga 14:
9)
Hoặc rõ hơn nữa:
“Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy
Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
( Ga 14:7)
Là hiện thân của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã mạc khải trọn vẹn
những gì Chúa Cha muốn nói với con người qua những lời giảng dạy
trong suốt 3 năm Người đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nghĩa là :
trong và qua Chúa Giêsu-Kitô, Thiên Chúa Cha đã mặc khải trọn
vẹn thánh ý của Người cho nhân loại, và không còn nguồn mạc khải
nào lớn và đầy đủ hơn nữa cho ai ngoài Chúa Kitô, Ngôi Lời
Nhập Thể. Do đó, ai nghe Chúa Kitô là nghe Chúa Cha, ai biết và
đón nhận Chúa Con thì cũng biết và đón nhận Chúa Cha như Chúa
Giêsu đã nói thêm với các môn đệ xưa như sau
:
“ Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai khước từ anh em là khước từ
Thầy;
Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” ( Lc 10: 16)
Như thế, các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô cũng được ơn mạc khải
của Thiên Chúa để dạy dỗ trung thực , không sai lầm những gì các
ngài đã nghe từ Chúa Giêsu-Kitô và lưu truyền lại cho các người
kế vị là các Giám mục trong Giáo Hội của Chúa
cho đến ngày nay và mãi về sau.Do đó, nghe Giáo Hội là nghe các
Thánh Tông Đồ và nghe các ngài là nghe chính Chúa Kitô, Ngôi
Lời nhập thể, hiện thân của Chúa Cha.
Tóm lại, Thiên Chúa đã tự mạc khải hay tỏ mình ra cho con người
từ thời Cựu Ước qua các sứ ngôn đến Tân Ước, đặc biệt là qua
chính Chúa Kitô, để con người biết Thiên Chúa là Đấng đầy yêu
thương,
“
Người có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương
suốt cả đời.” ( Tv 30(29) : 6).
Nói khác đi, chúng ta biết được Thiên Chúa là Cha nhân từ, quá
yêu thương và hay tha thứ là nhờ ơn mạc khải mà Thiên Chúa đã
tỏ mình trọn vẹn qua Chúa Giêsu-Kitô, Đấng Cứu Thế, đã đến trần
gian làm Con Người để thi hành Chương Trình Cứu độ nhân loại của
Chúa Cha. Do đó, ai tin và thực hành những lời giảng dạy của
Chúa Kitô thì cũng tin va thực hành thánh ý của Chúa Cha để được
sống hạnh phúc muôn đời với Chúa trên Nước Trời như Chúa Giêsu
đã nói rõ với các môn đệ Người như sau:
“Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa,! lậy Chúa ! là được vào
nước trời cả đâu; mà chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng
ngự trên trời mới được vào mà thôi.”
( Mt 7: 21)
Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa đã cho chúng ta biết Người là Cha
cực tốt cực lành,
Và cầu xin cho những người chưa biết Chúa được nhận biết Ngài
là Đấng duy nhất đã vì yêu thương mà tạo dựng con người cùng
mọi loài mọi vật, và quan trọng hơn hết, là
“Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”
(1 Tm 2 : 8)
để hưởng hạnh phúc Thiên Đàng
sau khi chấm dứt hành trình đức tin trên dương thế này.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn -3)xi |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT VỊ THIÊN CHÚA
NGỎ LỜI ? |
Tác Phẩm: MỘT VỊ
THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ
mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à
l’homme?
Lời giới thiệu
của nhà xuất bản "Les Editions du Cerf" (trang bìa 4).
Trên mỗi trang Sách Thánh, đặc biệt Cựu Ước, người ta có thể đọc:
"Chúa nói với Áp-ra-ham",
"Chúa nói với Mô-sê",
"Sấm ngôn của Đức Chúa",
chẳng khác gì Chúa đàm đạo thân mật với con người. Đã quá quen thuộc với kiểu
nói này, chúng ta không còn lưu ý đến những gì có thể là khác thường. Thật ra
những kiểu nói như thể gây nên nhiều vấn nạn. Bởi vì không một ai có thể thấy
Thiên Chúa! Thiên Chúa không có miệng lưỡi! Làm sao Người có thể nói với loài
người?
Liệu các tác giả của Kinh Thánh có dám quyết rằng Áp-ra-ham,
Mô-sê hay các ngôn sứ đã nghe được tiếng nói của Người, giữa Bụi Gai cháy sáng,
trên núi, trong giông bão hay trong cơn gió thoảng nhẹ? Những người này có viết
theo những gì Chúa đọc cho viết? Con người của ngày hôm nay có ấn tượng là Chúa
không quá "lắm" lời! Liệu chúng ta không đối mặt với một trò lừa đảo hay đơn
thuần một ảo tưởng của con người đứng trước nỗi cô đơn của kiếp vận phải chết,
tự tạo cho mình một đồng minh giả tưởng rồi chính mình nêu lên những vấn nạn và
những giải đáp? Phải chăng từ nghìn năm trước người ta đã không "bắt" Thiên Chúa
"nói", ngay cả khuyến khích con người thực hiện chiến tranh và diệt trừ kẻ thù
của mình, vịn cớ là để tôn vinh Thiên Chúa!
Do vậy Thiên Chúa có thể nói, ngỏ lời với con người thế nào? Con
người có thể tiếp xúc với Người thế nào? Làm sao sự siêu việt thần thánh của
Người, sự "Vô thủy vô chung" của Người có thể gặp gỡ sự "có cùng" của loài người
chúng ta? Người ngỏ lời với chúng ta bằng thứ ngôn ngữ nào? Ngày nay Người còn
nói với chúng ta thế nào? Tất cả vấn đề về Mạc Khải và nền tảng của Do thái–Kitô
giáo được nêu lên như thế. Và cách thế chúng ta trả lời cho vấn đề này một phần
điều động cách thế chúng ta đọc Kinh Thánh (theo chủ thuyết cơ yếu, hay chủ
thuyết văn tự), cách thế chúng ta quan niệm về Thiên Chúa (theo chủ thuyết quan
phòng, hay chủ thuyết can thiệp), và cách thế chúng ta hiểu Thiên Chúa còn nói
với chúng ta hôm nay như thế nào. Qua những trang sách này "MỘT VỊ THIÊN CHÚA
NGỎ LỜI" – THIÊN CHÚA TỰ MẠC KHẢI MÌNH CHO CON NGƯỜI THẾ NÀO", cha Michel
Hubaut sẽ trả lời rất thỏa đáng cho những vấn nạn trên đây.
Cha Michel Hubaut thuộc dòng Phanxicô, là nhà thần học, giảng
thuyết và linh hoạt viên của các cuộc tĩnh tâm, huấn luyện. Cha là tác giả nhiều
đầu sách .
Chương 1: MỘT VỊ THIÊN
CHÚA NGỎ LỜI ?
Linh hứng và tính cách
lịch sử của “Lời”
Ngay từ nhỏ, mỗi khi nghe các tín hữu nói
đến “Lời Chúa” đã làm tôi phải suy nghĩ. Và sau này khi mới bắt
đầu đọc Sách Thánh, tôi vẫn luôn đặt vấn đề với những kiểu nói:
“Thiên Chúa phán bảo Áp-ra-ham”, “Thiên Chúa phán bảo Mô-sê”,
“Sấm ngôn của Đức Chúa” …! Hầu như “phán bảo” chính là một
trong những đặc tính của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, nếu so
sánh với với các tượng thần khác: “Có mắt có miệng, không nhìn
không nói” (Tv 115, 5-7; Br 6,
7).
Tôi tự hỏi: Thiên Chúa, chẳng ai được thấy
Người! Làm sao Người có thể phán bảo hay nói với con người được?
Làm sao người ta dám nói: “Thiên Chúa nói với tôi thế này thế
kia?” Tôi xem đó như một sự dối trá, hay đúng hơn chỉ là một ảo
tưởng của con người, trong sự cô đơn của bản tính hay chết, đã
sáng chế ra một đối tác thần thiêng trong tưởng tượng, rồi tạo
ra những vấn nạn và những giải đáp.
“Lời Chúa!” Chúng ta đã quá quen thuộc với
kiểu nói này, đến nỗi không còn nhận ra cái lạ lùng của nó! Mặc
dù theo kinh nghiệm chung, thường chính là sự im lặng của Thiên
Chúa. Giữa khung cảnh hỗn độn của tiếng nói và âm thanh trong
thế giới hiện đại của chúng ta, Thiên Chúa hầu như không “lắm
lời”!
Vậy các tác giả Sách Thánh muốn nói gì khi
rất thường xuyên dùng kiểu nói “Lời Chúa”? Vì một dân thờ độc
thần cách hết sức khắt khe, với khái niệm tuyệt đối về sự siêu
việt của Thiên Chúa, họ thừa biết rằng Đức Chúa không có miệng
như con người, và con người không ai dám nói rằng đã thấy mặt
Chúa. Vậy làm sao tác giả Kinh Thánh dám viết: “Đức Chúa đàm
đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau”
(Xh 33, 11).
Họ muốn gì khi dùng những cách nói: “Đức
Chúa phán bảo Áp-ra-ham!”, “Đức Chúa phán bảo
Mô-sê!”, giống như Thiên Chúa nói chuyện cách thân tình với con
người? Phải chăng họ cho rằng Áp-ra-ham, Mô-sê hay Ê-li-a đã
“nghe tiếng Chúa”, trong bụi cây rực lửa, trên núi, trong cơn
giông hay trong ngọn gió hiu hiu? Những người viết Sách Thánh,
phải chăng đã viết theo lời Chúa đọc, giống như Ma-hô-mét nhận
kinh Co-ran?
Thiên Chúa nói với con người thế nào? Người
giao tiếp với con người thế nào? Làm sao Đấng Vô Cùng có thể gặp
sự “có cùng” của con người? Người nói bằng ngôn ngữ nào? Nhiều
người đã chẳng có xu hướng “làm cho các thần thánh của họ nói”
bằng chính những lời lẽ của họ đó sao? Hàng ngàn năm nay, người
ta đã chẳng làm cho Chúa nói, ngay cả để xúi giục con người lâm
chiến, tàn sát kẻ thù, vì “vinh quang cao cả” của Chúa đó sao!
Đó là cả một vấn đề về Mạc Khải được
đặt ra ở đây: nó cũng là vấn đề nền tảng của Do-thái-Ki-tô-giáo.
Và cách chúng ta trả lời cho những câu hỏi trên kia, một phần
nào đó, sẽ ảnh hưởng đến cách đọc Kinh Thánh của chúng ta
(theo chủ thuyết cơ bản hay lệ thuộc vào từ chương), và cả
quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa (Thiên Chúa của thiên
mệnh hay Thiên Chúa can thiệp vào mọi sự).
Thật ra, môn học về ngôn ngữ Do-thái giúp
chúng ta hiểu rằng hạn từ “lời” thực sự không có cùng một
ý nghĩa đối với người Do-thái như đối với người Âu Châu. Với
người Do-thái, cụm từ “Lời của Chúa” không phải là một “cuộc trò
chuyện”. Từ dâvar trong tiếng Do-thái mà ta dịch là “lời”
có rất nhiều nghĩa: một câu chuyện, biến cố đã xảy ra hay
một tường thuật. Hiểu như thế thì Xuất Hành là một Lời
Chúa. Lưu đày cũng là một Lời Chúa.
Trong Tin Mừng Lu-ca, ta có thể đọc:
“Khi các thiên sứ từ biệt mục đồng để về trời, các bạn mục đồng
bàn nhau: “Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra,
như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”, - theo nguyên ngữ: “như
lời đã được thực hiện”
(Lc, 2, 15, cũng xem Lc 1, 65; Cv
10, 22. 37.
Và tiếp sau đó: “Còn bà Ma-ri-a, thì
hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”,
- theo nguyên ngữ: “…ghi
nhớ những lời ấy và tìm hiểu ý nghĩa trong lòng”
(Lc 2, 19).
Khái niệm về “Lời” trong ngôn ngữ Do-thái
thật khác xa với tâm thức Hy lạp & La mã của chúng ta, thường
chỉ xem “lời” như một âm được phát ra thành tiếng, một tiếng
nói, lời nói.
Lời Chúa phát sinh từ
các biến cố và từ lòng người
Trong Sách Thánh, Lời Chúa không từ trời
vọng xuống. Nếu, một cách nào đó, người ta có thể nói là Thiên
Chúa tỏ mình, Thiên Chúa “nói” qua vật thụ tạo của Người … thì
cũng chính trong những biến cố đã xảy ra mà Lời Chúa được
phát sinh. Lời Chúa được cấu tạo từ từ. Trong lịch sử Kinh
Thánh, Thiên Chúa tỏ mình qua những biến cố lịch sử và qua lòng
dạ con người. Chính vì vậy mà tôi luôn do dự khi giới thiệu Kinh
Thánh như “Lời của Chúa”! Tôi thích nói Sách Thánh là lời của
nhiều người mà qua đó chúng dần dần diễn tả một Lời, một sứ điệp
của Thiên Chúa.
Thiên Chúa tỏ mình qua những biến cố mà
những người được Thần Khí Chúa linh hứng, sẽ giải thích để loan
truyền một sứ điệp, một Lời của Chúa. Lời và linh hứng
là như những chìa khóa để hiểu ý nghĩa trong Kinh Thánh về Lời
Chúa. Ngay từ bài tường thuật đầu tiên trong sách Sáng Thế, Lời
Chúa đã luôn kết hợp với “hơi thở” của Chúa, với Thần Khí
(ruah). Ở đâu phát sinh ra Lời, thì ở đó Thần Khí cũng thổi
hơi.
“Muôn loài Ngài dựng nên, phải phụng thờ
Ngài! Ngài phán, chúng liền xuất hiện. Ngài gửi sinh khí
tới, chúng được tác thành. Tiếng Ngài phán ra nào ai
chống nổi”!
(Gđt 16, 14).
Và khi Lời Chúa nhập thể nơi Đức Giê-su,
Ngôi Lời, là với tất cả sức mạnh sáng tạo của Thánh Linh. Lời
của Người sẽ là “Thần Khí và Sự Sống”.
Qua dòng lịch sử thăng trầm của dân tộc
tuyển chọn, Thiên Chúa thôi thúc nhiều vị trung gian,
được tác động cách đặc biệt bởi Thần Khí Người, như
Áp-ra-ham, Mô-sê, các ngôn sứ, các nhà khôn ngoan, hiền triết…
họ đã diễn giải ý nghĩa sâu xa những biến cố lịch sử của dân và
thẩm định một sự hiện diện sinh động của Thiên Chúa.
Những biến cố kia trở thành những Lời của Chúa, những sứ
điệp dễ hiểu để chuyển đạt tới toàn thể dân chúng.
Thiên Chúa tỏ mình dần
dần theo nhịp tiến của lịch sử con người
Ít-ra-en là một dân tộc đã từ từ khám phá
ra, qua những biến cố lịch sử bi hùng của mình, một vị Thiên
Chúa luôn yêu thương, quan tâm đến vận mệnh của họ và không
ngừng mời gọi họ đi vào tương quan, mà Sách Thánh gọi là Giao
Ước với Người, để được hướng dẫn và giải thóat. Tóm lại,
Người là một vị Thiên Chúa thốt lên “lời”, tự tỏ mình
trong mọi tác động. Qua một chuỗi những biến-cố-lời,
Thiên Chúa vén mở từng tí một, kế hoạch yêu thương của Người, về
vận mệnh và cùng đích lịch sử của con người. Điều này
giải thích tại sao trong Kinh Thánh toàn là những câu chuyện đầy
chất “người”, từ việc cưới hỏi, chiến tranh, nổi loạn, tình yêu
ngang trái, phản nghịch. Tất cả những gì kết dệt nên cuộc sống
thường ngày của con người, đều là nơi Mạc Khải, là Lời của
Chúa. Lời này không phải là một thông tin về Thiên
Chúa chỉ cốt thoả mãn tính hiếu kỳ thuần tuý về mặt kiến thức,
nhưng là một Mạc Khải bằng hành động của Người.
Con người trong Kinh Thánh khám phá ra mầu
nhiệm Thiên Chúa qua những gì Người đã thực hiện cho loài
người. Trước câu hỏi: “Thiên Chúa là ai?”, trẻ em Do-thái sẽ
không trả lời như trong sách giáo lý cũ xưa của chúng ta: “Thiên
Chúa là Đấng thiêng liêng, trọn tốt trọn lành, ở khắp mọi nơi…”,
nhưng: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi là Đấng đã đưa
chúng tôi ra khỏi Ai-Cập” .
Kinh Thánh luôn liên quan mật thiết với
tôi, vì đó là một cách ưu tiên, một cuốn “sách của sự Gặp Gỡ”.
Trong đó tôi khám phá biết được Thiên Chúa nói với con người
như thế nào, Thiên Chúa nói với tôi ngày nay ra sao.
Tôi đọc Kinh Thánh, vì trong đó tôi khám phá ra chính mầu nhiệm
đức tin của tôi. Để sống ngày hôm nay của Chúa, tôi phải khám
phá ra ngày hôm nay của Kinh Thánh.
Cùng với việc “linh hứng”, chúng ta phải
thêm ngay chìa khóa thứ hai để hiểu Lời Chúa trong Sách Thánh,
đó là “lịch sử tính”. Ta nói rằng Kinh Thánh được “linh hứng” vì
chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho các tác giả
Kinh Thánh, nhưng vẫn tôn trọng văn hóa, cách diễn tả, và nhất
là bước tiến chậm chạp của họ về mặt tâm linh.
Mạc Khải không từ trời rơi xuống. Không có
“đường giây nóng” giữa trời và đất để Thiên Chúa đọc cho chúng
ta những chân lý có sẵn. Mạc Khải là kết quả của một cuộc đối
thoại. Kinh Thánh là một thực tập đối thoại giữa Thiên Chúa và
con người, nó tùy thuộc vào con người chúng ta, cũng như một bà
mẹ dạy dỗ con, bà phải bập bẹ theo ngôn từ của con mình. Thánh
Phao-lô nói: luật Mô-sê chính là môn sư phạm cần thiết để dân
Chúa tiến bước đến với Mạc Khải tối hậu nơi Đức Ki-tô, Lời Thiên
Chúa nhập thể.
Qua bao thế kỷ, Đức Chúa của Ít-ra-en đã
được xem là Thiên Chúa của tổ tiên toàn thể chi tộc: là Thiên
Chúa của Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp. Một Thiên Chúa thường tỏ
ra rất thiện chiến, dành quyền định đoạt cho những chiến thắng
hay chiến bại của dân, lên án hay tiêu diệt kẻ thù, kể cả người
già lão, thiếu phụ và trẻ em! Điều đó làm ta khó chấp nhận, bởi
vì có sự cách biệt quá lớn về thời gian, chúng ta đọc Kinh
Thánh, bằng tâm thức của con người trong thế giới hiện đại của
chúng ta ngày nay, những sự kiện đã xảy ra vào thời điểm của hơn
hai mươi thế kỷ trước chúng ta!
Đây là cả vấn đề “lịch-sử-tính” của Lời
Chúa. Thiên Chúa là một nhà mô phạm luôn kiên nhẫn, tôn trọng
từng bước đi của con người. Chính qua lịch sử của họ mà con
người, kể cả con người trong Kinh Thánh, dần dần thanh tẩy quan
niệm của họ về Thiên Chúa và cách nhận biết hành động của Người
trong đời mình. Ta có thể nói rằng Kinh Thánh vừa là Lời của
Chúa vừa là lời của con người.
Lời Chúa không phải là một mớ những chân lý
có sẵn, từ trời rơi xuống, một “kho chứa”, một truyền thống khô
cứng, được bảo tồn cách tôn nghiêm và được lặp lại cách trung
thành. Nhưng trong Sách Thánh, Lời Chúa là một cuộc khám phá từ
từ ra một Thiên Chúa sống động, tự tỏ mình theo nhịp bước của
lịch sử. Người để cho Lời của Người nẩy sinh nơi từng chuỗi biến
cố, trong con tim, trong ngôn ngữ con người, như chúng có thể
cảm nghiệm, có thể nói lên được. Chính điều này minh chứng rằng
“Lời” luôn sinh động, luôn được cưu mang.
Kinh Thánh, một truyền
thống sống động của lịch sử một dân tộc
Bạn có thể nói: Sách Thánh phức tạp quá! Mà
đúng vậy, người ta có thể cảm thấy bị mất hút trong tất cả những
cuốn sách, to, nhỏ, lại chẳng theo một thứ tự nào, mà từ lối
hành văn đến ngôn từ, dường như quá xa cách với văn hóa, với
những âu lo bận rộn của chúng ta hiện nay.
Ta nên nhớ rằng Sách Thánh, trong nhiều thế
kỷ trước kia, đầu tiên đã chỉ là một truyền thống “truyền khẩu”
rộng rãi trong dân gian. Giữa thời kỳ di dân của Áp-ra-ham
(khoảng năm 1850 tr. CN), thời kỳ Xuất Hành với Mô-sê (khoảng
năm 1250 tr. CN), và những văn bản đầu tiên được ghi chép dưới
triều đại Đa-vít và Sa-lô-môn (khoảng năm 900 tr. CN), ta thấy
tất cả có hơn tám thế kỷ truyền khẩu! Nói cách khác, một biến cố
như việc Xuất Hành ra khỏi Ai-Cập, đã chỉ được ghi chép lại sau
350 năm truyền khẩu!
Là một dân du mục, các chi họ Do-thái thời
ấy không có sách vở, cũng chẳng có đất đai cố định. Nhưng chỉ có
một điều là họ đã không hề bị “quá tải” về những tin tức, để
thường xuyên sống khép kín trong những tin tức thời sự hàng ngày
như chúng ta hôm nay! Trái lại, họ đã có một “bộ nhớ” cộng đồng
rất sống động, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia. Chiều
đến, xum họp trong lều trại gia đình, hoặc quây quần chung quanh
đống lửa cộng đoàn, những “người thuật chuyện” thường hâm nóng
“bộ nhớ cộng đồng” bởi tài tường thuật những biến cố lịch sử dân
tộc, với tất cả tình tiết, đặc biệt theo âm điệu nhịp nhàng của
nó.
Một cách nào đó, việc sáng chế ra ngành in
ấn đã hủy hoại đi “bộ nhớ vĩ đại” của tổ tiên chúng ta, nó đã có
khả năng lưu truyền cách trung thực, qua nhiều thế hệ, biết bao
bài tường thuật, biết bao vần thơ, điệu hát. Cứ như thế, mỗi chi
tộc lưu truyền mọi kỷ niệm của nguồn gốc, của từng biến cố quan
trọng, vui buồn đã kết dệt thành lịch sử dân tộc cùng với tổ
tiên họ. Mọi biến cố đều được kể lại, được diễn giải và hiện
thực hóa không ngừng.
Không chỉ có một, nhưng rất nhiều truyền
thống “truyền khẩu”. Theo dòng thời gian và lịch sử của những
người du mục này, nhiều chi họ khác nhau qui tụ lại và thành lập
những cam kết mới, nên họ đã phải “tùy cơ ứng biến” mà sắp xếp
lại hoặc thêm vào những tường thuật các biến cố liên quan đến
toàn thể bộ tộc nới rộng! Tuy vẫn giữ tên tuổi các tổ tiên cũng
như những biến cố quan trọng của toàn dân (dân Ít-ra-en đã chưa
bao giờ được thống nhất hoàn toàn, vì thế họ cũng sẽ chẳng bao
giờ chịu đóng khung trong một truyền thống duy nhất!).
Thế nên, khi các ký lục thời vua Đa-vít và
Sa-lô-môn bắt đầu soạn thảo và ghi chép những tường thuật
“truyền khẩu” kia thành văn bản, họ đã thu thập cả những chuyện
kể đang lưu truyền trong các bộ tộc miền Bắc cũng như miền Nam.
Và nhất là theo ánh sáng của niềm tin vào một Thiên Chúa duy
nhất (thuyết “độc thần” đã dần dần được hình thành với thời
gian), dưới sự linh hứng của Thần Khí, các ký lục đã cảm nhận
được tác động của Thiên Chúa qua những biến cố kia. Một vị Thiên
Chúa đã có sáng kiến tự tỏ mình, tự thông truyền, để đi vào
tương quan với con người.
Sách Thánh, vì thế, không là tác phẩm của
ông A, B hay C tự tay viết một lúc, nhưng là một cuốn sách vĩ
đại của “toàn thể bộ nhớ”, của truyền thống sống động của cả một
dân tộc, có thể nói đó thực sự là cả một “thư viện”, trong đó có
những gia phả, lẫn lộn với những tường thuật về các kỷ niệm
riêng của nhiều bộ tộc, về những cuộc giao tranh, những thắng
bại, những ganh đua tranh chấp, những hy vọng cũng như thất vọng
của dân tộc mình. Chúng là sản phẩm của rất nhiều người, đa số
là vô danh. Hầu như toàn dân đều cùng ghi lại những gì họ đã
trải qua, để nói lên quan niệm của họ về Thiên Chúa, ý nghĩa mà
họ đã gán cho lịch sử của riêng mình và của toàn dân. Cứ thế,
mỗi thế hệ lại thêm thắt, chỉnh sửa những văn bản thời trước,
bằng cách thêm vào những gì họ vừa trải nghiệm. Cái di sản khổng
lồ này luôn được đọc đi đọc lại, khiến nó có khả năng đối chiếu
với niềm tin, với những xác tín của họ, trước những tình huống
mới của cuộc đời và trước những nền văn hóa của mọi dân tộc
khác.
Một dân tộc gương mẫu,
một dân tộc rạng ngời
Nhưng chắc bạn sẽ hỏi tại sao lại ưu tiên
chọn lịch sử dân này thay vì một dân tộc khác? Đúng là Thiên
Chúa không thiên vị, và Thần Khí Người linh hứng trong tâm hồn
mọi người. Có biết bao nền văn minh, có vô số sự khôn ngoan,
hiền triết, tín ngưỡng khác nhau, minh chứng cho sự tìm kiếm ý
nghĩa nơi con người đều được thôi thúc bởi Thần Khí. Nhưng Thiên
Chúa, với sự tự do cao cả của Người, đã chọn một dân tộc du mục
bé nhỏ này, làm nơi ưu tiên để từ từ vén mở căn tính và kế hoạch
yêu thương của Người cho nhân loại. Cuộc đối thoại ưu tiên kia
đã khiến cho dân tộc nhỏ bé này thành một dân tộc gương mẫu, một
dân tộc rạng ngời. Qua dân tộc này, chính là toàn thể nhân loại
đã được mời gọi đi vào cuộc đối thoại của tình yêu thương với
Thiên Chúa duy nhất.
Ngay từ khi cuộc đối thoại khởi đầu trong
lịch sử, với Áp-ra-ham, nó đã liên quan đến mọi người rồi:
“Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”
(St 12,
3). Thế nên,
tôi đọc Sách Thánh, vì những trang sử dài của dân tộc này, là
một lịch sử liên quan đến tôi và toàn thể nhân loại. Chính vì lý
do này mà, đối với mỗi người chúng ta, Kinh Thánh vẫn luôn mãi
còn là Lời Chúa.
Một “Lời” vẫn luôn còn
là hiện thực
Thiên Chúa có còn nói với chúng ta hôm nay
không? Đây mới là một câu hỏi quan trọng! Vì nếu ngày nay Người
không nói với chúng ta nữa, thì việc Người nói trong quá khứ nào
có gì quan trọng! Tác giả Kinh Thánh đã không ngần ngại viết
rằng Lời Chúa không ngoài tầm tay của ta: “Nhưng Lời ở gần kề
bên bạn, nó ở trong miệng, trong tim bạn, để bạn đem nó ra thực
hành”
(Đnl 30, 13-14).
Ta đã thấy rằng Sách Thánh là một sự đọc
lại không ngừng những biến cố nền tảng của dân tộc được tuyển
chọn. Văn liệu Talmud ngày nay của các giáo trưởng Do-thái vẫn
còn tiếp tục kiểu “đọc lại” này. Việc hiện thực hóa Lời Chúa
kiểu này có tầm quan trọng đặc biệt, đến nỗi các giáo trưởng gọi
đó là “Luật truyền khẩu” của họ.
Chính Chúa Thánh Thần, qua dòng thời gian,
cũng linh hoạt Giáo Hội và các tín hữu, làm họ có khả năng đọc,
diễn giải và hiện thực hóa các sách Kinh Thánh như thế, nhưng
nhất là biến cố Đức Ki-tô Giê-su. Thần Khí Thiên Chúa còn tiếp
tục đi xuống chiều sâu của con người. Người linh hứng cho các
tác giả Sách Thánh, và cũng chính Người, ngày hôm nay giúp chúng
ta đọc lại lịch sử đời mình và lịch sử dân Chúa, như những nơi
ưu tiên để “Người nói”.
Trong cuộc sống của mỗi tín hữu và của Giáo
Hội, luôn có những biến cố mới, phát sinh và kéo theo nhu cầu
cho sự cảm thông, cho sự giải thích Kinh Thánh một cách mới mẻ.
Mỗi thế hệ, ki-tô hữu chúng ta đều được mời gọi để hiện thực hóa
Tin Mừng, mà xưa kia đã không đề cập đến những vấn đề của thời
hiện đại, như thụ thai trong ống nghiệm, gây chết êm dịu, qui
chế của mạng viễn thông…
Vì nếu Lời Chúa đem đến cho đời ta một ý
nghĩa, một hướng đi cho lịch sử, thì nó cũng cho phép chúng ta
minh định những ứng dụng mới. Lời Chúa và những biến cố lịch sử
làm giầu lẫn cho nhau. Lời Chúa soi sáng cho lịch sử, còn lịch
sử giúp con người đào sâu ý nghĩa Lời Chúa. Sự hỗ trợ song
phương nòng cốt này được Thần Khí Chúa hướng dẫn và đảm bảo cho
sự liên tục và hoà hợp với Mạc Khải về căn tính con người và
cùng đích của lịch sử.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều kết
dệt bằng những biến cố: hạnh phúc, bất hạnh, gặp gỡ, tranh chấp,
vui vẻ, thử thách, dự án với thất bại… Và rất thường khi chỉ một
thời gian dài, sau khi biến cố xảy ra, dù quan trọng hay bề
ngoài xem như vô nghĩa, mà mỗi người mới nhận ra rằng những biến
cố kia, thật sự mang tính quyết định cho những ngày còn lại của
đời mình. Được Thần Khí Chúa soi sáng, ta có thể cảm nhận được,
trong chính những biến cố ấy, một sự Hiện Diện đã đem đến cho
những khúc quanh của đời ta một ý nghĩa. Niềm tin chính là “ánh
sáng nội tâm” đã vén mở ra ý nghĩa chân thật cho những gì chúng
ta đã sống, nó chiếu sáng trên hiện tại và soi dẫn tương lai của
ta. Tất cả những điều này có thể trở thành “Lời Chúa” cho mỗi
người.
Vì nếu trong Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa
đã tỏ lộ điều chính yếu trong kế hoạch yêu thương của
Người, thì chúng ta cũng phải nhập cuộc để không ngừng hiện thực
hóa, Lời mà Người đã tỏ lộ cho chúng ta, theo dòng lịch sử.
Thánh Linh Chúa giúp Giáo Hội, và các tín hữu đọc Sách Thánh, để
luôn làm nảy sinh từ đó một Lời hiện thực. Một thí dụ cụ thể:
con người chúng ta đã phải đợi biết bao thế kỷ để hiểu được rằng
tình-bằng-hữu mà Thầy Giê-su mời gọi mỗi người ki-tô hữu chúng
ta, đòi hỏi phải bãi bỏ chế độ nô lệ!
Quả thật Kinh Thánh là một nguồn linh hứng
vô tận. Cách đọc và hiểu Sách Thánh thay đổi, vì điều kiện sống
và lương tâm con người không ngừng thay đổi, tiến hóa. Ta chẳng
bao giờ có thể kết thúc việc đọc, tìm hiểu và đào sâu Kinh
Thánh, để kín múc từ đó những luồng sáng mới. Thường xuyên đọc
Sách Thánh sẽ giúp ta ý thức hơn sự Hiện Diện của Thiên Chúa
trong mọi biến cố đời mình để qua đó nhìn ra tác động của Người
trong thế giới.
Vào buổi đầu của Giáo Hội, chính Thánh Linh
Chúa thúc đẩy những tín hữu tiên khởi và các Giáo Phụ đọc các
Ngôn Sứ theo ánh sáng Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô. Cả Thầy Giê-su
cũng thế, sau biến cố Vượt Qua, khi gặp các môn đệ trên đường về
Em-mau: “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các Ngôn Sứ,
Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong
tất cả Sách Thánh”
(Lc 24, 27).
Bám rễ sâu trong thái độ nghe trân trọng
những khát vọng và những vết thương của con người thời đại,
chúng ta không phải nói nhiều về Thiên Chúa, cho bằng nói “Lời
Chúa” cho họ. Chúng ta được mời gọi, bằng trọn cuộc sống của
mình, làm cho mọi người phát hiện ra rằng Lời Chúa là nguồn sáng
và thẩm định, giúp con người thực hiện công việc Nhân tính
hóa và Thiên tính hóa con người cách trọn hảo nhất.
Lời Chúa còn là Lời sáng tạo. “Mỗi ngày
Thiên Chúa vẫn tác tạo nên tôi bằng chính bản thân tôi”,
Emmanuel Mounier đã phải thú nhận như thế. Đón nhận, nghiền ngẫm
và cầu nguyện Lời Chúa, là để mình được yêu thương, uốn nắn tùy
theo cường độ tình yêu của Người.
Từ Công Đồng Va-ti-ca-nô II, các tín hữu đã
ý thức hơn rằng Thiên Chúa không chỉ nói qua văn bản Sách Thánh,
nhưng còn qua “mọi biến cố, với những lời nói liên quan mật
thiết với chúng nữa”.
Công Đồng còn yêu cầu các tín hữu là những người được Thần Linh
Chúa ngự trị cần nên rất mực thận trọng chú ý đến những “dấu chỉ
thời đại”, vì nó có thể là Lời Chúa cho chúng ta ngày nay.
Những điều kiện để thẩm định, trong những
biến cố hay cuộc sống của các ngôn sứ hôm nay, đích thực cũng là
một “Lời Chúa” như đối với các ngôn sứ và mọi nhân vật khác
trong Sách Thánh xưa kia. Một niềm tin biết lắng nghe, sẵn sàng
cởi mở cho Thần Khí Chúa, để “nhìn một cách khác” cuộc sống cá
nhân hay cộng đoàn. Tín hữu không thể sống niềm tin của mình mà
không học biết thẩm định sự Hiện Diện sinh động như “tiếng nói”
của Thiên Chúa, tận chiều sâu cuộc sống hằng ngày của mình cũng
như của cộng đoàn. Sứ vụ đầu tiên của Giáo Hội phải là một dân
tộc biết lắng nghe, biết chấp nhận để Lời Chúa thúc giục. Sự đổi
mới và phong phú của các cộng đoàn tín hữu tùy thuộc vào mức độ
hướng mở đến với Thần Khí Chúa, chiêm ngắm, nghiền ngẫm, sống và
hiện thực hóa Lời Người.
Chỉ có thái độ cùng-nhau-lắng-nghe Lời
Chúa, mới cho chúng ta sự táo bạo để bắt tay vào một công việc
mênh mông là hội-nhập-văn-hóa, để dám nói “một cách khác” về
Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội, Ơn Cứu Độ, các bí
tích… trong sự hài hoà với những gì mà di sản của Tổ Tiên để lại
cho chúng ta, với lòng biết ơn sâu xa đối với các vị tiền nhân.
Niềm tin của người ki-tô hữu hôm nay không
đòi buộc phải ứng dụng mọi dữ kiện của những nền văn hóa trong
Sách Thánh. Trái lại, niềm tin được tỏ ra như một sức năng động
của cuộc sống, nó hướng dẫn cho sự hiện hữu của con người trong
mọi thời đại. Chúng ta không bắt buộc phải chấp nhận quan điểm
về nguồn gốc vũ trụ trong Kinh Thánh để tin vào Thiên Chúa Tạo
Hoá. Đức Tin vượt trên mọi thể thức, mẫu mực.
(còn tiếp nhiều kỳ)
1. Ví dụ, khi ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: “ Lời Chúa
nói với tôi” (Gr 1, 4), hiểu đúng nghĩa
“những lời này” không chỉ thông báo những gì
Giê-rê-mi-a nói, nhưng còn cả một phần thăng trầm
cuộc sống của ông, của lịch sử thời ông sống mà
sứ vụ của ông có liên hệ chặt chẽ. Những “Lời”,
cũng có thể được dịch là “hành động”, “những
chuyện”, những câu nói”, “những dữ kiện và cử
chỉ”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đức Thánh Cha ca ngợi sáng kiến dùng âm nhạc phục vụ hòa bình |
http://vietvatican.net/
CASTELGANDOLFO.
ĐTC Biển Đức 16 ca ngợi sáng kiến của Nhạc trưởng Damiel Barenboim dùng âm nhạc
để phục vụ hòa bình và sự hòa hợp giữa các dân nước.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong lời cám ơn vào cuối buổi hòa nhạc chiều
ngày 11-7-2012, nhân lễ kính thánh Biển Đức, tại dinh thự Castel Gandolfo, với
sự tham dự của Tổng thống Italia, Ông Giorgio Napoletano, và phu nhân, 5 HY và
lối 200 khách mời. Ban nhạc đã hòa tấu hợp ca số 6 Fa trưởng và số 5 Do thứ của
Ludwig von Beethoven.
Buổi hòa nhạc do Nhạc trưởng Daniel Baremboim đảm trách. Ông là người Argentina
gốc Do thái. Hồi năm 1999 ông thành lập và điều khiển ban nhạc ”Divan Đông Tây”
gồm nhiều nhạc sĩ người Israel, Palestine, Siri, Giordani, Ai Cập, Liban, Irak,
Thổ nhĩ kỳ và Tây Ban Nha. Ban nhạc lưu diễn tại nhiều nước Âu Châu với mục đích
thăng tiến đối thoại liên tôn và liên văn hóa.
ĐTC nói: ”Anh chị em có thể tưởng tượng tôi vui mừng dường nào khi tiếp đón một
ban nhạc như ban nhạc này, được khai sinh từ xác tín, hay đúng hơn từ kinh
nghiệm theo đó âm nhạc liên kết con người với nhau, vượt lên trên mọi chia rẽ;
vì âm nhạc là sự hòa hợp những khác biệt.. Từ nhiều âm khác nhau của các nhạc
khi đó thể nảy sinh một hợp thanh. Nhưng điều này không xảy ra một cách huyền bí
hoặc tự động! Nó chỉ xảy ra nhờ sự dấn thân của nhạc trưởng và của mỗi nhạc sĩ.
Một sự dấn thân kiên nhẫn, vất vả, đòi thời gian và hy sinh, trong nỗ lực lắng
nghe lẫn nhau, tránh thái độ coi mình là nhân vật chính và dành ưu tiên cho sự
thành công của tập thể”.
Và ĐTC kết luận rằng: Sứ điệp mà tôi rút ra ở đây là: để đạt tới hòa bình, cần
phải dấn thân, gạt bỏ bạo lực và võ khí, dấn thân với sự hoàn cải bản thân và
cộng đoàn, với đối thoại, kiên nhẫn tìm kiếm những thỏa thuận có thể” (SD
11-7-2012)
G. Trần Đức Anh OP
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KỶ NIỆM XƯA…
|
Ai trong
chúng ta cũng đong đầy những kỷ niệm trong ký ức, những kỷ niệm
đó theo mình suốt đời, chắc chắn nó làm nên con người mình trong
mọi cách suy nghĩ và ứng xử. Chỉ cần một gợi nhớ, tất cả lùa đến
một cách sống động kéo ta về với dĩ vãng xa xôi. Cũng tùy vào kỷ
niệm đó, niềm vui hay nỗi buồn chi phối tâm tư tình cảm chúng
ta.
Tôi lớn lên trong một Xứ Đạo toàn tòng di cư, những năm tháng
đầu vào miền Nam, tuổi thơ chúng tôi hồn nhiên sống giữa trăm
ngàn ngổn ngang của bậc cha mẹ, những lưu luyến lũy tre xanh ở
mãi tận phương Bắc nghìn trùng xa cách, làm nền tảng cho bậc phụ
huynh tổ chức một lũy tre mới trên một vùng đất mới.
Vâng, câu kinh tiếng kệ nhôi nhai đi vào ký ức tuổi thơ của
chúng tôi, thế giới quanh chúng tôi tái tạo lại thôn làng của
cha ông, trung tâm sinh hoạt là ngôi Nhà Thờ vừa được dựng lên,
nơi đó tiếng kinh trầm buồn đều đều vang lên thu hút chúng tôi,
nơi đó có cả những ổ bánh mì, những ly sữa nóng trong những
thùng nhôm lớn được pha sẵn, nóng hổi và có cả những miếng
Pho-mai ( fromage ) mặn mà vàng ngậy, mà không hiểu sao những
miếng pho-mai không đầy đặn mà lại thủng lỗ chỗ những lỗ nho nhỏ
dễ thương làm sao; hình “bà sơ” ( ma soeur ) đội nón trắng rộng
vành, gương mặt xinh đẹp in ngoài vỏ hộp bơ ( beurre ) và cả cái
hình bắt tay có chữ USAID ( cơ quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ –
United States Agency for International Development ) là những gì
lạ lùng đối với chúng tôi.
Sau này lớn lên trên bước đường Tông Đồ tôi thường quí các
soeurs Dòng Thánh Phaolô cách đặc biệt, đơn giản chỉ vì ngày xưa
tôi thích được ăn bánh mì “viện trợ” quệt “bơ bà sơ”. Xin lỗi
các soeurs khác vì sự thiên vị “đáng ghét” này, xin lỗi cả các
soeurs Dòng Thánh Phaolô vì sự yêu thích kỳ quái của tôi, không
lạ đâu, vì cũng từ đó mà một trong những điều hấp dẫn tôi vào
Dòng Chúa Cứu Thế là… chiếc áo Dòng.
Tuổi thơ tôi là vậy, sáng chiều t ôi
đến Nhà Thờ, để vui chơi cũng có, để đọc kinh “xem Lễ” cũng có,
để được ăn uống cũng có, nhưng có một số người không phải như
tôi, họ mê chơi những chỗ khác hơn là Nhà Thờ, họ thích tụ tập
làm những chuyện khác hơn là xem Lễ đọc kinh. “Lũy tre” mới mà
cha ông chúng tôi dựng nên lùa tất cả bọn họ vào Nhà Thờ, thế
nhưng họ đã tìm cách lỉnh đi, vui chơi ở một chỗ nào đó, rồi khi
hết Lễ, họ chặn đường hỏi chúng tôi đi Lễ về với một câu hỏi duy
nhất: “Hôm nay cha mặc áo màu gì ?” Sau đôi ba lần trả lời họ,
máu “công chính” trong tôi nổi lên, lần ấy tôi có tình trả lời
sai màu áo, trả lời xong tôi quên ngay cái hành vi “công chính
rơm” ấy, cho đến tôi lãnh đủ hai ba trận đòn liên tiếp của bọn
họ những ngày sau đó, tôi mới hiểu lý do tại sao !
Cánh đi Lễ của bọn tôi tan tác hết, không
dám cho bố mẹ biết, sợ bị phạt, chúng tôi âm thầm dậy sớm hơn và
tìm những đường vòng thật xa để tránh bị đòn, nhưng hình như họ
bắt nạt mình đã quen và thích thú với cái trò bắt nạt, chúng tôi
đi đường nào cũng bị chận đánh, chia thành hai tốp đi hai ngã
khác nhau cũng vẫn bị họ chia thành hai cánh để theo đánh cho
bằng được, cái quạt lá cầm đi Lễ cũng bị chúng tước đoạt, xé tan
tành ngay trước ánh mắt căm tức nhưng bất lực của chúng tôi.
Một hôm Long thẹo ( bây giờ ở Mỹ, cổ có vết
thẹo rất lớn nên chết tên là Long thẹo ) bị đánh lăn từ trên dốc
đường tàu xuống, đầu cấn phải cục đá to, loại đá 4x6 làm đường,
máu chảy đầm đìa. Chúng tôi không dám về nhà, tụ tập ở nhà Tuyên
méo ( anh này miệng bị máu, đi lính, rồi tù cải tạo, bây giờ
cũng đang ở Mỹ ) để chữa thương cho Long và giặt áo sạch vết
máu.
Tuyên méo lớn nhất đám tức giận tập họp anh
em lại quyết định tuyên chiến, những tay mạnh khỏe trong đám
hưởng ứng, chì nhất có Cừ lùn ( chết lâu rồi ) và Bình boong (
tu Dòng Đồng Công, bây giờ đang ở Mỹ ), có cả Tâm từ nữa ( Tâm
bây giờ là Linh Mục Dòng Don Bosco ). Chúng tôi vạch kế hoạch
chiến đấu. Một nhóm giả “hiền từ” đi Lễ như thường, vũ khi bình
thường vẫn là những cái quạt lá, hai nhóm khác “võ trang” cẩn
thận bọc chặn hai đường thoát, vũ khí tối tân nhất là các giàn
ná bắn chim vì chúng tôi muốn triệt hạ bọn chúng từ xa trước khi
để chúng tiếp cận. Cẩn thận hơn nữa, chúng tôi gọi thêm viện
binh, bọn Huyến rù ( anh này mặt buồn buồn nên có tên là Huyến
rù, rù là một loại bệnh cúm của gà, gà rù ) bên Xóm Chợ ủng hộ
phe chúng tôi và phục sẵn ở chợ, làm sao dồn bọn chúng chạy về
phía chợ là coi như bị… diệt gọn !
Hôm ấy chúng tôi thắng lớn, những tên hung
bạo nhất đã bị anh em Xóm Chợ nhốt dưới mấy cái sạp bán thịt (
anh em dựng sạp lên, bắt chúng bỏ vào rồi hạ sạp xuống ) khóc ấm
ĩ, nhưng tiếng reo hò chiến thắng của bọn tôi át cả đi, mãi đến
khi một số người lớn can thiệp, chúng mới được giải thoát, từ đó
chẳng bao giờ còn dám bắt nạt chúng tôi nữa, chúng tôi được bình
yên để đi lại “thờ phượng Chúa”.
Chúng tôi phải trả giá cho “chiến thắng
lừng lẫy” này bằng một trận phạt quỳ trong Nhà Thờ về tội “gây
rối trật tự công cộng”, một bà Quản nhìn thấy đã thưa với cha
Xứ, thế là…
Chúng tôi không quan tâm và cũng không hề
có ý nghĩ bào chữa cho mình. “Quỳ trước đền vàng” nhưng lòng
chúng tôi hỉ hả lắm, thậm chí ngày ấy chúng tôi đâu đã hiểu thế
nào là bài học nhân bản hay giáo lý của sự kiện này, đối thoại
hay không đối thoại, bạo động hay không bạo động ?!?
Thế nhưng chúng tôi đã học được
bài học đoàn kết và vượt qua nỗi sợ hãi bị
ức hiếp.
Cũng từ ngày đó chúng tôi thương nhau hơn, ngày Cừ lùn chết,
chúng tôi đứng trước quan tài như đứt ruột ra. Tuyên méo và Bình
boong lâu lắm rồi không gặp nhưng chẳng bao giờ chúng tôi quên.
Long thẹo mỗi lần về Việt Nam lại tìm đến anh em nhiều hơn ở
nhà…
Kỷ niệm xưa của tuổi thơ ấy mãi luôn sống
động trong tôi mỗi lần tôi gặp khó khăn trên đường đời, mỗi lần
tôi phải đối diện với Sự Dữ.
Vâng, đoàn
kết và vượt sợ hãi, bài
học không bao giờ tôi quên…
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 8.7.2012
Một tuần sau sự kiện thương đau ở Con Cuông, Nghệ An (Ephata
517)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA TRƯỞNG GIA
ĐÌNH: PHỤC VỤ KHIÊM TỐN
|
1. LỜI CHÚA:
Ai muốn
làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Cũng như
Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt
20,26-28).
2. SUY NIỆM:
1) Lãnh đạo là gì?
:
- Lãnh đạo
là dẫn đường: Vậy người
lãnh đạo, không những là người có chức vị lớn (như Chủ tịch,
Tổng thống…), nhưng bất cứ ai có ảnh hưởng trên người khác, có
khả năng lôi cuốn người khác đi theo mình đều được coi là người
lãnh đạo như: Linh mục, cha mẹ, Giáo viên, Giáo lý viên, Huynh
trưởng… đều là người lãnh đạo.
- Lãnh đạo
cũng được gọi là thủ trưởng:
nghĩa là người đứng đầu, Nếu không có đầu để suy nghĩ chỉ huy
thì tay chân sẽ cử động tùy tiện, thiện chí sẽ bị mai một, nghị
lực sẽ dần tiêu tán, con người sẽ trở nên điên lọan, sứ mệnh sẽ
không thể chu tòan
- Lãnh đạo
là người biết, muốn và hành động theo lý tưởng của mình,
đồng thời cũng có khả năng động viên người khác biết, muốn và
hành động theo lý tưởng ấy.
2) Những đức tính của người lãnh
đạo:
Người lãnh
đạo cần tiếp thu các ý kiến, nhưng không lệ thuộc vào những ý
kiến ấy. Cần có sáng kiến đề ra phương thế thích hợp trong từng
tình huống cụ thể. Lãnh đạo cần sống nêu gương sáng, nghiêm túc
trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử thích hợp với từng đối
tương mình tiếp xúc. Luôn quan tâm tìm hiểu thêm nhiệm vụ chính
của mình và thực thi mệnh lệnh cách khôn ngoan hiệu quả. Lãnh
đạo cần phải giàu nghị lực để thắng vượt các trở lực gặp phải
trong cuộc sống. Tránh nói xấu, chỉ trích cấp trên cách vô trách
nhiệm, vì sẽ gây chia rẽ nội bộ và mở đường cho cấp dưới cũng
nói xấu và chỉ trích các sai sót khuyết điểm của chính mình
3) Lãnh đạo theo Lời Chúa dạy:
- Lãnh đạo
là phục vụ Chúa trong anh em:
Người đã dạy các Môn đệ phụng sự Thiên Chúa và tha nhân, phục vụ
cộng đòan hay việc chung. Đặc điểm của người có tài lãnh đạo là
có sức thu hút được nhiều người khác cùng hợp tác với mình bằng
cách: Tìm kiếm tuyển chọn họ, Huấn luyện và tín nhiệm giao việc
cho họ, Quan tâm uốn nắn khích lệ để giúp họ ngày thêm hòan
thiện.
- Lãnh đạo
là khoan dung những lỗi lần thiếu sót:
Không ai tự nhiên có thể là một người lãnh đạo hòan hảo. Chúa
Giêsu không loại bỏ các môn đệ khi các ông có những sai sót bất
tòan. Do đó chúng ta đừng nản lòng khi thấy cấp dưới có những
biểu hiệu tiêu cực chưa tốt. Hãy nhẫn nại bao dung và cư xử tốt
với những người bất thuận chống đối mình. Hãy cầu nguyện, làm
tốt hết khả năng mình và phó thác cho Chúa quan phòng sắp xếp
định liệu.
- Lãnh đạo
là trở nên mọi sự cho mọi người:
Trong bất cứ hòan cảnh nào, hãy
chấp nhận mọi thử thách, nhọc mệt, chống đối và khi cần còn phải
sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình để làm vinh danh cho Thiên
Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Không bao giờ được nản chí bỏ
cuộc.
- Lãnh đạo
là khiêm tốn nhận khuyết điểm và tu sửa, không tự hào về thành
tích của mình: Khi nhận
lãnh một trách nhiệm lãnh đạo, ta phải nhớ rằng mình vẫn còn
nhiều sai sót khuyết điểm nên sẽ không buồn phiền chán nản nếu
bị cấp trên sửa lỗi hay bị người dưới hiểu lầm vô ơn chống đối.
Không bao giờ kể công để đòi hỏi cấp trên về quyền lợi, nhưng
luôn phải tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi
đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10)..
4) Lãnh đạo theo gương Chúa làm:
- Hãy tìm học
nghề lãnh đạo nơi Chúa Giêsu, vị Lãnh Đạo Tối Cao, Người thầy
lớn nhất như Người đã khẳng định:
“Tôi chính là
Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho
đòan chiện. Người làm thuê vì không phải là mục tử, và vì chiên
không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.
Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán lọan., vì anh ta là kẻ làm
thuê và không thiết gì đến chiện. Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha
biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho
đòan chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi
cũng phải đưa chúng về . Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có
một đòan chiên và một mục tử. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết
hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống
dồi dào” (Ga 10,1-16).
- Khi rửa
chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói:
“Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi
Thầy là Thầy là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là
Thầy là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho
anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu
gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
(Ga 13,12-15).
3. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho
biết người lãnh đạo cần có những đức tính nào theo Lời Chúa dạy
và gương Người làm?
2) Trưởng
lãnh đạo cần thể hiện tinh thần phục vụ và hy sinh thế nào để
gây uy tín và tình cảm của người dưới?
3) Trưởng
nên chia sẻ việc điều hành thế nào với các cộng tác viên?
4. LỜI NGUYỆN CỦA TRƯỞNG:
Theo thánh I-nha-xi-ô:
Lạy Chúa
Giêsu Mục Tử Tối Cao.,
Xin dạy chúng con biết sống quảng đại,
Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng.
Biết cho
đi mà không cần tính toán,
Biết chiến đấu mà không sợ thương tích,
Biết làm việc mà không tìm an nghỉ,
Biết hiến thân mà không mong chờ một phần thưởng nào khác,
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
Karl Marx
phê-bình tôn-giáo (tiếp theo) |
Gs.
Trần Văn
Toàn
Bài đăng ở tập san Định
Hướng
2- Thời-kỳ
viết « Bản thảo về Kinh-tế và Triết-lý »
Khi còn làm báo ở Đức, Marx đứng trong khuôn-khổ
tư-tưởng triết-học Đức và quan-niệm tự-do chính-trị. Đã có lần bị Nhật-báo
phổ-thông ở Augsburg (Ausburger Allgemeine Zeitung), tố-giác là cộâng-sản,
Marx trả lời trong số báo 296 của ông, ngày 23/10/1842, là ông chưa biết
cộng-sản là gì, nhưng ông hứa là sẽ tìm hiểu.
Nay sang Pháp, ông làm quen được với phong-trào xã-hội chủ-nghĩa của
Proudhon và nhờ Engels giúp, ông hiểu ra tầm quan-trọng của kinh-tế, cho nên
thấy cần phải tổng-hợp những điều sở-đắc, để nhận-định cho rõ lập-trường của
mình. Đó là nguồn-gốc tác-phẩm ta bàn đến ở đây.
Đây mới chỉ là bản thảo, không có ý-định cho in
ra, cho nên tư-tưởng chưa được xếp cho có thứ-tự lắm, và lời văn còn rườm-rà,
chưa được gọt dũa, nhưng tư-tưởng rất mực quan-trọng, vì đây là trọng-tâm của
tư-tưởng Marx. Cần phải nói là tác-phẩm này ít được để ý tới, một là vì Marx
không cho in ra, hai là vì khi cách-mệnh cộng-sản thành-công ở Nga năm 1917, thì
những người làm cách-mệnh chỉ căn- cứ vào bộ Tư-bản-luận và vào các bài
viết lên trên báo chương. Sau này, biết là có Bản thảo đó, nhưng thấy là
không cần in ra, vì chẳng có nó thì cách-mệnh cũng đã thành-công rồi ; vả lại đó
là tác-phẩm triết-lý, nói về nền-tảng đạo-đức cách-mệnh, cho in ra thì e rằng
không hợp với chính-sách thời đó. Cho nên khi có nhắc đến nó thì người ta chỉ
nói suông rằng nó thuộc về giai-đoạn mà Marx chưa gột rửa được hết tư-tưởng
duy-tâm. Phải chờ đến năm 1932 nó mới được xuất-bản tại Berlin trong bộ MEGA cũ,
I / 3
.
Bản thảo
được viết ra trong ba cặp vở. Các đề-tài chưa được
xếp cho có thứ-tự. Đại-khái có những đề-tài sau đây : đồng tiền lương, lợi lãi
của tư-bản, địa-tô, sức lao-động bị vong-thân, quyền tư-hữu, quyền tư-hữu đấât
đai, tư-bản và lao-động, Cộâng-sản, con người toàn-diện, vấn-đề phụ-nữ, vấn-đề
Thiên-Chúa, các nhu-cầu của con người, quyền-lực của đồng tiền, phê-bình
triết-học Hegel.
Cũng thời-kỳ đó, Marx trình bầy những tư-tưởng đó và căn-bản lý-thuyết cộng-sản
trong chương nhất của cuốn sách Ý-thức-hệ bên Đức ; chương nhất đó lấy
đầu đề là « Feuerbach » ; những chương sau thì không có gì đặc-biệt, có thể bỏ
qua được.
Đối với đề-tài của ta ở đây,
thì dĩ-nhiên là phải nói đến những trang viết về Thiên-Chúa, nhưng để hiểu cho
rõ, cần phải xem quan niệm Marx về con người, con người lao-động bị vong-thân và
con người toàn-diện, con người nhân-loại (Gattungswesen), nghĩa là theo đúng
chương-trình của Feuerbach : lấy nhân-loại đặt thay vào chỗ Thiên-Chúa.
2.1- Con
người toàn-diện và con người bị vong-thân
2.1.1- Phần tiêu-cực : nền
tảng do Feuerbach xây dựng
Trong thư viết tại Paris, gửi cho Feuerbach ngày
11/08/1844, Marx nói lên món nợ tinh-thần đối với nhà triết-gia hơn ông 14 tuổi
và lúc đó đã nổi tiếng vì cuốn sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa (1841).
Oâng viết : « Thưa Ngài, Nhân có dịp, tôi xin mạn phép gửi cho Ngài một bài tôi
đã viết xong rồi, nhưng lại đang sửa chữa để cho ai nấy đều hiểu được. Trong bài
ấy tôi có đưa ra mấy ý-kiến để phê-bình triết-lý của pháp-luật
.
Tôi không nghĩ rằng bài này có giá-trị gì đặc-biệt, nhưng tôi mừng vì có dịp để
thưa với Ngài là tôi rất tôn-trọng Ngài và – xin Ngài cho phép tôi nói – quí mến
Ngài. Cuốn sách Triết-lý của tương-lai, cũng như cuốn Bản-chất đạo
Thiên-Chúa của Ngài, tuy rằng không dài lắm, nhưng lại có giá-trị hơn tất cả
các sách vở hiện-thời trong nước Đức. Tôi không biết Ngài có chủ-ý như thế hay
không, nhưng trong những tác-phẩm đó, Ngài đã cho xã-hội chủ-nghĩa có một nền
tảng triết-lý, và những người cộng-sản đều đã hiểu các tác-phẩm đó như thế.
Ngườt ta thật có khác nhau, nhưng sự hòa-hợp giữa người với người, cái ý-niệm
nhân-loại (Menschengattung) đã được đưa từ vùng trời trừu-tượng xuống quả đất có
thực, đó là ý-niệm xã-hội, chứ không phải là gì khác »
.
Marx có mời Feuerbach cộng-tác trong hoạt-động
chính-trị. Feuerbach không trả lời. Từ đó hết liên-lạc. Feuerbach tiếp-tục
phê-bình tôn-giáo,
Marx tiếp-tục làm chính-trị, và bắt đầu viết một cuốn sách dài nhan-đề là
Ý-thức-hệ bên Đức (1845), trong đó có dành cho Feuerbach chương nhất, có lẽ
là chương độc nhất có giá-trị trong sách đó ; đồng thời lại thảo ra Mười một
luận-đề về Feuerbach. Có một số chuyên-gia cho rằng những luận-đề về
Feuerbach, tuy chỉ vẻn-vẹn có một trang giấy, nhưng có giá-trị triết-lý hơn cả
dăm sáu trăm trang của cuốn Ý-thức-hệ bên Đức. Nói như thế cũng là quá
đáng, vì một trang giấy thì quả thực là vắn tắt quá : muốn hiểu được cho rõ,
độc-giả lại phải biết những điều Marx bàn-luận trong chương sách về Feuerbach
trên đây, và trong Bản thảo viết năm 1844, nghĩa là cùng thời đó.
Trong phần cuối của Bản thảo dành vào việc
phê-bình triết-học Hegel, Marx công-nhận công-lao của Feuerbach như sau : « Đối
với phép biện-chứng của Hegel thì Feuerbach là người duy-nhất có thái-độ
nghiêm-chỉnh và phê-bình. Về phạm-vi đó, ông cũng là người độc nhất đã đưa ra
được những sáng-kiến thiết-thực. Nói tóm lại, ông là người đã thắng vượt được
triết-học cũ. Công việc ông làm thật là mênh-mông, ông đem nó ra công-bố cho
thiên-hạ một cách vừa giản-dị lại vừa kín đáo, thật là khác xa lối làm ăn của
những người khác »
.
Như thế đã rõ là quan-niệm về con người và về
xã-hội của Marx đã được xây-dựng trên căn-bản triết-lý của Feuerbach. Khởi-điểm
là ý-niệm « vong-thân », có thể dùng để hiểu rõ tình-trạng không ổn-thỏa của con
người. Không ổn-thỏa ở bình-diện ý-thức, cho nên đánh mất bản-thân trong
tôn-giáo : đem các đặc-tính của con người mà đặt cho Thiên-Chúa, và đó là
quan-niệm của Feuerbach. Tuy vậy Feuerbach không dừng lại ở bình-diện ý-thức,
vì, như Marx đã nhận-định trên đây, Feuerbach đã có chủ-trương phải trở về với
thực-tại cụ-thể : trong cuốn Triết-lý của tương-lai, ông đưa ra cho
triết-lý hai phương-hướng là thân-xác (Leiblichkeit) và xã-hội
(Gesellschaft).
Nhưng cái xã-hội, cái nhân-loại ở đây, thì Feuerbach, tuy cũng
biết là nó bao trùm cả những liên-quan pháp-lý, nhưng lại chú-trọng riêng đến
cái liên-lạc giữa người phái nam và phái nữ . Marx cho như thế là lãng-mạn
ướt-át, cho nên ông đi ngược lại và đặt trọng-tâm vào liên-quan chính-trị và
nhất là kinh-tế nữa. Vì thế ông đặc-biệt chú-ý đến cái không ổn-thỏa trên
bình-diện thực-tế chính-trị, xã-hội và kinh-tế, cho đó là cái vong-thân
thiết-thực.
Và để hiểu rõ cái vong-thân
thiết-thực, ta lại cần phải biết con người toàn-diện, con người nhân-loại là như
thế nào, nếu không vong-thân. Mà vong-thân – Marx đã quả-quyết theo như
Feuerbach – là ở chỗ cái mà người ta gọi là Thiên-Chúa, thực ra chỉ là nhân-loại
mà thôi. Đó lại cũng là điểm mà Marx trình bầy trong phần phê-bình Hegel này.
Như thế tất-nhiên phải xem qua ảnh-hưởng của Hegel đối với Marx.
2.1.2- Phần tích-cực :
vật-liệu do Hegel cung-cấp
Tuy Marx tuyên bố là mình đã đảo ngược lại
hệ-thống biện-chứng của Hegel mà ông cho là duy-tâm,
thì ta cũng chẳng thấy rõ ông đảo ngược thế nào cho ra duy-vật biện-chứng cả.
Thực ra Marx đã để tâm và bận tâm nhiều vào cuốn sách của Hegel về Triết-lý
của Pháp-luật (1821). Trong thư viết cho Feuerbach, Marx đã gửi phần
dẫn-nhập của bài phê-bình sách đó, và nói là còn đang sửa chữa thêm. Có điều là
Marx chỉ phê-bình có 53 thiên, về phần cuối, từ thiên 261 cho đến thiên 313,
nghĩa là chỉ phê-bình gần hết phần nói về quyền chính-trị trong nhà nước mà thôi.
Phần cuối cùng là 47 thiên, từ thiên 314 đến thiên 360, bàn về pháp-luật quốc-tế
và lịch-sử thế-giới, thì không nói đến. Còn 260 thiên về phần trước, đặc-biệt là
những suy-tư về lao-động và kinh-tế, thì Marx lấy lại mà không nói đến tác-giả
nữa. Đọc sách đó của Hegel cho kỹ thì không thể nói rằng triết-gia đó là
duy-tâm, chỉ triết-lý suông, mà không biết gì đến thế-sự và lịch-sử, càng không
thể cho rằng ông không có quan-niệm về con người toàn-diện
Theo thiển-ý thì phê-bình hay là đảo ngược cả một
hệ-thống lý-sự như của Hegel không phải là truyện dễ, nhất là khi Marx còn bận
tâm viết bài về chính-trị ; cho nên nếu không dùng được cả, thì tiện hơn hết là
xem trong kiến-trúc đó, có gạch đá xà cột hay vật-liệu nào dùng được, thì
tùy-tiện lấy ra mà xây nhà của mình : đó cũng là lối làm ăn thường tình
thiên-hạ. Thực ra cũng phải đợi 30 năm sau, nghĩa là đến năm 1873, mới thấy Marx
trả món nợ tinh-thần đối với Hegel ; ông viết trong bài hậu-từ trong khi tái-bản
sách Tư-bản-luận một câu, nhưng câu đó chỉ nói trông-trống thôi
về Hegel : « Thế là tôi đã công-nhận rằng tôi là học-trò của nhà tư-tưởng
đại tài ấy »
.
Như thế vật-liệu lấy từ Hegel ra để xây-dựng quan-niệm về con người quả thực là
những suy-tư triết-lý trong sách Triết-lý của Pháp-luật về con người
toàn-diện và giá-trị của lao-động.
Nên chú-ý là có nhiều người hiểu lầm rằng « con
người » theo quan-niệm của Hegel và của Feuerbach thì có tính-cách duy-tâm và
trừu-tượng, còn « con người » trong quan-niệm của Marx thì có tính-cách cụ-thể.
Thực ra đã theo phương-pháp biện-chứng như Hegel, thì không có đặt vấn-đề một
cách đơn-phương :« tâm sinh ra vật » hay là « vật sinh ra tâm » nữa, nhưng là
tìm cách hòa-hợp cả hai. Có điều là khi muốn nói lên cho có mạch-lạc thì phải
nói cái này trước, cái kia sau, theo thứ-tự nào cũng được. Ví-dụ trong
Bách-khoa về các khoa-học triết-lý trong những nét căn-bản (Enzyklopaedie
der philosophischen Wissenschaften im Grundrisse, 1817) Hegel trình-bày theo ba
giai-đoạn sau đây : trước hết là Khoa Lý-học (Wissenschaft der Logik),
thứ hai là Triết-lý về Thiên-nhiên (Philosophie der Natur), thứ ba là
Triết-lý về Tinh-thần (Philosophie des Geistes). Trong sách Khoa Lý-học
(Wissenschaft der Logik, 1812), ông lại theo ba giai-đoạn khác : một là
Học-thuyết về Hữu-thể (Die Lehre vom Sein), hai là Bản-thể (Das
Wesen), ba là Ý-niệm nhất-quán (Der Begriff)
.
Đại-khái trong hai ví-dụ trên đây thì giai-đoạn thứ nhất (tức là tiền-đề)
luận về cái lý-sự trừu-tượng, giai-đoạn thứ hai (tức là phản-đề)
luận về thực-tại cụ-thể, giai-đoạn thứ ba (tức là tổng-đề) đưa ra
cái nhìn nhất-quán, nắm chặt được cả cái trừu-tượng lẫn cái cụ-thể. Nhưng
không phải hễ cái gì nói ra trước thì phải coi nó là nguyên-nhân sinh ra cái
sau, như trong khoa-học duy-vật.
Nay xin nói qua về sách Triết-lý của Pháp-luật
,
để nêu ra những yếu-tố được chuyển sang sách vở của Marx.
Vậy theo phương-pháp
biện-chứng, Hegel chia tác-phẩm làm ba phần : 1) Pháp-luật (quyền-lợi)
trừu-tượng ; 2) Đạo-đức chủ-quan bên trong ; 3) Đạo-đức
khách-quan bên ngoài.
Phần thứ nhất
nói một cách trừu-tượng về con người « linh ư vạn vật », nghĩa là có nhân-cách,
lại có thân xác cùng ở trong một thế-giới với sự-vật tự-nhiên bên ngoài, cho nên
có quyền dùng thân xác mà chiếm-hữu sự-vật bên ngoài. Nếu thân xác ta là nơi
riêng ta hiện-diện trong trời đất, thì sự vật bên ngoài, những vật sở-hữu cũng
như các dụng-cụ, không phải là như thế, cho nên người khác tiêu-dùng cũng được :
tự bản-tính nó không phảøi là của riêng ta ; nó là của ta hay là của người khác,
thì đó là do chúng ta thỏa-thuận lập khế-ước với nhau. Do đó mới biết thế nào là
công-bình, thế nào là bất-công. Như thế đã rõ là liên-quan giữa ta và sự-vật bên
ngoài đều bao gồm liên-quan giữa ta và người khác. Chính vì Marx lấy lại
quan-niệm này mà ta không thể nói vu-vơ rằng Marx có lập-trường duy-kinh-tế, và
cố-tình bỏ qua liên quan giữa người với người.
Phần thứ hai
nói về đạo-đức chủ-quan bên trong. Hegel gọi là « Moralitaet », người
Pháp dịch là « Moralité », hay là « Moralité subjective » để phân-biệt nó với
cái được thành hình ra bên ngoài, gọi là « Moralité objective ». Ngôn-từ dùng để
chỉ luân-thường đạo-lý, thì người Pháp và người Aâu-châu thường gọi là
« morale », hay là « éthique », hai ngôn-từ đó là do tiếng La-tinh « mores » và
tiếng Hi-lạp « êthos », cùng có nghĩa là « phong-tục tập-quán », vì trong buổi
đầu ngườt ta quan-niệm rằng ăn ở cho hợp vớùi phong-tục tập-quán cũng tức là hợp
với luân-lý, với đạo-đức. Nhưng các triết-gia đã sớm đặt câu hỏi : chắc gì là
phong-tục tập-quán bao giờ cũng hợp với đạo-đức, với công-bình ? Trong phần này,
Hegel bàn đến các ý-niệm về đạo-đức-học, như : trách-nhiệm, dự-định, chủ-ý, cái
chí thiện, v.v. ; cho nên không có liên-quan nhiều đến đề-tài của ta.
Phần thứ ba,
Hegel gọi nó là
« Sittlichkeit » , người Pháp quen dịch là « moralité », vì « Sitten », cũng như
« mores » hay « êthos », là « phong-tục tập-quán », và « sittlich », « hợp với
tập tục » được hiểu là « hợp với đạo-đức » (moral). Nhưng vì Hegel gán cho nó
ý-nghĩa mới, như ta sẽ thấy, cho nên dịch-giả sách đó là André Kaan dịch ra
Pháp-văn là « moralité objective », bây giờ có người lại dịch là « éthicité »,
cả hai lối phiên-dịch đều không nói lên được đúng ý, vì ở đây Hegel không nói
đến đạo-đức trong thâm-tâm, không nói đến những sự-vật tự-nhiên có, nhưng nói
đến những định-chế xã-hội, kinh-tế, chính-trị do tinh-thần của con người « linh
ư vạn vật » tác-tạo và thấm-nhuần : đó là « tinh-thần dưới hình-thức
khách-quan » (Objektiver Geist). Tôi xin đề-nghị tạm gọi nó là « tập-tục
khách-quan bên ngoài ».
Phần thứ ba này nói đến ba định-chế được thực-hiện
ở ba cấp khác nhau trong đời sống xã-hội, đó là gia-đình, lao-động và
nhà nước
.
Cấp thứ nhất là gia-đình thì
Marx không quan-tâm đến làbao nhiêu.
Cấp thứ ba là nhà nước. Marx phê-bình Hegel vì ông
này dùng những ý-niệm trừu-tượng và những lập-luận quanh-co để minh-chứng rằng
chế-độ quân-chủ lập-hiến, cha truyền con nối, của nước Phổ thời đó là hợp lý.
Thực ra Marx không chú trọng nhiều vào việc tìm cho ra một chế-độ chính-trị
thích-hợp với dự-định của mình ; ông chú-trọng vào vấn-đề kinh-tế, vấn-đề
lao-động, là vì cho rằng cứ giải-quyết xong các vấn-đề về hạ-tầng kiến-trúc, thì
tự-nhiên các vấn-đề khác về thượng-tầng kiến-trúc, như chính-trị, tôn-giáo, cũng
đều được thanh-toán cảû.
Nói cho đúng ra thì thái độ ấy là do ảnh-hưởng của phong-trào xã-hội chủ-nghĩa
tại Pháp, vốn có cái mơ ước là phế bỏ cái xã-hội người cai-trị người
(gouvernement des hommes), để thiết-lập tổ-chức người ta cùng nhau quản-trị
tài-vật (administration commune des choses). Trong phong-trào ấy lại có một
khuynh-hướng vô-chính-phủ (anarchisme). Lịch-sử thế-kỷ XX vừa qua đã cho ta thấy
đó là cái lầm to. Vì khi cộng-sản nắm được chính-quyền ở Nga, thì Lê-nin, tuy
vẫn nói là phải dần-dần tiêu-diệt nhà nước, nhưng thực ra đã nhân danh vô sản
chuyên-chế thành-lập nhà nước rất mực kiên cố, khó bề lay chuyển được.
Cấp thứ hai là đời sống kinh-tế (lao-động) và
xã-hội. Ở đây, tuy Marx không tuyên-bố ra, mà cũng ít ai nhắc lại, nhưng quả
thực Marx đã lấy lại được những suy-luận tích-cực và độc đáo của Hegel để
thiết-lập một cách cụ-thể quan-niệm về con người toàn-diện, con người nhân-loại
của lý-thuyết cộng-sản. Nói tóm tắt một câu, đó là con người có trí khôn
thông-minh, lao-động để biến đổi thiên-nhiên, có liên-quan ổn-thỏa với người
khác, đồng thời ý-thức được về chính mình. Nhưng vì thấy con người đó chưa được
thực-hiện, cho nên Marx hiểu là con người đó chưa đạt-thân, nghĩa là còn
vong-thân. Về vấn-đề vong-thân, Feuerbach đã bận tâm rất nhiều về vong-thân
trong tôn-giáo, nhưng cũng biết là khi đặt con người thay vào chỗ Thiên-Chúa thì
cần phải đặt một cách cụ-thể trên bình-diện xã-hội và chính-trị
,
tuy rằng ông không tìm hiểu cho rõ. Marx lấy lại chương-trình ấy khi nói đến
vong-thân toàn-diện, bàn rộng thêm, và nhấn mạnh vào điểm then chốt là cái
vong-thân về kinh-tế, cái vong thân trong lao-động.
2.1.3- Phần áp-dụng :
lao-động bị vong-thân
Trong
tác-phẩm đã dẫn trên đây, Hegel suy-luận xem đáng lý ra bản-tính của lao-động là
thế nào. Cần phải nói ngay rằng đây không phải là hoạt-động của con vật vô-linh
theo như bản-năng của nó, nhưng là lao-động của con người “linh ư vạn vật”.
Con người chiếm-hữu sự-vật, để tiêu-thụ (chuyển nó thành ra thân xác của mình),
để biến đổi hình-dạng cho nó thành dụng-cụ cho mình dùng.
Mà chế ra dụng-cụ tức là đem dự-định, đem ý muốn, đem cái tinh-thần của ta đặt
vào trong sự-vật bên ngoài (những cái « ngoại thân chi vật »), làm cho nó có
ý-nghĩa đối với chúng ta, có mục-đích và tham-gia vào đời sống của ta, để nới
rộng tầm cảm-giác của giác-quan và tầm hoạt-động của chân tay ta. Đó là những
suy-tư mà Marx tiếp-thu được của Hegel. Mà đã tiếp-thu như thế, thì khó mà đứng
trong lập-trường duy-vật thuần-túy.
Marx không bao giờ làm như Engels, coi lao-động là hoạt động của con khỉ trên
đường biến-hóa ra thành con người.
Bây giờ ta
nói rộng hơn về lao-động bị vong-thân mà Marx trình-bầy trong Bản thảo
(1844).
Trước hết Marx phân-biệt một
cách hết sức rõ-rệt lao-động của con người và hoạt-động của con vật. Điểm
dị-biệt là ở chỗ con vật có sinh sống có hoạt-động, nhưng không có tự-kỷ ý-thức,
không tự tách rời ra, không đặt mình ra bên ngoài hoạt-động của mình ; còn con
người thì có tự-kỷ ý-thức, biết suy-nghĩ, biết phản-tỉnh lại về các hoạt-động
của mình, coi các hoạt-động ấy là đối-tượng của tư-tưởng của mình. Như thế tức
là có tự-do, và đó là một đặc-điểm của con người toàn-diện, con người nhân-loại
(Gattungswesen). Đặc-điểm thứ hai là biết biến-đổi thế-giới thiên-nhiên và tạo
nên đồ-vật, dụng-cụ, nghĩa là tạo nên một thế-giới nhân-vi (do con người làm
nên). Không những sản-xuất các thứ mình cần dùng ngay bây giờ, mà còn sản-xuất
rộng hơn phạm-vi nhu-cầu của cá-nhân, vừa để cho người khác dùng, vừa để
sáng-tác nữa. Kết quả là : sự-vật trong thiên-nhiên, tuy không phải là thân xác
ta, nhưng cũng như là thân xác của ta được nối dài ra vậy, vì chúng được tham-dự
vào đời sống của ta. Nói thế khác, vũ-trụ thiên-nhiên gắn liền với đời sống của
con người : thiên-nhiên được mang bộ mặt con người, mà con người cũng mang được
bộ mặt thiên-nhiên. Marx chủ-trương rằng quan-niệm cộng-sản vừa là nhân-hóa
thiên-nhiên, vừa là thiên-nhiên-hóa con người, làm cho con người và thiên-nhiên
không còn chống đối nhau nữa. Và đó là công-trình của lao-động vậy.
Còn về liên-lạc giữa người
với người thì Marx không đi vào chi-tiết, không nói rõ là phải như thế nào, vì
ông không đào sâu về mối tương-quan chính-trị.
Sau khi đã tựa vào những
phân-tích về lao-động (do Hegel truyền lại) để quan-niệm thế nào là con người
toàn-diện, thay chỗ cho vị Thiên-Chúa của tôn-giáo, thì Marx có tiêu-chuẩn để
trình-bầy lao-động bị vong-thân, bị đánh lạc bản-chất, theo bốn phương-hướng,
như sau :
Phương-hướng thứ nhất :
sự-vật được sản-xuất ra, đáng lẽ nó là nơi kết tụ của tinh-thần con người, là
như thân xác con người được nối dài ra, thì nay nó nằm ở trong tay người khác,
và thành ra xa lạ và còn đối nghịch với người đã sản-xuất ra nó. Càng sản xuất
nhiều, thì càng bị mất mát tinh-thần và sức lực, mất bản-thân. Cho nên lao-động
không còn phải là cách-thức thực-hiện các khả-năng con người, nhưng chỉ còn là
phương-tiện để duy-trì đời sống sinh-lý mà thôi.
Phương-hướng thứ hai :
tác-động sản-xuất, đã bán cho người khác để lấy tiền tiêu vào việc cơm áo, cho
nên không còn phải là của người công-nhân nữa, mà là của người khác. Vì thế đi
làm mướn, tức là như bị kết án đi làm khổ-sai, làm khổ-lực, hay là “cu-li”.
Phương-hướng thứ ba :
nếu bản-tính con người là “con người nhân-loại”, như đã trình-bầy trên đây, thì
đi làm mướn tức là đánh mất bản-tính của mình, vì lao-động không còn làm cho
mình hòa-hợp với thiên-nhiên và với người đồng-loại nữa.
Phương-hướng thứ tư :
liên lạc giữa người với
người cũng vì thế mà không còn ổn-thỏa nữa.
Tóm tắt lại : người ta
vong-thân trong lao-động, tức là vong-thân toàn-diện, mất tính người, không còn
hòa hợp với thiên-nhiên và với người đồng-loại nữa. Và như thế chỉ là vì phải đi
làm công, đi làm mướn. Tình-trạng đó là do chế-độ tư-sản : người có của thì có
thể mua sức làm việc, mua người làm, như mua một thứ hàng hóa, một thứ đồ-vật.
Như thế người đi làm mướn chỉ còn được coi là đồ-vật mà thôi. Vì thế muốn
giải-phóng con người toàn-diện thì phải giải-phóng lao-động, tiêu-diệt chế-độ
làm công và tiêu-diệt tư-sản.
Có hai câu hỏi cần phải đặt
ra đây. Một là Marx hình như không nhìn nhận tính-cách biệt lập của
yếu-tố chính-trị đối với yếu-tố kinh-tế, của thượng tầng kiến-trúc đối với hạ
tầng kiến-trúc, vì cùng trong một chế-độ kinh-tế mà người ta có thể có những
chế-độ chính-trị, những hệ-thống tư-tưởng khác nhau. Có thể giải-thích rằng khác
nhau là vì người ta không ở trong cùng một giai-cấp. Nếu vậy thì vì sao Marx là
một trí-thức tiểu-tư-sản, chưa bao giờ sống bằng tiền lương lao-động chân tay,
lại có thể có ý-thức vô-sản còn hơn cả người vô-sản nữa ? Người ta có thể không
có tư-sản, mà vẫn có quyền hành, có tư-sản mà không có quyền hành gì cả. Đủ biết
vấn-đề không đơn giản như người ta nghĩ. Hai là giữa tư-tưởng tôn-giáo,
mà Marx cho là ýù-thức vong-thân, và những cái vong-thân thiết-thực về kinh-tế
và chính-trị, ta cũng không thấy tương-đương như thế nào. Có thể lại giải-thích
rằng thực-tại có thể là đã thay đổi, nhưng ý-thức cũ vẫn không chịu tiêu tan đi
để nhường chỗ cho ý-thức mới. Nhưng như thế tức là ý-thức không phải chỉ là
phản-ảnh của thực tại. Hơn nữa, vì sao người ta lại có thể có ý-thức cộng-sản,
khi chế-độ cộng-sản chưa có ? Đủ biết ý-thức còn có khả năng dự phóng được
thực-tại chưa có.
Marx không đặt ra hai câu
hỏi trên đây.
2.2- Phi bác chứng-lý
biện-minh rằng có Thiên-Chúa
Những người
đương thời của Marx còn nhớ bài học của Auguste Comte dạy rằng lịch-sử nhân-loại
phát-triển đi từ thời-đại tôn-giáo, qua thời-đại siêu-hình-học, rồi đến thời-đại
thực-nghiệm, và còn dạy lấy nhân-loại làm đối-tượng của tôn-giáo. Riêng Marx đã
đọc mấy cuốn sách của Feuerbach viết về vấn-đề Thiên-Chúa, và thấy không cần
phải nói thêm gì nữa. Feuerbach có một câu tuyên-bố thời danh : “Thiên-Chúa là
tư-tưởng thứ nhất của tôi, lý-trí là tư-tưởng thứ hai, con người là tư-tưởng thứ
ba và là tư-tưởng cuối cùng của tôi. Thiên-Chúa là đối vật của lý-trí, và lý-trí
lại là của con người”
. Marx cho rằng làm như thế là quanh co, mất thì giờ vô ích, chi bằng bắt đầu
ngay từ con người, từ nhân-loại, từ con người nhân-loại. Nói thế khác,
lập-trường nhân-bản, trực tiếp lấy con người làm gốc, ngay từ đầu, chứ không cần
phải hạ bệ Thiên-Chúa rồi mới đề cao con người.
Có điều là vấn-đề không đơn
sơ như thế, vì lẽ kinh-nghiệm trực tiếp của con người là thấy mình hữu hạn, nhỏ
bé, thực-tại của con người là thực-tại chưa đạt-thân, chưa thành
người thật ; còn cái con người nhân-loại (Gattungswesen), hòa hợp với
thiên-nhiên và với người khác, như đã trình bầy trên đây, thì mới chỉ là một
ý-tưởng chứ chưa có thật, chỉ là một lý tưởng còn phải được thực hiện
trong lịch sử xã hội và nhân loại . Làm sao có thể lấy đó làm khởi-điểm ngay
được ? Lạ thay, về điểm này Marx không có thắc mắc gì cả, và cũng sẽ không có
thắc mắc gì nữa.
Đáng chú ý
là trong Bản thảo Marx có để ra độ hai trang để phi bác chứng-lý
biện-minh rằng có Thiên-Chúa. Nếu ta không kể luận-điệu phi bác có tính cách
duy-tâm trong luận-văn tiến-sĩ (1841), thì đây là hai trang độc nhất
nói lên lập-trường riêng của Marx về vấn-đề đó. Có thể chia đoạn văn làm bốn
khúc như sau đây :
2.2.1- Đặt vấn đề
Marx viết :
“Một vật nào đó chỉ được coi
là tự-lập, khi nó đứng vững được trên hai bàn chân ; và nó chỉ đứng vững được
như thế, khi nó tự mình mà có. Người nào nhờ vào kẻ khác mà sống, tất phải coi
mình là một vật tùy-thuộc. Tôi sống hoàn-toàn nhờ vào người khác, không những
vì tôi nhờ người đó mà có phương-tiện sinh sống, mà còn vì người đó tạo ra đời
sống của tôi, là nguồn gốc đời sống của tôi, và nếu tôi không tự tạo ra được
sinh-mệnh của tôi thì nền tảng sinh-mệnh tôi là cái gì ngoại lai. Vì thế
quan-niệm rằng có một vị tạo-thành trời đất, là một quan-niệm khó mà đẩy ra khỏi
ý-thức của dân-chúng. Nói rằng
thiên-nhiên và con người tự mình mà có, thì dân-chúng không thể hiểu được, vì
đó là điều đi ngược lại những cái tai nghe mắt thấy trong cuộc sống thực hành”.
Nhận xét :
Trong đoạn
văn này Marx bàn luận về quan-niệm của nhà thần-học và triết-gia Friedrich
Schleiermacher (1768-1834), cho rằng người ta có tôn-giáo là vì cảm thấy là mình
tùy thuộc vào ngoại-giả. Marx nhìn nhận sự-kiện ấy là đúng : dân-chúng thường
tin có một vị tạo thành trời đất, vì cảm thấy mình tùy thuộc vào ngoại-giả.
Nhưng ông cho rằng có thể tương-đối-hóa sự-kiện đó : có thể là sự-kiện ấy không
phải lúc nào cũng đúng. Và, như sẽ giải-quyết sau đây, nếu ta làm được cho người
ta cảm thấy là mình tự-lập chứ không tùy-thuộc vào ai, thì tất nhiên vấn-đề
Thiên-Chúa tạo thiên lập địa cũng tiêu tan đi
û.
Cũng vào
thời đó, Feuerbach lại giải-quyết vấn-đề theo lối khác : nếu người ta đặt ra
thần-linh để trả lời cho câu hỏi về thân-phận tùy-thuộc của mình, thì rốt cục
chính mình là mục-đích tối cao của tôn-giáo, nghĩa là chính mình là vô thần
.
2.2.2- Chứng-lý khoa-học
Marx viết :
“Quan-niệm cho rằng trái đất
này đã được tác tạo nên, đã bị lung lay vì khoa-học nghiên cứu về quả địa cầu tự
mình thành hình và biến chuyển (Geognosie). Quan niệm “tự nhiên nhi sinh”
(generatio aequivoca) là lý thuyết duy nhất phi bác một cách thực tiễn quan niệm
“tạo thiên lập địa”.
Nhận xét :
Để phi bác quan niệm tạo
thiên lập địa, Marx muốn tựa vào khoa học đang ở vào thế đi lên, nhưng chưa đi
tới giai đoạn suy nghĩ lại xem các ý niệm và các lý thuyết khoa học do người ta
tác tạo nên có giá trị đến mức nào. Không cần phải đi sâu vào phương pháp phê
bình khoa học ta cũng nhận thấy rằng các lý thuyết khoa học đã thay đổi rất
nhiều để duy trì được cái nhìn lý sự nhất quán mỗi khi các sự kiện ta quan sát
trở nên phiền tạp mâu thuẫn. Vấn đề không phải là đưa hai lý thuyết ra chọi với
nhau, nhưng là xem lý thuyết có ăn khớp được các sự kiện hay không, đồng thời
lại phải phân biệt ra nhiều loại sự kiện, nhiều loại kinh nghiệm khác nhau. Vì
thế ta không biết đối với Marx, chứng lý này có tầm quan trọng là bao nhiêu.
2.2.3-
Tìm về đệ nhất nguyên nhân
Marx viết :
“Muốn giải
thích cho một cá nhân đứng riêng rẽ, thì rất dễ. Ta chỉ cần lấy lại lập luận của
Aristoteles : Anh là do cha mẹ anh sinh ra. Con người của anh chứng tỏ rằng hai
người hợp với nhau, thực hiện công tác của loài người,
mà sinh ra người. Như vậy anh thấy được rằng ngay trên bình diện vật chất, thì
con người nhờ có con người mà có. Vì thế anh không được để mắt nhìn vào một khía
cạnh duy nhất, vào câu hỏi truy nguyên cho đến kỳ cùng : ai đã sinh ra cha tôi,
ai đã sinh ra ông tôi, v.v... Anh cũng phải xác nhận rằng trong cái tiến trình
cụ thể của việc sinh sản, thì người vẫn ï sinh ra người, người vẫn tự sinh ra
mình, tiến triển theo vòng tròn, và vì thế con người lúc nào cũng là chủ động.
Nhưng anh có thể vặn lại tôi rằng : nếu tôi nhận với ông là có tiến triển theo
vòng tròn, thì xin ông cũng nhận cho tôi có quyền truy nguyên cho đến câu hỏi
này : ai đã sinh ra người đầu tiên, đã sinh ra thế giới tự nhiên ? Đến đây tôi
chỉ có thể trả lời cho anh như sau : cái câu hỏi của anh chính là một sản phẩm
trừu tượng. Anh thử tự hỏi xem vì sao anh đặt ra câu hỏi đó ; anh thử tự hỏi xem
có phải vì anh đặt câu hỏi trong một quan điểm lộn ngược, mà tôi không trả lời
được. Anh thử tự hỏi xem có thể có tiến triển như thế hay không đối với một
người có tư tưởng lý sự. Nếu anh đặt câu hỏi về việc tác tạo con người và thiên
nhiên, thì tức là anh đứng ra ngoài thiên nhiên và con người. Anh giả thiết là
không có thiên nhiên, không có con
người, rồi anh đòi tôi phải minh chứng là có.
Vậy tôi bảo thực anh : Anh hãy bỏ cái lối suy luận trừu tượng như thế, thì câu
hỏi của anh cũng tiêu tan đi ; nhưng nếu anh còn cứ giữ lối suy luận trừu tượng
như thế, thì anh phải đi cho đến cùng : nếu anh cho rằng không có con người,
không có thiên nhiên, thì anh cũng phải cho rằng không có anh, vì lẽ anh cũng là
thiên nhiên và là người. Thôi, anh đừng tư tưởng gì nữa, đừng hỏi gì tôi nữa, vì
hễ anh tư tưởng, hễ anh đặt câu hỏi, thì cái giả thiết rằng không có thiên
nhiên, không có con người, cũng thành ra vô nghĩa. Hay là anh chỉ biết nghĩ đến
anh mà thôi, anh cho rằng tất cả đều là không có, thế mà anh lại muốn rằng có
anh ?
Đến đây anh có thể vặn lại
tôi mà nói rằng : tôi đâu có giả thiết là không có thiên nhiên v.v. ; tôi chỉ
hỏi ông xem có tác động nào đã phát sinh ra thiên nhiên, cũng như tôi hỏi nhà
sinh lý học cho biết bộ xương thành hình như thế nào”.
Nhận xét :
Cái chứng lý theo lối truy
nguyên, tìm về đệ nhất nguyên nhân, để minh chứng là có Thiên Chúa, đó là một
chứng lý rất thông dụng ở Aâu châu, lại vừa dễ hiểu. Triết gia Đức là Kant
nghĩ rằng chứng lý này chỉ có thể đưa ta tới một vị kiến trúc sư an bài vũ
trụ (Weltbaumeister), chứ không đưa tới vị Thiên Chúa tác tạo nên vũ trụ. Nhưng
Marx tránh không bàn đến lập luận đó, ông muốn gạt nó ra ngoài, bằng hai cách :
1)
Con người tự làm ra mình
Marx không
muốn truy nguyên, đi từ hiệu quả trở ngược vềø nguyên nhân. Oâng dừng ngay lại ở
bước đầu cho rằng trong tiến trình sinh sản thì “người vẫn ï sinh ra người,
người vẫn tự sinh ra mình, tiến triển theo vòng tròn, và vì thế con người lúc
nào cũng là chủ động”. Đây là một lối ngụy biện rất dễ vạch ra : ai
chẳng biết là người sinh ra người, cũng như trâu đẻ ra trâu, nhưng ai chẳng biết
rằng người này sinh ra người kia, chứ không có người nào tự mình sinh ra mình
cả. Thực ra chính Marx cũng đã phi bác cái ngụy biện đó trong cuốn Ý thức hệ
bên Đức. Khi nói rằng người ta tùy thuộc lẫn nhau thi ông viết : “Quan niệïm
này lại có thể được hiểu theo lập trường suy luận duy tâm, quá sức tưởng tượng,
cho rằng ‘chủng loại tự mình sinh ra mình’, làm như thể là cái chuỗi các cá nhân
kế tiếp nhau có thể được coi như là hiện thân của cái mầu nhiệm “tự mình sinh ra
mình”. Ta thấy rằng các cá nhân tác tạo nên nhau, về bình diện vật chất
cũng như tinh thần, nhưng không có tự tạo ra mình, như quan niệm vô lý
của thánh Brunô, hay của (tác giả sách) Con người duy nhất”.
2)
Đặt vấn đề như thế là phi lý
Nếu
trên đây Marx chuyển lập luận truy nguyên theo đường thẳng, đi từ hậu quả trở
thẳng về nguyên nhân, thành ra đường vòng (con người tự làm ra mình), thì là vì
ông cho rằng việc truy nguyên như thế cho đến kỳ cùng là một việc vô lý, vì đi
không bao giờ đến, như trước đó 23 thế kỷ Aristoteles đã nhận định, và nói là
phải biết dừng lại (anankê stênai). Marx đã mất bình tĩnh trước một đối
thủ cứ nhất định đòi truy nguyên theo đường thẳng như thế, ông bảo : như thế tức
là giả thiết rằng không có thiên nhiên, không có con người, rồi đòi ông phải
minh chứng là có. Nhưng đối thủ không chịu và nói rằng mình không có giả thiết
như thế. Câu trả lời của Marx không thỏa mãn được đối thủ, vì người ta chỉ hỏi
làm sao mà có những cái đang có bây giờ, thế thôi.
Nhưng bây
giờ chúng ta cứ giả sử là đối thủ đặt ra giả thiết như Marx gán cho họ, nghĩ là
họ tư tưởng rằng không có thiên nhiên và không có con người. Như thế kết quả ra
sao ? Marx nói rằng như thế thì đối thủ bó buộc phải tư tưởng rằng chính mình
cũng không có nốt ! Nhưng Marx không thể bắt buộc như thế được, vì như đã nói ở
đầu bài này, theo như suy luận của Descartes, ai nấy đều biết là : tôi tư
tưởng, thì tất nhiên là có tôi (je pense, donc je suis) , nghĩa là tôi
không thể nói là không có tôi, vì câu nói đó tự nó hủy diệt nó.
Vì thế theo đúng như đòi hỏi của Marx, người đối thủ lại bó buộc phải nhận rằng
mình là có thực !
2.2.4- Chứng lý lấy từ đời
sống thiết thực trong xã hội
Marx viết :
“Nhưng đối
với người theo xã hội chủ nghĩa thì
tất cả cái gọi là lịch sử thế giới
chẳng qua chỉ là sự sản xuất ra con người do lao
động của con người,
chỉ là sự biến chuyển của thiên nhiên theo hướng con người (das Werden der Natur
fuer den Menschen), như thế là có được chứng cớ hiển nhiên không chối cãi được,
là con người
tự mình sinh ra mình, chứng cớ về lịch
trình phát sinh ra mình. Vì lẽ rằng thực tại cốt yếu
của con người đã xuât hiện ra tỏ tường trong thiên nhiên
; vì lẽ rằng thiên nhiên là nơi người ta có mặt đối với nhau một cách thực
tiễn, tỏ tường, ai nấy đều cảm thấy được, cho nên trong thực tế không còn có thể
đặt vấn đề xem có một thực thể nào khác, ở ngoài và ở trên thiên nhiên và con
người : vì đặt vấn đề như thế tức là nhận định rằng thiên nhiên và con người
không có gì là chính yếu cả. Chính vì thuyết vô thần là phủ nhận cái nhận
định ấy, cho nên nó cũng thành ra vô nghĩa, vì vô thần là phủ nhận Thiên
Chúa để khẳng định thực tại của con người ; nhưng xã hội chủ nghĩa tự
nó không còn cần đến thứ môi giới quanh co như thế ; vì bước đầu của xã hội chủ
nghĩa là, trong lý thuyết cũng như trong thực hành, ý thức ngay rằng con
người và thiên nhiên là có thực. Như thế là con người trực tiếp ý thức được
về chính mình một cách tích cực, mà không cần gián tiếp đi qua giai đoạn phủ
nhận tôn giáo nữa ; cũng như đời sống thiết thực là thực thể tích cực của con
người, ta trực tiếp nhận ra thực thể đó mà không cần gián tiếp đi qua giai đoạn
tiêu diệt tư sản, và đó là cộng sản
.
Cộng sản là yếu tố tích cực, nó không nhận cái phủ nhận, vì thế nó chính là
giai đoạn con người tự giải phóng, lấy lại được bản thân của mình, đó là giai
đoạn cần thiết cho bước tiến triển tới đây của lịch sử. Cộng sản là hình
thức cần thiết của động lực đưa tới tương lai gần đây, nhưng tự nó không phải là
mục đích con người phải tiến tới, không phải là hình thức của xã hội loài người”.
Nhận xét :
Đoạn này khá dài dòng văn
tự - nên nhớ đây chỉ là cặp vở ghi chú, chỉ là bản nháp, không định để cho in.
Đại ý là các vấn đề đặt ra không thể có câu giải đáp lý thuyết, nhưng phải giải
đáp bằng thực hành.
Trong thực hành, lao động
đóng một vai trò quan trọng, không phải là để cho con khỉ biến thành con người,
như Engels quan niệm, nhưng là để đem tinh thần của con người vào trong thiên
nhiên, biến đổi thiên nhiên, đem dự định của con người thực hiện trong sự vật,
làm cho thiên nhiên có bộ mặt quen thuộc của con người; đồng thời con người thực
hiện bản tính của mình trong thiên nhiên, và vì thế cũng có một bộ mặt thiên
nhiên. Các sự vật trong thiên nhiên được chuyển thành dụng cụ, như thể là chân
tay con người nối dài ra vậy. Như vậy thiên nhiên không còn phải là môi trường
xa lạ đe dọa con người : nhờ có lao động mà con người sống an ninh trong thiên
nhiên như trong nhà mình vậy.
Đối với duy tâm chủ nghĩa,
thì liên quan giữa con người và vũ trụ là liên quan lý thuyết : vũ trụ là đối
tượng của tri thức. Lấy thực hành, lấy lao động thay vào tri thức, Marx cho rằng
vũ trụ chỉ được coi là có, khi nó có liên quan thực hành với con người biết lao
động. Người duy tâm cho rằng bên ngoài tư tưởng thì không có gì hết, cũng thế
Marx cho rằng không có gì ngoài thực hành cả. Nói thế khác, ngoài thế giới thiên
nhiên đã được lao động làm cho có bộ mặt người, thì có gì, không có gì đáng kể
cả. Chính vì thế mà ta không còn lý do gì để đặt câu hỏi xem ở ngoài và ở trên
thiên nhiên và con người, còn có ai, hay là còn có gì không. Vì thế Marx chủ
trương rằng lập trường của ông vừa là nhân bản (humanismus) vừa là nhiên bản
(Naturalismus).
Đến đây ta thấy rõ là con
người theo quan niệm Marx, lao động và sống trong xã hội, đã thành ra thực thể
toàn diện, và thay thế cho tinh thần tuyệt đối của Hegel. Nhưng nếu ta nhớ lại
rằng tinh thần, theo quan niệm của Hegel không phải là trừu tượng, nhưng còn tự
thể hiện trong vật chất cụ thể, trong lao động, trong hoạt động kinh tế và chính
trị, thì ta có cảm giác rằng Marx lấy lại quan niệm của Hegel, nhưng gọi khác
tên đi, thay vì tinh thần thì nói vật chất, thế nhưng tựu chung thì trong tư
tưởng biện chứng thì tinh thần và vật chất không tách rời nhau được !
Cần phải nói thêm cho rõ, là
các chứng lý cổ điển biện minh rằng có Thiên Chúa đã được đưa ra trong cách lập
vấn hoàn toàn khác. Các chứng lý đó chỉ có tính cách lý thuyết mà thôi. Vì một
là những người đưa ra chứng lý như thế họ đã tin có Thiên Chúa rồi, chứ không
đợi phải có chứng lý đó mới tin ; hai là khởi điểm của lý luận là thiên nhiên có
đó trước mắt, chứ không phải là thiên nhiên đã do bàn tay con người nhào nặn
biến đổi. Vì không do con người biến đổi, cho nên thiên nhiên xuất hiện như
không phải là do con người tạo ra; từ đó người ta truy nguyên cho đến nguyên
nhân đệ nhất.
Trong quan điểm biện chứng
thì khác : ta trông vào thiên nhiên, thấy nó đã do con người nhào nặn, định hình
rồi, cho nên không tìm xem thiên nhiên tự nó là thế nào, từ đâu mà có ; chính
vì người ta đã lao động và chiếm hữu thiên nhiên cho nên không thấy nó xa lạ, ỏ
ngoài con người nữa. Vì con người lao động để thể hiện bản tính của mình trong
thiên nhiên , cho nên Marx coi đó là chứng cớ hiển nhiên làm cho ta thấy rằng
con người ta tự mình sinh ra mình, tự mình làm nên mình, không cần hỏi xem có ai
tạo ra mình hay không.
Trong bộ
sách dân tộc học, hơn một chục cuốn, Nguồn gốc ý tưởng Thiên Chúa (Ursprung
der Gottesidee) xuất bản rải rắc trong tiền bán thế kỷ XX, Wilhelm Schmidt
nhận định rằng các dân tộc sơ khai, hái quả và săn thú vật mà sống, chứ không
can thiệp vào thiên nhiên, thì có ý tưởng về Thiên Chúa ; còn khi biết lao động,
biết dùng kỹ thuật sản xuất, thì thấy rằng các sự vật trước mắt đều là do con
người làm cho nó ra như thế. Vì thế người ta không hiểu được những chứng lý cổ
điển
.
Nhưng phải chăng những chứng
lý đó đã thành ra vô giá trị trong thời đại kỹ thuật ? Vấn đề cần phải xét lại
cho rõ. Dĩ nhiên là thế giới chúng ta ở bây giờ là do lao động và kỹ thuật mà
có. Nhưng lao động và kỹ thuật chỉ áp dụng được vào cái gì đã có sẵn đó trước,
kỹ thuật của ta không tạo ra các định luật khoa học, nhưng phải tựa vào những
định luật không do ta tạo ra, mới có công hiệu. Thực ra kỹ thuật và lao động
của ta đã định hình cho thiên nhiên có bộ mặt mới, chứ không tạo ra thiên nhiên.
Marx đã nhận thấy rằng ý
tưởng tạo thiên lập địa đã in sâu vào tâm thức của dân chúng, vì không ai thấy
một cách hiển nhiên rằng người ta tự mình sinh ra mình. Vì thế câu trả lời thực
hành trên đây của Marx chỉ nhằm giải quyết một nửa vấn đề mà thôi.
Nhưng ngay
một nửa vấn đề đó mà thôi thì thực hành của nhân loại cũng chưa giải quyết được
bao nhiêu. Triết gia Pháp, đi theo học thuyết của Marx, là Henri Lefèbvre đã
viết về điểm đó như sau : “Trong vũ trụ này thì cái phần mà người ta chưa làm
chủ được vẫn còn rất mênh mông. Trong phạm vi thiên nhiên, cái phần đó là các sự
kiện
,
và những cái hoàn toàn ngẫu nhiên. Còn trong bản thân con người ta, cái phần
chưa làm chủ được, đó là những hiện tượng bộc phát (spontanéité), những hiện
tượng vô ý thức, đó là cái định mệnh trong đời sống tâm lý và xã hội. Cái phần
đó gồm tất cả những tác động mà người ta không định hướng nổi, cũng không làm
cho vững được, nghĩa là những cái mà người ta chưa “làm ra” (produit) được cho
nhau. Đó là cái phần của thực tại chung quanh con người và chính ở trong con
người, nhưng chưa được nhân hóa, chưa được tác động thực hành động chạm tới”.
Tác giả còn nhắc tới một vấn đề trong phạm vi đó là cái chết, nhưng không có bàn
rộng ra. Tác giả cũng nghĩ rằng : đứng trước cái phần chưa làm chủ được, thì
người ta thường phản ứng bằng cách dùng phù thủy ma thuật, giải thích bằng huyền
thoại và tôn giáo, nhưng chỉ có khoa học là có thể giúp cho người ta làm chủ
được vũ trụ.
Quan niệm
đó đúng là tin tưởng của Marx : làm thế nào để tất cả những cái gì người ta
chung nhau làm ra, như các sản phẩm, các định chế xã hội, đều không được biệt
lập ra ngoài con người và chống lại con người. Nhưng chắc gì là người ta có thể
hủy diệt được những sự kiện tự nhiên có đó và không do ta tác tạo nên, ví dụ như
cái chết, vì dù sao cũng phải nhận rằng con người có giới hạn
.
Có thể nói
là tư tưởng của Marx tự đóng khung trong cách lập vấn của ông. Cái gì ông nghĩ
con người ta làm chủ được thì ông xét, cái gì không làm chủ được thì ông cho là
không có vấn đề. Vì thế khi có đối thủ đặt câu hỏi mà ông không trả lời được,
ví dụ như vấn đề Thiên Chúa, thì ông gạt đi, cho rằng không được hỏi, vì không
có vấn đề. Theo đúng lập trường đó, Marx viết ra câu tuyên ngôn
:
“Nhân loại chỉ đặt ra
những vấn đề mà mình có thể giải quyết được”
Như thế thiết tưởng có bàn
luận thêm cũng không đi đến đâu cả.
__________
Chú thích
Xem MEGA I / 1 / 1, tr 260-265.
MEGA bộ mới (in tại Berlin năm 1982) là : I / 2, tr 325-418. Trước đó
thì chính-quyền Đông-Đức không cho in ra đầy-đủ trong bộ Marx-Engels
Werke (MEW), lại phân-tán nó ra trong nhiều tập.
Có mấy triết-gia đã bàn-luận giải-thích Bản thảo đó, như : Georg
Lukàcs (Budapest), “Zur philosophischen Entwicklung des jungen Marx
(1840-1844)”, trong Deutsche Zeitschrift fuer Philosophie,
(Berlin), tập 2 (1954) , tr 288-342 ; và Auguste Cornu, Karl Marx –
Die oekonomisch-philosophischen Manuskripte, Berlin, 1955. Từ đó
người ta mới nhận ra tầm quan-trọng của nó.
Đó là bài « Phê-bình triết-lý của Hegel về Pháp-luật. Phần dẫn-nhập” vừa
in ra trong Niên-san Đức Pháp. Cũng nên nhắc lại là tuy Marx
phê-bình rất gắt-gao tác-phẩm Những nét đại-cương của Triết-lý về
Pháp-luật của Hegel (1821), nhưng thực ra là chỉ phê-bình lý-thuyết
chính-trị trong đó mà thôi, còn những phân-tích rất hay của Hegel về
kinh-tế và về lao-động, thì Marx lấy làm của mình, màkhông nhắc đến tên
người đã xướng-xuất ra !
Vì phê-bình tôn-giáo mà Feuerbach không được vào dậy đại-học. Sau khi
viết về đạo Thiên-Chúa, ông còn lần lượt cho xuất-bản các khóa-trình về
tôn-giáo nói chung và về nguồn gốc thần-linh.
MEGA I / 2, tr 400-401. – Oeuvres , Economie II, tr 120-121. Marx viết
tiếp : « Vậy công-lao của Feuerbach là thế nào ? Một là : ông đã
minh-chứng rằng triết-học chẳng qua chỉ là tôn-giáo được chuyển sang
bình-diện tư-tưởng và được quảng-diễn thêm ra, và vì thế cũng đáng lên
án như tôn-giáo, vì cùng là lối diễn-tả cái tình-trạng vong-thân của con
người. Hai là : ông đã lấy liên-quan xã-hội, « liên-quan giữa
người vơi người » làm căn-bản cho lý-thuyết, và như thế là ông đã đặt
nền tảng cho chủ-nghĩa duy-vật chính hiệu và cho khoa-học thực thụ vế
con người. Ba là : thay vì coi sự phủ-định cái tiêu-cực làm cái
tuyệt-đối tích-cực, thì ông lấy cái tích-cực tự nó làm nền tảng cho
nó ».
Xem : Klaus Bockmuehl, Leiblichkeit und Gesellschaft,
Giessen-Basel, tái bản và bổ-túc năm 1981.
Trong bài hậu-từ viết khi tái-bản sách Tư-bản-luận, tập I, năm
1873, Marx viết : “Phương-pháp biện-chứng của tôi không những căn-bản nó
khác cái của Hegel, mà nó còn ngược hẳn lại.
Hegel cho rằng cái hành-vận của tư-tưởng, mà ông nhân-cách-hóa và gọi là
Ý-tưởng, là cái tạo ra thực-tại, cho nên thực-tại là thể-thức xuất-hiện
của Ý-tưởng. Ngược lại, tôi cho rằng cái hành-vận của tư-tưởng chỉ là
phản-ảnh cái hành-vận của thực-tại, được di-chuyển và biến-chuyển trong
đầu óc con người ta mà thôi. (...) Hegel đã lấy thần-bí mà làm méo-mó
biện-chứng; tuy vậy ông vẫn là người đầu tiên trình-bầy ra được toàn-bộ
cái hành-vận đó. Biện-chứng của Hegel đi ngược đầu xuống, bây giờ chỉ
cần dựng đứng nó lên hai chân, là thấy được bộ mặt hoàn-toàn có lý-sự
của nó” (Bản dịch Pháp văn của J. Roy, Le Capital, livre I,
Paris, Garnier-Flammarion, tr 583-584. – Karl Marx, Oeuvres,
Eùconomie I, (Eùd. par M. Rubel), Bibliothèque de la Pléiade, tr
558.
Kritik des hegelschen Staatsrechts (1843), MEGA , I / 2, tr
5-137. Bản dịch Pháp văn là Critique du droit
politique de Hegel (dịch-giả : Albert Baraquin), Paris, Ed.
Sociales, 1975.
Cũng trong sách đã dẫn trong ghi-chú số 17 ngay trước đây, vài dòng sau
đoạn văn đã dẫn.
Thường-thường thì chữ Begriff (gốc chữ là greifen, nghĩa
là nắm chặt được), người ta quen dịch là ý-niệm, nhưng
Hegel dùng nó theo nghĩa mới, không coi nó như là một ý-tưởng trừu-tượng
trong đầu óc, nhưng coi nó là do lối nhìn tổng-hợp, nắm chặt được
cả phần trừu-tượng lẫn phần cụ-thể của thực-tại, vì thế tôi đề-nghị dịch
là « ý-niệïm nhất-quán ».
Hai chữ Hán-Việt « pháp-luật » không nói lên được hết ý-nghĩa của những
chữ Â-châu : Recht (Đức), Right (Anh), Droit (Pháp), Diritto (Ý),
Derecho (Y-pha-nho), v.v. Những chữ ấy có nghĩa gốc là « thẳng », « bên
tay phải », rồi dùng để chỉ « tính-tình thẳng-thắn », « điều
phải lẽ » ; ở đây nó vừa có nghĩa là « pháp-luật » (có tính-cách gò
bó con người), vừa có nghĩa là « quyền-lợi » của con người.
Quan-niệm của Aristoteles (triết-gia Hi-lạp, 384-322 trước Tây lịch
kỷ-nguyên) về đời sống xã-hội cũng nói đến ba thực-tại đó, nhưng ông cho
rằng lao-động để có tài-sản nuôi sống con người, là hoạt-động thuộc vềø
phạm-vi nội bộ của gia-đình, thuộc về « gia-pháp », do hai chữ « oikos »
= cái nhà, và « nomos » = luật, hai chữ đó chắp lại thành danh-từ để chỉ
« kinh-tế » (Pháp : économie ; Đức : Oekonomie). Nhưng Hegel nhận-định
rằng hoạt-động kinh-tế vượt ra ngoài phạm-vi gia-đình, vì nó thuộc về
phạm-vi xã-hội dân-sự (Pháp : société civile, Đức : buergerliche
Gesellschaft), là cấp nằm ở giữa gia-đình và nhà nước.
Marx suy-luận như sau : đã chủ-trương là lấy cái Lý mà tổ-chức nhà nước
như Hegel, thì sao lại lấy cái yếu-tố sinh-lý vật-chất làm tiêu-chuẩn để
chọn người đứng đầu nhà nước. Oâng viết : « Thân-xác của nhà vua
là yếu-tố làm cho vua có chức-vị. Thế nghĩa là cái định đoạt ở trên chóp
nhà nước không phải là cái Lý, nhưng là cái yếu-tố sinh-lý tự-nhiên.
Chọn vua thì chọn người tốt giống, đó cũng là nguyên-tắc dùng trong việc
chăn nuôi gia súc vậy » ( MEGA I / 2, tr 34. – OEUVRES III,
Philosophie, tr 906).
Nếu Marx chỉ chú-trọng vào cấp thứ hai là lao-động và kinh-tế, thì
Engels đã bàn tới cả ba cấp, trong sách Nguồn gốc gia-đình, tư-sản và
nhà nước, 1884 (Marx-Engels, Oeuvres choisies, in tại
Liên-Xô, năm 1970, tập 3, tr 200-354), nhưng không viết theo quan-điểm
triết-học như Hegel, mà là viết theo giả-thuyết dân-tộc-học cuối thế-kỷ
XIX của Lewis H. Morgan (Ancient Society, London, 1877), và đứng trong
lập-trường duy-vật.
Xem bài Tựa viết năm 1845, khi cho in bộ Tác phẩm toàn tập ,
trong :Gesammelte Werke, tập 10, tr 189.
Chỉ có F. Engels không hiểu vấn-đề, đồng thời chịu ảnh-hưởng của thuyết
biến-hóa « người bởi khỉ », mới dám viết năm 1876 một bài nhan đề là
« Vai trò của lao-động trong lịch-trình làm cho loài khỉ biến thành loài
người » , đăng trong tạp-chí Neue Zeit (Thời mới), Bộ 2, số 44,
năm 1895-1896 (Marx-Engels, Oeuvres choisies, in tại Liên-Xô, năm
1970, tập 3, tr 66-78), và sau được đưa vào sách Thiên-nhiên
biện-chứng (Dialektik der Natur, MEW, tập 20, tr 444-455.
Theo như cổ-vật-học thì sự xuất-hiện của dụng-cụ là dấu chỉ thời-gian
nhân-loại phát-sinh.
Marx thường trách chủ-nghĩa duy-vật thế-kỷ XVIII bên Pháp là thứ
duy-vật quê mùa, không có tính-cách biện-chứng.
« Entfremdete Arbeit und Privateigentum », MEGA I / 2, tr 363-375. –
Bản tiếng Pháp : Le travail aliéné, Oeuvres-Economie II, tr
56-70). Sau đây tôi trình-bầy đại-ý, nhưng không trưng-dẫn từng đoạn
văn.
Trích dẫn theo : Michael von Gagern, Ludwig Feuerbach, Philosophie-
und Religionskritik, Die Neue Philosophie, Muenchen-Salzburg, 1970,
tr 118.
MEGA I / 2, tr 397-399. – Oeuvres-Eùconomie II, tr 88-90.
Thời Thượng-cổ đã có những triết-gia cho rằng đó là vì sợ hãi và
vì ngu-dốt : sợ các mãnh-lực thiên-nhiên, mà mình không
giải-thích được. Schleiermacher chủ-trương rằng tôn-giáo không thuộc về
phạm-vi trực-giác của giác-quan, cũng không nằm trong phạm-vi
lý-luận của lý-trí, nhưng trong phạm-vi của tình-cảm.
Về
điểm này, triết gia người Nga là N. Berdiaev (trước theo cộng sản, sau
theo đạo Thiên Chúa trong tông phái chính thống, 1874-1948) có viết
trong tiểu sử hành trình tinh thần của ông như sau : « Ngược lại quan
niệm của Feuerbach và nhiều người khác, tôi tin rằng tôn giáo không phải
là vì người ta cảm thấy mình tùy thuộc, nhưng là cảm thấy mình tự lập.
Nếu không có Thiên Chúa, thì con người hoàn toàn tùy thuộc vào thiên
nhiên và vào xã hội, vào vũ trụ và vào nhà nước. Nếu có Thiên Chúa thì
về mặt tinh thần con người tự lập, có hành vi cử chỉ tự do, chứ không
phải là tùy thuộc đối với Thiên Chúa. Có Thiên Chúa tôi mới được tự do
và có phẩm giá về mặt tinh thần » (Essai d’Autobiographi spirituelle,
NXB Buchet-Chastel, Paris, 1958, trang 222).
Xem lý-luận tỉ-mỉ hơn trong bàt « La critique de la religion par Marx »,
Revue philosophique de Louvain, tập 68 (1970), tr 69.
Nên chú ý là quam niện về con người nhân loại như thế này là quan niệm
của Feuerbach : đó là liên quan giữa hai người nam nữ. Quan niệm của
Marx thì nhấn mạnh vào liên quan kinh tế va chính trị.
MEGA bộ cũ, I / 5, tr 27. – “Thánh Brunô” là cách nói chế diễu triết gia
và nhà thần học Bruno Bauer (1809-1882), trước chơi thân với Marx, nhưng
sau thành địch thủ của ông. Marx công kích kịch liệt Bauer trong hai
cuốn sách Thánh gia (Die heilige Familie, oder Kritik der kritischen
Kritik, 1845) và Ý thức hệ bên Đức (Die deutsche
Ideologie, 1845-1846). Còn tác giả sách Con người
duy nhất và đặc điểm của nó (Der Einzige und sein Eigentum,
1845) là triết gia Johann Kaspar Schmidt (1806-1856) có bút hiệu
là Max Stirner.
Xem : Norman Malcolm, « Descartes’s Proof that his Essence is
thinking », trong The philosophical Review, vol LXXIV, số 3,
tháng 7-1965, trang 333 : “I believe that the ultimate logical truth
underlying Descartes’s Cogito is the fact that the statement “I
do not exist” is necessarily self-defeating”.
Thiết tưởng ý kiến này đã làm cho Engels nghĩ rằng lao động làm cho con
khỉ biến thành con người !
Ở đây tôi không theo cách đọc của bộ MEGA (là : “Indem die
Wesenhaftigkeit des Menschen und der Natur ...”) vì không rõ nghĩa,
nhưng theo cách đọc của Lieber và Furth (là : “Indem die
Wesenhaftigkeit des Menschen in der Natur ...” , trong Marx-Werke
I, trang 607), vì hợp với tư tưởng của Marx.
Nên chú ý rằng từ ngữ “cộng sản” , vì nó chỉ nói đến tài sản mà thôi,
cho nên không nói lên đủ ý nghĩa của từ ngữ “Kommunismus”, dùng để chỉ
thực tại “con người nhân loại”, như đã trình bầy trên đây.
Tình trạng đó, Thánh kinh của đạo Thiên Chúa đã biết rồi. Ta có thể đọc
trong sách Đệ nhị luật (Deutéronome), đoạn 8, câu 12-18, lời huấn
nhủ sau đây : “Khi anh em được ăn, được no nê, khi anh em xây nhà đẹp
để ở, khi anh em có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và nhiều mọi
thứ của cải, thì lòng anh em đừng kiêu ngạo mà quên Đức Chúa (...) Anh
em đừng tự bảo : “Chính năng lực của tôi và sức mạnh bàn tay tôi đã tạo
ra cho tôi sự giàu có này”. Anh em hãy nhớ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, vì Người ban cho anh em năng lực tạo ra sự giàu có (...)”.
facticité : sự kiện mà ta bó buộc phải công nhận vì nó không do con
người tạo nên.
Henri Lefèbvre, Le matérialisme dialectique (Thuyết duy vật biện
chứng), Paris, 1957, trang 122.
Bỉ nhân có viết một bài nhan đề là « Marx et le problème de la mort »
(Marx và vấn đề cái chết), trong Universitas, số đặc biệt của tạp
chí Mélanges de Science Religieuse , tập 34, năm 1977, trang
187-196, kỷ niệm 100 năm thành lập Đại học Công giáo Lille (Pháp).
Câu này ông Trần Đức Thảo trưng dẫn ở trang đầu trong sách bàn về
Hiện tượng học và duy vật biện chứng (Phénoménologie et matérialisme
dialectique, Paris, 1951). Thật là đúng tinh thần Marx.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VAI
TRÒ TRẦN THẾ KHÔNG THỂ THAY THẾ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN
|
NGUYỄN HỌC TẬP
I - Vai trò không thể
thay thế của người tín hữu giáo dân.
1 - Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolồ II trong phần đầu của Thông Điệp " Người tín hữu
giáo dân của Chúa Ki Tô " ( Christifideles laici)
đã đề cập đến vai trò không thể thay thế của người tín hũu giáo
dân trong các lãnh vực trần thế như sau:
- " Trong thời điểm
huy hoàng và thảm đạm nầy của lịch sử, trước ngàn năm thứ ba
đang đến, những hoàn cảnh mới, đối với Giáo Hội cũng như xã hội,
chính trị và kinh tế, hiện nay đòi buộc với một động lực đặc
biệt tác động của các người tín hữu giáo dân. Nếu thái độ dững
dưng buông trôi lúc nào cũng có thể bị coi là cách hành xử không
thể chấp nhận được, thì trước thời điểm hiện tại thái độ đó là
thái độ phạm tội. Không ai được phép ăn không ngồi rồi phủi tay,
điềm nhiên toạ thị " ( ĐTC Gioan Phaolồ II,
Christifideles laici ( 30.12.1988), n. 3).
Giải thích một cách nôm
na câu văn vừa kể của Thông Điệp: người tín hữu giáo dân trưởng
thành cần phải dấn thân rao giảng Phúc Âm và đem phục vụ Ki Tô
giáo vào trần thế.
Nói cách khác, không
có người tín hữu giáo dân trưởng thành và dấn thân, hiện nay
Giáo Hội không thể hiện diện được giữa trần thế với các động
tác, để chu toàn sứ mạng rao giảng Phúc Âm của mình.
Nói như vậy không có
nghĩa là từ nay Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm không cần có
hàng giáo phẩm, mà là một nhận thức đức tin trưởng thành, để
truyền bá Phúc Âm trong môi trường đổi mới của thế giới hiện
tại.
Nhận thức trên nói lên
xác tín của mọi thành phần Giáo Hội đều có bổn phận
- " tham dự vào
lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và
sứ mạng của mình" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles
laici, n. 15).
Điều vừa kể về bổn phận
hiện diện giữa trần thế của Giáo Hội đưa đến một kết luận quan
trọng:
- trần thế không phải
là nơi lưu đày cần phải thoát ly, vượt ngục, trốn chạy,
- mà là một "
không gian thần học ", nơi mà mọi tín hữu Chúa Ki Tô, nhứt
là người tín hữu giáo dân, đều được mời gọi sống và tác động để
rao giảng và nhân chứng cho ơn cứu rổi của Chúa Ki Tô.
Người tín hữu giáo dân
có bổn phận đặc biệt trong phận vụ tác động đó của cả Giáo Hội:
- " Hình ảnh Phúc Âm
về muối, ánh sáng và men bột, mặc dầu liên hệ đến bất cứ thành
phần nào đối các môn đệ Chúa Giêsu, nhưng nói lên ý nghĩa áp
dụng cá biệt đối với người tín hữu giáo dân. Đó là những hình
ảnh mang những ý nghĩa huy hoàng, bởi vì nói lên không những
người tín hữu giáo dân là những người được hội nhập sâu đậm vào
đất đai, vào trần thế, vào cộng đồng nhân loại, mà còn và nhứt
là nói lên điều mới mẻ và đặc sắc của cộng cuộc hội nhập và tham
dự của họ để phổ biến Phúc Âm cứu rỗi " ( ĐTC G. Phaolo
II, Christifideles laici, n. 15).
Người tín hữu giáo dân,
mặc dầu với đặc tính trần thế của mình ( Gioan XXIII, Mater
et Magistra, n. 239), không phải là một cơ thể tách biệt,
một tế bào lơ lửng trôi đó trôi đây trong cơ quan thân thể Giáo
Hội.
Người tín hữu giáo dân
không nhận lãnh lệnh dấn thân phục vụ xã hội và chính trị do
Giám Mục hay Cha Sở " ủy thác" cho, mà lãnh nhận sứ mạng
trực tiếp từ Chúa Giêsu trong Phép Rửa.
Ơn gọi sống và tác động
giữa trần thế của họ là ợn gọi bẩm sinh, được củng cố
thêm bằng Phép Thêm Sức và mỗi ngày lớn lên bằng Phép Thánh Thể,
đặt người tín hữu giáo dân có địa vị và quyền hạn đầy đủ trong
cộng đồng Giáo Hội.
Trong mối hiệp thông
giữa các thành phần trong cộng đồng Giáo Hội với nhau, không có
sự phân biệt về địa vị và trách nhiệm đối với sứ mạng chung của
Giáo Hội:
" Một vài thành phần
do ý muốn của Chúa Giêsu được thiết lập thành tiến sĩ, kẻ khác
phân phát các Bí Tích , cũng như mục tử cho người khác, nhưng
vẫn luôn hiện hữu quyền bình đẳng về địa vị và động tác chung
đối với mọi tín hữu trong việc xây dựng thân thể Chúa Ki Tô"
( Lumen Gentium, n. 32).
2 - Phận vụ tổng hợp
của người tín hữu giáo dân.
Trở lại vai trò của
người tín hữu giáo dân, chúng ta thấy được họ là những người có
vai trò " tổng hợp".
Trước hết, trong cuộc
sống cá nhân của mình, người tín hữu giáo dân là người tổng hợp
- giữa đức tin và
cuộc sống lịch sử trần thế,
- giữa đức tin và văn
hoá,
- giữa đức tin và
chính trị, mà chính Giáo Hội cũng phải hành xử tương tợ để có
thể " hiện diện" rao giảng Phúc Âm giữa trần thế.
- " Nhân chứng huy
hoàng và có sức thuyết phục của sức mạnh có khả năng chuyển đổi
của Phúc Âm là sự tổng hợp sống động mà người tín hữu giáo dân
biết thực hiện giữa Phúc Âm và cuộc sống thường nhật " (
ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, n. 34).
Cũng vậy nhân chứng có
khả năng thuyết phục của một nền văn minh mới mẻ đặt nền móng
trên tình thương mà Giáo Hội có thể thực hiện được là
- khả năng tổng hợp giữa
Lời Chúa và cuộc sống,
- giữa rao giảng Phúc Âm
và thăng tiến con người,
- giữa tình thương đối
với Chúa và phục vụ anh em.
Bổn phận không ai có
thể thay thế được
đó là bổn phận của người
tín hữu giáo dân, đem ra thực hành những gì hàm chứa trong
huấn vụ xã hội của Giáo Hội.
Chỉ có thể qua người tín
hữu giáo dân, mà Giáo Hội hiện diện được đầy đủ và hiệu nghiệm
nơi trong các lãnh vực trần thế, và thực hiện được trung thành
sứ mạng mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho, khi Người lập Giáo Hội:
loan báo và thực hiện ơn cứu rỗi bằng rao giảng Phúc Âm và
thăng tiến con người.
II - Vai trò người tín
hữu giáo dân trong chính trị.
a) Chưa bao giờ Giáo
Hội nhấn mạnh đến việc người tín hữu giáo dân cần thiết phải
hiện diện và hiện diện năng động, kể cả chủ động,
trong lãnh vực xã hội và chính trị như hiện nay.
Giáo Hội luôn luôn nhắc
đi nhắc lại và nói một cách rõ ràng việc cần thiết người tín hữu
giáo dân trung thực biến đổi, chuyển hóa các nội dung huấn dụ xã
hội, mà Giáo Hội đã liên tục huấn dạy trên 100 năm nay, thành
thực hành, biến xã hội con người đang sống thành tổ chức một "
xã hội tình thương".
Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolồ II đã khuyến khích người tín hữu giáo dân phải hiện
diện tích cực, năng động và chủ động trong lãnh vực xã hội và
chính trị, ngay cả việc dấn thân vào các lãnh vực vừa kể,
lãnh vực của những ai hành xử công quyền, có thể là môi trường
và cơ hội cho nhiều nguy hiểm lệch lạc luân lý:
- " Người tín hữu
giáo dân không thể vắng bóng trong việc tham dự vào chính trị
(...).Những tố cáo cho rằng làm chính trị là làm để được thành
đạt, lấy quyền bính làm thần tượng, là môi trường đầy tham nhủng
(...) hay ngay cả ý kiến cho rằng (...) chính trị là môi trường
chắc chắn sẽ đưa đến nguy hiểm luân lý. Tất cả những suy nghĩ đó
không cách gì có thể biện minh cho tâm trạng tiêu cực, cũng như
cho " thối thoát vắng bóng" của người tín hữu Chúa Ki Tô trong
công việc chung " ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles
laici, n. 42).
Lý do tại sao Giáo Hội
luôn luôn mời gọi khẩn thiết và nhấn mạnh sự hiện diện không thể
thiếu của người tín hữu giáo dân trong chính trị?
a) Chuổi thứ nhứt của
các lý do, đó là những thay đổi sâu đậm về xã hội trong thời đại
chúng ta.
Những cuộc thay đổi và
khủng hoảng của thế giới hiện đại trực tiếp kêu cứu đến Giáo
Hội, đến suy tư và động tác của các tín hữu trong Giáo Hội.
Công Đồng Vatican II đã
nhiều lần nhấn mạnh đến ảnh hưởng của Giáo Hội liên quan đến các
hoàn cảnh lịch sử và đến các biến chuyển xã hội ,văn hoá:
- " Giáo Hội cùng
bước đi với cả nhân loại và có kinh nghiệm cùng chung số phận
với thế giới" (Gaudium et Spes, n.41).
Bức tường Bá Linh đã sụp
đổ, vừa đánh dấu biến cố phá sản của ý thức hệ cuối cùng còn sót
lại của thế kỷ 18. vừa báo động cho chúng ta biết những thử
thách luân lý của thế kỷ 20 mà chúng ta còn đang nắm trong tay.
Giải quyết vấn đề, liên
quan đến một tương lai tươi đẹp hơn cho nhân loại, hệ tại ở việc
chuyên cần, dấn thân canh tân hoá xã hội và chính trị, có khả
năng giải đáp thoả đáng các liên quan luân lý của những khúc mắc
cần được giải quyết.
Hiện nay không ai còn
ngây thơ cho rằng một xã hội lý tưởng mới được phát sinh chỉ là
kết quả của phương thức tổ chức hiệu năng và hữu hiệu kinh tế,
luật pháp hay quân sự.
Tất cả chúng ta đều xác
tín rằng, tương lai ngày mai sẽ sáng lạng hơn, cùng chung với
việc thay đổi và thích hợp hơn các phương thức cấu trúc cho cuộc
sống chung, nếu chúng ta thực hiện được những thay đổi về
tâm thức và lối sống, được hướng dẫn bằng những
thay đổi theo những giá trị chính xác luân lý và tôn giáo.
Nhìn lại thế kỷ 20 vừa
qua đi, chúng ta thấy những gì đã xảy ra, chứng thực một cách
thảm đạm và chính xác những gì Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI đã tiên
đoán:
- " Con người chỉ
có thể thực hiện được chính mình, bằng cách siêu nhiên hoá chính
mình( se transcendendum)...Dĩ nhiên, con người có thể tổ chức
cuộc sống trần gian không cần có Chúa, nhưng không có Chúa, thế
nào rồi con người cũng sẽ tổ chức cuộc sống làm hại cho chính
mình" ( Paolo VI, Populorum progressio, n. 42).
Giữa cơn khủng hoảng
siêu nhiên và luân lý như vừa kể của cuộc sống xã hội hiện tại,
làm sao người tín hữu Chúa Ki Tô lại có thể vắng bóng được?
b) Giáo Hội đã trưởng
thành - nhứt là nhờ Công Đồng Vatican II -, ý thức hơn về các
liên hệ của sứ mạng truyền giáo của mình, sứ mạng rao giảng Phúc
Âm mà mình có bổn phận đem đến cho con người liên hệ và hàm
chứa bổn phận, ánh sáng và sức mạnh có thể góp phần để làm cho
sinh trưởng ra một xã hội mới, công bằng hơn, thân hữu
và liên đới hổ tương hơn, yêu thương hơn cho cộng đồng nhân loại.
Ý thức hơn về sứ mạng
của mình và về mối liên quan nội tại giữa rao giảng Phúc Âm và
thăng tiến con người, nói lên một chuổi các nguyên cớ khác,
khiến Giáo Hội hôm nay xác nhận rằng mình có quyền và bổn phận
hiện diện trong xã hội con người.
Góp phần xây
dựng một xã hội nhân bản hơn, liên đới thân hữu hổ tương hơn
là phần thiết yếu của chính sứ mạng truyền giáo của Giáo
Hội.
Bởi đó càng lúc càng
thường xuyên hơn, không những Giáo Hội cho biết lý do về việc
huấn dạy,
- đưa ra các chỉ thị
liên quan đến khuôn mẫu xây dựng một xã hội nhân bản, xứng đáng
với nhân phẩm con người, con Thiên Chúa của mình,
- mà còn đưa ra những
tiêu chuẩn phải có cho việc kiến tạo và thực thi xã hội lý tưởng
đó.
Qua những gì vừa kể, các
tiêu chuẩn mà Giáo Hội đưa ra liên quan đến việc tổ chức một xã
hội tốt đep hơn cho con nguời gồm hai lãnh vực:
+) Việc lựa
chọn đường lối xã hội- chính trị của người tín hữu giáo dân:
- " Người tín hữu
giáo dân có bổn phận làm cho Giáo Hội thể hiện và năng động tích
cực ở những nơi và trong những trường hợp, trong đó Giáo Hội
không có cách nào trở thành muối cho thế gian, nếu không phải là
qua chính họ" ( Lumen Gentium, n.33), nghĩa là trong
những lãnh vực trần thế, để chia xẻ số phận và các vấn đề của
người nghèo, của kẻ bị loại ra bên lề xã hội, bị cướp bóc, đàn
áp, " trấn nước", " bịt miệng", dân oan bị đánh đập đối
xử như súc vật, trong các hoàn cảnh tương phản và tranh chấp xã
hội, trong lãnh vực việc làm, trong gia đình, học đường, nghề
nghiệp.
+) Việc lựa
chọn có tính cách tôn giáo, của cộng đồng Giáo Hội:
Chính việc lựa chọn tính
cách tôn giáo của cồng đồng Giáo Hội là hình thức hiện diện thứ
hai trong xã hội của Giáo Hội, hiện diện qua những ai nhờ ơn gọi
được mời gọi trở thành thừa tác viên, đáp ứng lại ơn kêu gọi của
mình.
Ơn gọi sống đời
người tín hữu giáo dân và ơn gọi chủ chăn, thừa tác viên qua
phép truyền chức, không phải là hai lối chọn lựa trái ngược
nhau, cho bằng là hai cách sống bổ túc cho nhau .
Như mọi nổ lực rao giảng
Phúc Âm cần được thể hiện bằng động tác phục vụ biến cải xã hội
thành xã hội xứng đáng với nhân phẩm con người,
cũng vậy mọi cuộc dấn
thân chuyên cần để thăng tiến con người, phục vụ dưới ánh sáng
Phúc Âm, luôn luôn biến thành động tác rao giảng Phúc Âm:
- " Hành động vì
công lý và tham gia cải tiến thế gian đều thể hiện rõ rệt cho
chúng ta chiều hướng cấu trúc cho việc rao giảng Phúc Âm, nghĩa
là sứ mạng của Giáo Hội đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại và giải
phóng con người khỏi mọi trạng thái áp bức" ( Sinodo
1971, Documento sulla giustizzia nel mondo, Introduzione, in EV
IV/1243).
Qua những tư tưởng dẫn
nhập vừa được đề cập, lịch sử và thần học, Giáo Hội có thể rút
ra những lý do chính cho việc nhấn mạnh mời gọi người tín hữu
giáo dân dấn thân vào các lãnh vực xã hội, nhứt là lãnh vực
chính trị.
III -
A
- Tầm vóc quan trọng
của chính trị.
Có hai lý do thúc đẩy
Giáo Hội nhấn mạnh đến bổn phận của người tín hữu giáo dân tích
cực dấn thân vào chính trị:
a) Lý do thứ nhứt
được đặt nền tảng trên
vai trò quyết định của chính trị đến đời sống cá nhân và xã hội
của con người, mặc cho những bất toàn và giới hạn của nó.
Ai trong chúng ta cũng
có kinh nghiệm trên bản thân những quyết định chính trị liên
quan đến mình, ảnh hưởng đến đời sống cá nhân và xã hội của
mình?
- Việc tăng thuế trên
giá xăng dầu,
- tăng hay giảm thuế trị
giá gia tăng của các sản phẩm nhu yếu,
- tăng giá phiếu khám
sức khoẻ mỗi khi vào bệnh viện,
- tăng thêm hay giảm lệ
phí học đường đối với con em, tùy theo lợi tức của phụ huynh,
- tăng thêm mức tuổi
thối thiểu để được về hưu...
Đó là gì, nếu không phải
là những quyết định chính trị, đụng chạm thẳng đến mức sống vá
túi tiền của chúng ta?
Đó là chưa kể nên đánh
hay làm hoà với Cam bôt, Ký thoả ước thương mãi với Hoa Kỳ và
Tây Âu hay với Trung Cộng, bán đất nhượng biển cho Trung Cộng,
để Trung Cộng " gật đầu " cho phép " bịt miệng"
đàn áp thẳng tay những ai " hó hé " đòi dân chủ, nhân
quyền, những quan niệm mà Trung Cộng chưa bao giờ có khả năng
hiểu nổi?
b) Lý do kế đến
có tính cách thần học:
chính trị có nguồn gốc căn nguyên được đặt trên bản thể con
người và cuộc sống xã hội của con người.
Nói cách khác, chính trị
được đặt nền tảng trên chính bản thể con người, trên những gì
Chúa muốn cho cách sống của con người, khi Ngài dựng nên con
người:
- " Dĩ nhiên là
cộng đồng chính trị và công quyền có nền tảng của chúng được đặt
trong bản tính của con người và do đó thuộc về trật tự đã được
Chúa thiết lập" ( Gaudium et Spes, n.74).
Như vậy chính trị,
nếu được tổ chức và sống hành xử một cách chính đáng phải có,
trong tinh thần phục vụ, thành tín và tương ứng với khả năng, là
một trong những hoạt động quan trọng nhứt.
Bởi vì chính trị ảnh
hưởng một cách quyết định đến cuộc sống con người và liên hệ đến
các khía cạnh nền tảng của đời sống cá nhân và chung sống xã
hội: gia đình, việc làm, sức khoẻ, học đường, nhà cửa và cả đến
việc bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người.
Hơn nữa, nhiều quyết
định chính trị ảnh hưởng quan trọng đến các thế hệ tương lai và
đến vận mệnh của nhân loại, nhứt là trong viễn ảnh liên hệ toàn
cầu hoá của thế giới hiện tại của chúng ta.
Còn nữa, sau khi bức
tường Bá Linh sụp đổ, ý thức hệ không tưởng của Cộng Sản đã bị
phá sản, cuộc chống đối giữa ý thức hệ Cộng Sản và không Cộng
Sản không còn nữa, ít nhứt là đối với những Quốc Gia Tây Âu, (
nếu không phải là những cuộc chống đối cuối cùng để đánh sập
tiệm một vài nhóm lãnh đạo cố chấp nào đó, còn cố bám díu để giữ
lấy quyền hành, chà đạp con người và hút máu dân)
Nhưng một khi cuộc những
cuộc chạm trán ý thức hệ không còn, xã hội dễ trở thành xã hội
đa nguyên và nếu xã hội đa nguyên không có được những giá
trị cố định về con người hướng dẫn, xã hội sẽ trở thành
bất định và dễ băng hoại.
Người tín hữu Chúa Ki Tô
là những người mang trong mình giá trị cao cả về địa vị con
người, có thể góp phần quan trọng định hướng cho xã hội.
B - Thăng tiến con
người là yếu tố thiết yếu của sứ điệp Phúc Âm.
Và đây là những gì chúng
ta biết được về đề tài đang bàn qua các Văn Bản
Tổng Lược Huấn Dụ Xã
Hội của Giáo Hội:
( Compendio della Dottrina Sociale
della Chiesa).
N. 66:
Huấn dụ xã hội là phần thiết yếu
của chức năng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội.
Tất cả những gì có liên quan đến
cộng đồng con người, đến các hoàn cảnh và vấn đề liên quan đến
công lý, giải thoát, phát triển, liên hệ giữa các dân tộc, hoà
binh, không phải là những gì ngoại tại không liên quan gì đến
rao giảng Phúc Âm. Và việc rao giảng Phúc Âm sẽ không đầy đủ,
nếu lời kêu gọi vẫn tiếp tục không liên kết nhau giữa Phúc Âm và
đời sống thực tế, cá nhân và xã hội của con người.
Giữa rao giảng Phúc Âm và thăng
tiến con người có những mối liên hệ sâu đậm:
- Các mối liên hệ trên bình
diện nhân loại, bởi vì con người được Phúc Âm rao giảng cho
không phải là một con người trừu tượng, mà là con người với các
điều kiện xã hội và kinh tế thiết thực của mình.
- Các mối liên hệ trên bình
diện thần học, bởi vì không ai có thể tách rời chương trình tạo
dựng ra khỏi chương trình cứu rổi được. Bởi lẽ chương trình cứu
rổi liên hệ đến cả những hoàn cảnh thực tại bất công cần phá đổ
và hoàn cảnh thực tại công bình cần được xây dựng.
- Các mối liên hệ đặc biệt
trên bình diện Phúc Âm, đó là mối liên hệ đến bác ái: thật vậy,
làm sao có thể tuyên bố một điều răn mới, mà không thăng tiến
công lý và hoà bình thực sự, thăng tiến thực sự làm cho con
người được triển nở hoàn hảo"
( ĐTC Phaolồ VI, Evangelium nuntiandi, n.31).
N. 67:"
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội tự mình đã có giá trị là một dụng
cụ để loan truyền Phúc Âm" ( ĐTC G. Phaolồ II,
Christifideles laici, n. 31).
Và Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
luôn luôn được phát triển và canh tân giữa sứ điệp Phúc Âm và
lịch sử con người.
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là phương thức đặc biệt để thực thi
phận vụ rao giảng lời Chúa và phận vụ ngôn sứ:
- " Đối với Giáo Hội, huấn
dạy và phổ biến Huấn Dụ Xã Hội thuộc về sứ mạng rao giảng Phúc
Âm của mình và là phần chính yếu của sứ điệp Ki Tô giáo, bởi vì
các huấn dụ đó cống hiến cho con người những hệ trong trực tiếp
đến cuộc sống xã hội, đặt khuôn viên cho các động tác thường
nhật và chiến đấu cho công chính bằng nhân chứng rằng Chúa Ki Tô
là Đấng Cứu Thế" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles
laici, II, n. 5).
Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội không phải là một lợi điểm hay hành động ngoại vi, thêm vào
sứ mạng của Giáo Hội, mà chính là trung tâm điểm của phận vụ.
Qua Huấn Dụ Xã Hội,
- " Giáo Hội loan báo Thiên
Chúa và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu cho mỗi con người, và
đồng thời cũng mạc khải chính con người cho con người" (
id., n. 54).( Pontifico Consiglio della Giustizia e della
Pace, Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa, Libreria
Editrice Vaticana, Città del Vaticana, 2004, 35-36).
Và phận vụ đó của Giáo Hội, được
thực thi không những bằng lời rao giảng, mà còn bằng cả nhân
chứng.
Thượng Hội Đồng các Giám Mục năm
1987 về " Ơn kêu gọi và sứ mạng của người tín hữu giáo dân
trong Giáo Hội và giữa trần thế ", lấy lại đề tài vừa đề cập
đến, được Công Đồng Vatican II đưa ra ánh sáng và được Thượng
Hội Đồng năm 1971 xác nhận, trong lời kêu gọi cuối cùng như
sau:
- " Việc dấn thân vào động
tác xã hội - chính trị của người tín hữu giáo dân, có nguồn gốc
từ trong đức tin của họ, bởi vì đức tin soi sáng toàn vẹn con
người và đời sống (...). Bởi đó muốn sống chính đáng đời sống
đức tin và đời sống thường nhật của mình, cách sống đó phải được
đi đôi với việc dấn thân của người tín hữu giáo dân vào lãnh vực
công cộng, vào việc họ tham dự vào các cơ chế chính trị và xã
hội, cũng như góp phần vào cuộc sống thường nhật để thấm nhuần
các cấu trúc và hoạt động trần thế bằng ánh sáng Phúc Âm" (
Sinodo 1987, Vocazione e missione dei laici nella Chiesa e
nel mondo, Appello finale, . 10, in EV X/2230).
Thăng tiến con người và rao
giảng Phúc Âm liên hệ chặt chẽ với nhau.
Do đó, không thể có môt cuộc rao
giảng Phúc Âm thực sự với ý nghĩa đầy đủ phải có, nếu không tạo
được tiến bộ xã hội và thăng tiến con người.
Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan
Pholồ II đã xác quyết với chúng ta:
- " Con người là con đường
tiên khởi và căn bản của Giáo Hội, con người được hiểu theo chân
lý trọn vẹn việc hiện hữu của mình, của cá nhân con người mình
và của những gì liên hệ đến thực thể cộng đồng và xã hội của
mình" ( ĐTC G. Phaolồ II, Redemptor hominis, n. 14, in
EV VI/1209).
Rao gỉảng Phúc Âm không chỉ có
nghĩa là loan báo minh bạch sứ điệp Ki Tô giáo, mà đồng thời còn
có nghĩa là soi sáng lương tâm và trí nảo bằng ánh sáng Phúc Âm,
thông truyền cho con người nghị lực và phương thế có tính cách
luân lý - tôn giáo, mặc dầu là nghị lực và phương thế có tính
cách siêu nhiên, có khả năng định hướng các lựa chọn trần thế,
văn hóa, xã hội, chính tri, kinh tế, để góp phần quan trọng xây
dựng một cuộc sống xứng đáng với con người hơn, công chính hơn.
Điều vừa kể giải thích tại sao Lời
Chúa, cần phải được " hội nhập văn hoá " (
inculturazione) , nếu muốn được mọi người hiểu rõ và tự do
đón nhận.
" Hội nhập văn hóa" là Lời
Chúa phải được diển dịch thành những giá trị, tư tưởng,
ngôn ngữ và phong tục tập quán của mỗi dân tộc.
Và như vậy, một khi được tự do đón
nhận, Lời Chúa có thể định hướng, qua tiến trình trung gian
điều giải ( mediazione) đối với chính trị, nền tảng cấu trúc
và cơ chế Quốc Gia.
Không thể rao loan báo và sống
Phúc Âm trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nếu chúng ta
không thay đổi và cải thiện được thế giới con người, dĩ nhiên là
cải thiện cả đường lối chính trị:
- người công nhân hay chủ nhân
hành động như là người tín hữu Chúa Ki Tô trong lãnh vực mình,
thay đổi và cải thiện hoá thế giới làm việc.
- học sinh, sinh viên và giáo
chức sống sứ mạng học đường như là bổn phận phải có của người
tín hữu Chúa Ki Tô, họ thay đổi và cải thiện hóa thế giới học
đường.
- nhà chính trị tác động lãnh
vực chính trị, như là bổn phận phải có của người tín hữu Chúa Ki
Tô, nhà chính trị thay đổi và cải thiện hóa thế giới chính trị.
Tất cả những gi vừa được đề cập sẽ
không thể nào thực hiện thành tựu được, nếu không có nguời tín
hữu giáo dân sống và chuyên cần dấn thân thực hiện.
Vai trò trần thế không thể thay
thế của người tín hữu giáo dân là vậy.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thực tế
bạn nghĩ |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề: Ý Thức
(tiếp theo)
40. Thực tế
Phần lớn thực tế, không phải là những gì chúng là chính chúng
nhưng là những gì chúng ta gán cho chúng.
Trên một chuyến bay, một bà Do Thái ngồi cạnh một thanh niên
Thụy Điển to con, bà nhìn anh chằm chằm. Cuối cùng, quay qua
anh, bà hỏi, “Xin lỗi, cậu là người Do Thái?”.
Người thanh niên trả lời, “Không”.
Vài phút sau, bà lại quay sang cậu và nói, “Cậu có thể nói cho
tôi, cậu biết đấy, cậu là người Do Thái, không phải sao?”.
Người thanh niên bẳn gắt, “Tuyệt đối không”.
Bà ấy tiếp tục quan sát cậu một lúc rồi nói, “Tôi có thể nói
rằng, cậu là người Do Thái”.
Để khỏi phiền hà, người thanh niên nói, “Thôi được, vậy tôi là
người Do Thái!”.
Bà ấy lại nhìn cậu ta rồi lắc đầu nói, “Nhưng trông cậu không
giống Do Thái tí nào!”.
Trước hết chúng ta đưa ra kết luận, rồi cách này cách khác,
chứng minh chúng.
ڰ
41. Thực tế bạn nghĩ
Tại hàng rau của siêu thị, một phụ nữ cúi xuống nhặt vài quả cà
chua. Ngay lúc ấy, bà cảm thấy đau nhói ở lưng; bà không thể cử
động và la lên. Một khách hàng đứng cạnh cúi xuống với vẻ cảm
thông bảo rằng, “Nếu chị nghĩ cà chua đắt quá, chị nên coi lại
giá cá”.
Bạn ứng xử theo thực tế hay theo cái thực tế bạn nghĩ ra?
ڰ
42. Mất giày?
Một người đàn ông bước lên xe buýt và thấy mình đang ngồi cạnh
một cậu nhóc rõ là dân bụi. Cậu nhóc chỉ mang một chiếc giày.
“Rõ là cậu mất một chiếc
giày?”.
“Không, thưa ông”, cậu nhóc đáp, “cháu nhặt được một chiếc”.
Điều hiển nhiên đối với tôi không hẳn là sự thật.
ڰ
43. Nghe gì từ đất?
Một anh chàng cao bồi đang cỡi ngựa qua sa mạc, thấy một người
da đỏ nằm sấp bên đường, đầu và tai nghiêng xuống đất.
“Ông làm sao thế?”, chàng cao bồi hỏi. “Một tên da trắng tóc đỏ
lái một chiếc Mercedes Benz xanh sẫm mang biển số SDT965, trong
xe chở một con chó berger Đức chạy về hướng Tây”.
“Ông ơi, ông muốn nói ông biết chuyện đó chỉ nhờ dán tai xuống
đất?”.
“Tôi không nghe gì từ đất cả. Chiếc SOB cán tôi và bỏ chạy”.
ڰ
44. Nhìn vào đâu?
Một con trai thấy hạt ngọc của mình rơi vào kẽ đá dưới đáy biển.
Sau mọi nỗ lực, nó nhặt lại hạt ngọc và tìm cách đặt trên một
chiếc lá bên cạnh mình.
Biết rằng con người đi tìm
ngọc, nó nghĩ, “Hạt ngọc này sẽ hấp dẫn họ, họ sẽ nhặt ngọc mà
không làm hại mình”.
Tuy nhiên, khi anh thợ lặn tìm ngọc xuất hiện, mắt anh chăm chú
tìm trai và không hề để ý đến viên ngọc trên chiếc lá.
Anh chộp lấy con trai, một con trai không có ngọc và để viên
ngọc rơi xuống kẽ đá.
Bạn biết rất rõ bạn đang nhìn vào đâu. Đó là lý do tại sao
bạn thất bại trong việc tìm kiếm Thiên Chúa.
ڰ
44. Mẹ đây mà!
Tại ngân hàng, một phụ nữ yêu cầu nhân viên cho bà rút một số
tiền.
Chiếu theo thể lệ, nhân viên yêu cầu bà xuất trình thẻ căn
cước.
Người đàn bà há miệng vì kinh ngạc. Cuối cùng, bà thốt lên,
“Nhưng Jonathan, mẹ đây mà!”.
Nếu bạn cho câu chuyện trên là buồn cười, thì có bao giờ
chính bạn lại không nhận ra Chúa không?
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục giáo phận luôn luôn ở với Chúa |
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN
C. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA
LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
(tiếp theo)
C.3. Linh mục giáo phận
luôn luôn ở với Chúa
Tất cả bốn sách Tin Mừng kết thúc bằng việc
Chúa Giêsu kêu gọi và sai các tông đồ ra đi hoàn thành sứ mệnh cứu độ, trong sự
hiện diện trường cửu của Ngài: “Ngài kêu gọi những kẻ Ngài muốn... họ đến với
Ngài, Ngài đã đặt một nhóm mười hai mà Ngài gọi là tông đồ, để họ ở với Ngài và
để Ngài trao cho quyền năng trừ quỷ và sai đi rao giảng.”
Ơn gọi của các tông đồ là vì sứ vụ, nhưng trước khi các ngài có thể ra đi loan
báo Tin Mừng, các ngài cần có thời gian sống với Chúa Giêsu và thiết lập mối
tương quan cá nhân với Ngài. ĐTC Bênêđictô XVI nói: “Tông đồ là người được
sai đi, nhưng trước đó họ phải là ‘chuyên viên về Chúa Giêsu.”
Tông đồ được sai đi làm “chứng nhân” cho Đấng Phục Sinh,
để mời gọi thính giả gặp gỡ Lời Thiên Chúa nhập thể. Cuộc gặp gỡ cá nhân với
Chúa Giêsu và kinh nghiệm sâu thẳm về Thiên Chúa trong Chúa Giêsu và qua Chúa
Giêsu là nền tảng cho linh đạo và sứ vụ của linh mục giáo phận.
Chính nhờ việc “ở với Chúa Giêsu” mà
các tông đồ trở nên người có linh đạo, có lối sống thiêng liêng. Các ngài gặp
được Chúa Giêsu cầu nguyện và làm chứng cho lòng tín thác của Ngài dành cho Chúa
Cha. Trọng tâm sứ vụ của Chúa Giêsu là kinh nghiệm và mặc khải về Thiên Chúa như
Người Cha khả ái (Abba). Khi dạy cho các môn đệ gọi Thiên Chúa là “Cha,” Chúa
Giêsu dạy cho họ sống phận làm con với Thiên Chúa như Cha. Việc phục vụ chính
yếu của Giáo Hội là mặc khải Thiên Chúa như một người cha khả ái, một người cha
của hết mọi người và tương quan với họ như với những người con. Do đó, kinh
nghiệm về “Thiên Chúa là Cha” là đỉnh cao của linh đạo linh mục giáo
phận, bởi vì nếu không liên kết với Chúa Cha nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Thánh
Thần, linh mục giáo phận không thể làm được gì.
Như Chúa Cha đã sai Ngài, Chúa Giêsu cũng
sai chúng ta; và việc Chúa Cha sai Chúa Con trở thành kiểu mẫu giúp chúng ta
hiểu sứ vụ linh mục giáo phận của mình: mọi lời nói và việc làm của Chúa Giêsu
đều phản ánh những gì Ngài đã nghe, đã thấy nơi Chúa Cha, và nhiệm vụ của linh
mục là trung thành làm chứng cho cuộc sống, giáo lý và tác vụ của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô tóm tắt cốt lõi thừa tác vụ của chúng ta “là những cộng tác viên
của Chúa Kitô,”
Đấng đã tuyên bố rằng “Cha Ta đến nay hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc,”
và linh mục giáo phận cũng có thể nói “Chúa Giêsu hằng làm việc, thì tôi cũng
làm việc.” Quả vậy, hoa trái do thừa tác vụ của linh mục giáo phận không tuỳ
thuộc vào khả năng hay tài khéo của mình, nhưng lệ thuộc vào Đấng đã nói “Không
có Thầy, các con không làm gì được.”
Chúa Giêsu sinh nhiều hoa trái vì Ngài thường xuyên lệ thuộc vào Chúa Cha hoàn
toàn, với sự tùng phục trọn vẹn “cho đến đỗi chết trên thập giá.”
Để được sinh hoa trái giữa đàn chiên và cho
đàn chiên, linh mục giáo phận phải cắm rễ trong cùng sự hợp nhất và tùng phục
mến yêu nơi Ngài. Sống bên ngoài khung quy chiếu này là bước ra khỏi thực tại
của chức linh mục, vốn là sự ở lại trong Chúa Giêsu:
“Hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong
anh em. Như ngành nho không thể tự mình ra trái, anh em không thể sinh trái nếu
không ở lại trong Thầy…”
Việc thừa tác vụ chúng ta tuyệt đối lệ thuộc vào Chúa nhắc chúng ta luôn để Chúa
chỉ đạo, và nỗ lực làm việc dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Thần Khí Chúa Kitô.
Chúng ta hiện hữu để làm dấu chỉ giới thiệu Chúa Kitô bằng cuộc đời của chúng
ta.
Linh mục giáo phận cần hoán cải sâu xa để
trở về kinh nghiệm môn đệ đích thực của các Tông đồ, là những người đã được gọi
để “ở lại với Chúa Giêsu” trước khi được sai đi. Chính trong bối cảnh này
mà gương mẫu về linh đạo linh mục chiêm niệm trong hoạt động và hoạt động trong
chiêm niệm của thánh Gioan Maria Vianney trở thành nguồn cảm hứng sâu sắc cho
linh mục giáo phận. Tất cả mọi người đều được kêu gọi nên thánh và linh mục giáo
phận xác tín rằng mình được gọi để nên thánh và sự thánh thiện có trong tầm tay
mình nhờ trung thành chu toàn việc chăm sóc đàn chiên Chúa giao phó.
Chúa Kitô luôn ở cùng linh mục, dùng linh
mục để tiếp tục Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Ngài dùng bàn tay linh mục để
chúc phúc và tha thứ, đôi môi linh mục để tiếp tục rao giảng; con người linh mục
để tiếp tục đau khổ; con tim linh mục để tiếp tục yêu thương và cả cuộc đời linh
mục để đổi mới cục diện Hội Thánh và thế giới, để thao thức tìm kiếm chiên lạc,
để lau sạch nước mắt ưu phiền sầu khổ, để an ủi những con tim chán nản thất vọng
buông xuôi, để đưa về sum họp những tâm hồn rời xa, để xây dựng chân lý, công
bình, yêu thương và cứu độ. Linh mục phải phản ánh vẻ đẹp nhân từ của Chúa Kitô
Mục Tử Nhân Lành “hết mình vì đàn chiên,’ gần gũi, thân thương với hết
mọi người, trở nên như người cha, người bạn, người cố vấn, và là chỗ dựa vững
chắc để các con chiên được củng cố đức tin, bàn hỏi, tâm sự, nâng đỡ, khích
lệ...
Chỉ ở với Chúa và có Chúa ở với, linh mục
giáo phận mới hoàn thành được những trách nhiệm của mình. Làm thế nào để
dung hòa hai khía cạnh hoạt động và chiêm niệm của đời sống linh mục? Một cha sở
bận rộn có lẽ không thể duy trì một “thời khoá biểu cố định” cho cuộc
sống hàng ngày. Những nhu cầu mục vụ cấp bách có thể buộc ngài không có thời
gian cố định cho việc cầu nguyện, ăn uống và những việc cần thiết cá nhân khác.
Một cha sở bị áp lực của những trách nhiệm mục vụ lôi kéo có thể thấy khó cầu
nguyện Phụng Vụ Các Giờ Kinh đều đặn mỗi ngày. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất
đối với linh mục giáo phận là không được quá đam mê ‘hoạt động’ và chìm ngập
trong ‘sự bận rộn” mục vụ để trốn tránh những đòi hỏi khắt khe hơn của đời sống
có kỷ luật: cầu nguyện, đọc sách, cập nhật hoá kiến thức, cùng thảo luận và suy
tư với anh em linh mục khác, cũng như với giáo dân về những đề tài và vấn đề
thích hợp với đời sống và sứ vụ của Giáo hội.
Thách đố lớn đối với một cha sở
là ‘tạo ra’ thời gian để cầu nguyện Phụng Vụ Các Giờ Kinh, suy niệm, đọc sách
thiêng liêng và nhất là Thánh lễ, không biến Thánh Lễ thành thói quen, thủ tục
máy móc, dù chỉ mất hơn 30 phút mỗi ngày để cử hành do nhu cầu của giáo dân thúc
ép. Linh mục giáo phận phải học cách làm cho chính đời sống mục vụ trở thành lời
cầu nguyện, trải nghiệm hiệp thông thần bí với Chúa Phục sinh và Mục Tử Nhân
Lành. Trong đời sống của một cha sở, không có sự phân đôi giữa đời sống hoạt
động và chiêm niệm. Cái này phải hoà vào cái kia một cách hài hòa. Linh mục giáo
phận là một nhà hoạt động chiêm niệm và cũng là một nhà chiêm niệm hoạt động.
Nếu thường xuyên ‘ở’ trong Chúa, thì mọi lúc trong cuộc sống và hoạt động của
linh mục giáo phận sẽ trở thành một thời khắc thần linh tràn đầy Thánh Thần như
nó đã xảy ra trong cuộc sống của Chúa Kitô, Đấng ngài hằng cố gắng để nên đồng
hình đồng dạng với.
Việc cử hành Thánh Lễ và Phụng
Vụ Các Giờ Kinh liên kết nội tại với nhau: linh mục “tăng cường tình yêu của
mình đối với vị Mục tử thần linh và làm cho Ngài hiện diện với các tín hữu, từ
hiến tế trên bàn thờ đến việc cử hành Kinh Thần Vụ với toàn thể Giáo hội.”
Đây là những hành vi thờ phượng công cộng nhân danh toàn thể Giáo Hội. Linh đạo
linh mục giáo phận được đặt nền tảng trên sự gần gũi với chính con người của
Chúa Kitô, được cử hành hoàn hảo trong Bí Tích Thánh Thể, là trung tâm và nguồn
cội của toàn thể đời sống linh mục, để những gì diễn ra trên bàn thờ biến thành
của linh mục
và thẩm thấu ngày càng sâu sắc vì linh mục được kêu gọi trở nên điều ngài
cử hành trên bàn thờ, tức trở nên một với Chúa Kitô là tư tế và là của
lễ.
C.4. Linh mục giáo phận
sống Bí tích Thánh Thể
Linh mục được phong chức để trở nên thừa tác
viên bí tích trong Giáo Hội như là hiện thân của Chúa Kitô, mà Thánh Lễ là hình
thức cầu nguyện cao nhất của đời sống phượng tự Kitô giáo, và là cái đặc trưng
của chức linh mục. Thánh Thể là “suối nguồn và chóp đỉnh của đời sống và sứ
vụ của Hội Thánh,” nên cũng phải là trung tâm đời sống và sứ vụ của linh
mục, đặc biệt là linh mục giáo phận giữa đàn chiên Chúa. Linh mục tái hiện và cử
hành những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trong bữa Tiệc Ly, nhờ đó đời sống
thiêng liêng của linh mục lớn lên tới độ “các sinh hoạt của đời sống hàng
ngày của linh mục sẽ thực sự mang ý nghĩa và chiều kích Thánh Thể.”
Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm sứ điệp của Ngài trong phụng vụ Lời Chúa, mà linh
mục phải liên kết với các thực tại của cuộc sống, ngõ hầu cuộc sống được chính
Lời ấy biến đổi.
Linh mục công bố Lời và Ý Chúa mà
mình đã tin và đang sống để tín hữu suy gẫm và hành động cách thích đáng hầu
được hoán cải và biến đổi.
Khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi
dân chúng, Chúa Giêsu cần đến năm chiếc bánh và hai con cá của các môn đệ. Ngày
nay Ngài cũng cần đến phần cộng tác ít ỏi và nhỏ bé của bản thân linh mục như
giọt nước pha vào rượu nho.
Và như đã làm trong bữa tiệc ly với bánh, Chúa Giêsu cũng cầm lấy linh mục và
chúc phúc cho linh mục, bằng việc kêu gọi và tuyển chọn linh mục giữa nhiều
người khác trổi vượt hơn linh mục. Linh mục vui mừng và hạnh phúc tạ ơn Chúa vì
tình yêu vô điều kiện Chúa dành cho, và vì may mắn được chọn làm linh mục, dù
chưa chắc linh mục đã tốt hơn những người khác. Ước gì linh mục giáo phận sẽ
không sợ bị cầm lấy và chúc phúc như thế, bởi Chúa và bởi đoàn chiên được trao
phó, kể cả qua những gánh nặng, những khó khăn trong đời sống và sứ vụ của
mình.
Như tấm bánh bị bẻ ra, linh mục giáo phận
lắm khi cũng như bị bẻ ra, được trao ban và bị ăn bởi đoàn chiên như cha
Chevrier nói “linh mục là người bị ăn.” Đôi khi còn bị bẻ ra vì hiểu lầm
và đau khổ, vì sự cô đơn và những chiến đấu nội tâm chống lại những ước muốn tự
nhiên và yếu đuối nhân loại bên trong, cùng các cơn cám dỗ tấn công từ bên
ngoài. Qua việc bị bẻ ra và trao ban này, quyền năng Chúa làm cho thân xác nhân
loại yếu hèn của linh mục trở nên một thân xác thánh thể như thân xác Chúa
Giêsu. Chớ gì linh mục giáo phận thấu hiểu và sống ý nghĩa của đời sống bị bẻ ra
vì Chúa và vì đàn chiên. Không dám tự nộp mình cho đến chết như Chúa Giêsu,
nhưng linh mục giáo phận sẵn sàng hiến tặng thời giờ, của cải, sức khỏe, hạnh
phúc, niềm vui, đau khổ và buồn phiền... của linh mục, những thứ đó cũng là
chính cuộc sống và con người của linh mục, như Chỉ Nam 1994 nói: “Linh mục
phải học biết kết hợp mật thiết với lễ vật, đặt trên bàn thờ hy lễ cả cuộc đời
mình như dấu chỉ của tình yêu nhưng không và ân cần của Thiên Chúa.”
Máu các thánh tử đạo đổ ra vì Chúa và vì
Nước Trời chỉ có một lần thôi. Máu của linh mục giáo phận đổ ra cách này hay
cách khác, mỗi ngày, từng giọt một, qua trách nhiệm và bổn phận mục vụ giữa đàn
chiên trong thời đại này, từng ngày từng ngày thì cam go hơn, khó khăn hơn,
nhưng cũng công nghiệp hơn: “Một lúc đổ cả máu đào, hay từng giọt một đằng
nào công hơn?” Như Thánh Phaolô, mỗi ngày, linh mục giáo phận bổ khuyết nơi
thân xác mình phần còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Giêsu, kể
cả “bước theo Ngài giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo
Hội.”
Bánh và rượu, tuy là vật chất,
nhưng khi dâng lên sẽ được quyền năng Chúa biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô,
vậy khi linh mục giáo phận dâng bản thân, những tình cảm và tình yêu, những vấn
đề, những băn khoăn lo lắng, đau khổ và hạnh phúc của mình, cả những người ghen
ghét hãm hại linh mục, hay những người linh mục không thương và khó tha thứ, thì
quyền năng ấy cũng sẽ biến đổi thành những gì tốt đẹp hơn, hữu ích hơn cho họ,
cho đoàn chiên, cũng như cho chính bản thân linh mục. Đặc biệt, khi linh mục
dâng những yếu đuối và tội lỗi của mình, Chúa sẽ tha thứ, biến đổi và thánh hoá
cho, như Chúa Giêsu đã hiện ra nói với thánh Hiêrônimô “con hãy cho Cha cả
tội lỗi của con nữa để Cha tha thứ cho con”, bởi vì với Chúa chẳng có tội gì
là quá nặng đến đỗi Chúa không thể tha thứ được! Có người hỏi Chúa Giêsu về tội
của một linh mục kia và Ngài đã trả lời: “Nhiều, nhiều lắm, nhưng Cha đã tha
thứ và đã quên đi hết rồi.”
Qua việc cử hành Thánh Thể, sự
hiệp nhất của Dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, cũng như việc xây dựng nhiệm
thể Chúa Kitô được hoàn tất.
Máu Thánh Chúa Kitô lưu chuyển trong Giáo Hội, Mình Thánh Chúa Kitô được hiến
dâng mang lại sự sống thần linh cho mỗi chi thể. Huấn thị Bí tích Cứu Độ
nhấn mạnh: “Trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, các linh mục có trách nhiệm
lớn, là làm chứng và phục vụ sự hiệp thông, không những đối với cộng đoàn trực
tiếp tham dự vào buổi cử hành, mà còn đối với Hội Thánh toàn cầu.”
ĐTC Biển Đức XVI cũng nhắc: “Bí
Tích Thánh Thể là bí tích của sự hiệp nhất của Hội Thánh, bởi vì tất cả chúng ta
hiệp thành một thân thể duy nhất của Hội Thánh mà Chúa Kitô là Đầu.”
Cử hành và lãnh nhận Thánh Thể là cơ hội để
hiệp nhất với nhau và hiệp nhất với Giáo Hội trên khắp thế giới: nhiều hạt lúa
miến kết thành tấm bánh, nhiều trái nho ép thành ly rượu. Nhờ Thánh Thể mà mọi
người được qui tụ lại trong ngôi nhà đức tin là Giáo Hội. Sự hiệp nhất này là
nguồn mạch và là bằng chứng hữu hiệu cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
Nhờ việc cử hành thánh lễ mỗi ngày,
linh mục giáo phận hiểu hơn sức mạnh biến đổi của Bí tích Thánh Thể và tìm thấy
nơi mầu nhiệm này nguồn can đảm và sức mạnh đi theo Chúa Giêsu và phục vụ Ngài
nơi tha nhân: “Các tư tế nên luôn tâm niệm rằng công cuộc cứu chuộc hằng được
tiếp tục thi hành trong mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể; do đó, họ nên siêng năng dâng
lễ, hơn nữa, rất đáng mong ước các tư tế dâng lễ mỗi ngày, cả khi các tín hữu
không thể hiện diện, bởi lẽ Thánh Lễ là tác động của Chúa Kitô và của Giáo Hội,
chính khi cử hành Thánh Lễ mà các tư tế chu toàn nhiệm vụ chính chính yếu của
mình.”
Linh mục giáo phận sẽ kín múc
dồi dào nguồn sức mạnh từ Bí tích Thánh Thể, được cử hành trong thánh lễ mỗi
ngày và được tôn thờ nơi Nhà Chầu mỗi khi đến viếng Mình Thánh Chúa,
như chính Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến với Ta, hỡi những ai đang vất vả và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi.” Chúa
Giêsu Thánh Thể sẽ nạp lại năng lượng và tăng thêm nhiệt huyết tông đồ, nên Huấn
thị Bí tích Cứu Độ dạy: “Cha xứ phải chăm lo sao cho Bí tích Thánh Thể
trở thành trung tâm của cộng đoàn giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho tín hữu
được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng các bí tích và đặc biệt làm
cho tín hữu thường xuyên đến với Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống Hối.”
Trong buổi triều yết chung ngày 24.11.2010,
ĐTC Biển Đức XVI nói: “Thánh Thể là một hồng ân tình yêu phi thường, mà Thiên
Chúa liên tục canh tân trong chúng ta, để dưỡng nuôi cuộc hành trình đức tin của
chúng ta, tiếp thêm sức mạnh cho niềm hy vọng của chúng ta là khơi dậy tình bác
ái của chúng ta để ngày càng trở nên giống Người hơn.”
Linh mục giáo
phận nào cũng có không ít hơn một lần trải nghiệm những gánh nặng mục vụ và
những thách đố trăn trở yếu đuối cá nhân, nên cần năng chạy đến với Thánh Thể: “Yếu
hèn con đến Nhà Chầu, mở ra trao trút cả bầu tâm tư. Đức Chân Phước Gioan
Phaolô II chia sẻ với cảm xúc sâu xa chứng tá đức tin của chính ngài nơi Bí Tích
Thánh Thể như là phương tiện đồng hành và tăng sức mạnh: “Lúc tôi dâng thánh
lễ,... đôi mắt tôi chăm nhìn vào Mình Thánh và Chén Thánh, thời gian và không
gian như cô đọng lại và thảm kịch đồi Golgota được tái hiện với sức mạnh, như
đương xảy ra. Mỗi ngày, đức tin cho phép tôi nhận ra trong bánh và rượu đã được
truyền phép Vị Lữ Hành Thần Linh ngày nọ đã đi đường với hai môn đệ Emau để mở
mắt họ ra với ánh sáng và mở lòng họ ra với niềm hy vọng.”
Việc cử hành Thánh lễ kết thúc, nhưng việc
sống Thánh Thể vẫn tiếp tục trong cuộc đời mục vụ của linh mục giáo phận. Lễ
xong ra đi để sống mầu nhiệm vừa cử hành, để sẻ chia những gì mình vừa lãnh
nhận, để đem yêu thương cho mọi người trong cuộc lữ hành đức tin. ĐTC Biển Đức
XVI dạy: “Thánh Thể không tách xa chúng ta khỏi những người đương thời với
chúng ta; ngược lại, bởi vì Thánh Thể là cách diễn tả hay nhất của tình yêu
Thiên Chúa, nó mời gọi chúng ta cộng tác với tất cả anh chị em mình để đương đầu
với những thách đố hiện tại và làm cho hành tinh này thành một nơi tốt đẹp để
sống.”
Và ĐHY Francis Arinze cũng nói: “Bí Tích
Thánh Thể sai chúng ta đi để bày tỏ tình yêu và tình đoàn kết với anh chị em của
chúng ta... Chúng ta cũng được sai đi để an ủi những người đang sầu khổ, để giúp
giải phóng những người đang làm nô lệ, kể cả các nạn nhân của những hình thức
đàn áp về phái tính, chủng tộc hoặc những hình thức đàn áp khác, để đem hy vọng
đến cho những trẻ bụi đường, và giúp nâng cao các dân chưa được phát triển lên
một mức độ xứng hợp với phẩm giá con người, nhất là những người đang đói khát và
thiếu thốn về tinh thần: Họ đang đói khát Lời Thiên Chúa, đói khát Tin Mừng giải
phóng của Chúa Giêsu Kitô, cho nên việc truyền giáo, dạy Giáo Lý dưới nhiều hình
thức, cùng việc dẫn đưa người ta đến với Hội Thánh và các bí tích là những cách
bày tỏ cần thiết của tình yêu thương tha nhân.”
Xin Chúa ban cho chúng ta được ơn dâng lễ mỗi ngày thật sốt sắng như có thể đây
là thánh lễ cuối cùng của cuộc đời chúng ta vậy.
|
VỀ MỤC LỤC |
KHÓC
|
Khóc là nhỏ
lệ trước một hoàn cảnh khốn cùng, đau đớn hoặc buồn rầu. Vĩnh
biệt người bạn trăm năm, mất nước phải xa quê hương hoặc bị hành
hạ tù đầy khiến nhiều người khóc thầm dai dẳng. Cũng có người
khóc vì quá xúc động trước một hạnh phúc tân hôn.
Trong động
tác khóc. miệng mếu máo đôi khi phát ra thành tiếng nức nở, nước
mắt tuôn rơi. Đây là một diễn tiến liên tục do hệ thần kinh tự
chủ điều khiển. Tuy nhiên đôi khi có người cũng có thể giả vờ
sụt sịt với một mục đích nào đó.
Phàm là người
thì ai cũng có lúc khóc nhưng văn hóa mỗi quốc gia hoặc truyền
thống mỗi gia đình có những luật bất thành văn khác nhau về
khóc: khóc khi nào và khóc làm sao để được chấp nhận.
Theo Tom
Lutz, tác giả sách Crying: The Natural and Cultural History of
Tears: “Các nền văn hóa trên thế giới coi khóc là hành động để
biểu lộ một tình cảm khi đau đớn thương tiếc. Mỗi văn hóa xác
định khóc ở đâu và khi nào thì được chấp nhận”.
Có nhiều kiểu khóc khác
nhau.
Nếu có khóc
âm thầm, khóc lén, khóc nỉ non tỉ tê thì cũng có khóc ròng, khóc
bù lu bù loa to tiếng, mũi dãi lòng thòng, khóc như mưa, khóc
như cha chết, khóc đứng khóc ngồi, khóc dai, khóc tới liệt hơi
khản tiếng, bất tỉnh nhân sự, ngất đi …
Bé mới sinh
thì khóc tu oa, khóc dạ đề cả mấy tháng, khóc oe oe đói bụng đòi
ăn, khóc vòi vĩnh điếc cả tai.
Cũng có người
kịch tính, sụt sùi khóc mướn khóc thuê cho tang chủ, lâu lâu lại
khóc rống lên với mục đích cho bàn dân thiên hạ hay là người quá
cố được đông con nhiều cháu thương tiếc, tiễn đưa…
Có tiếng khóc
đau đớn “Giọt châu lã chã khôn cầm” của Thúy Kiều khi bị
Hoạn Thư đánh ghen hành hạ, thì cũng có tiếng khóc vì hoàn cảnh
bần cùng của Trần Thế Xương “Vay nợ lắm khi trào nước mắt”;
khóc khí khái “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” của Tôn
Thọ Tường;
Hoặc tiếng
khóc đa tình của người thiếu phụ trong thơ của Trương Tịch
“Trả
chàng đôi ngọc, đôi hàng lệ;
Hận chẳng
gặp nhau lúc chưa chồng,”
Lại còn những
tiếng khóc thâm độc, giả nhân giả nghĩa của Tào Tháo giết người
rồi khóc rống, tỏ vẻ tiếc thương…
Hoặc tiếng
khóc vui buồn khó hiểu của thiếu nữ vào ngày vu quy, khi bái
biệt cha mẹ ruột để về với tân lang và cha mẹ chồng:
“Khấp như
thiếu nữ vu quy nhật”.
Nhưng có lẽ
tiếng khóc của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi vĩnh viễn của bạn
hiền Dương Khuê mới não nề tình cảm làm sao:
“Tuổi già
hạt lệ như sương
Hơi đâu ép
lấy hai hàng chứa chan”.
Như vậy thì
khóc thường là đi đôi với nước mắt giọt ngắn, giọt dài tuôn rơi.
Nước mắt
Mà nước mắt
cũng có nhiều ý nghĩa, cấu tạo khác nhau.
Nước mắt tuôn
ra từ tuyến lệ hình hạt hạnh nhân nằm phía trên con ngươi, dưới
xương trán. Có khoảng hơn chục ống nhỏ li ti từ tuyến tỏa ra dẫn
nước mắt phủ nhãn cầu. Sau đó nước mắt theo một đường chảy từ
góc con mắt vào túi lệ, thông xuống mũi, đôi khi có nhiều thì
dàn dụa trên mi, xuống má, xuống môi.
Nước mắt
thành hình từ dung dịch chất lỏng của hệ tuần hoàn với 0.9%
muối.
Có 3 loại nước mắt:
- Nước mắt
căn bản thường xuyên tiết ra để bảo vệ và làm ướt nhãn cầu
nhờ đó mắt chớp lên chớp xuống, nhìn ngang nhìn dọc dễ dàng.
Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ khô, mắt chớp khó khăn và rát.
Mỗi ngày có
từ 150-300 cc nước mắt với các chất khác nhau như glucose, chất
đạm, muối sodium, Kali, magnesium, chất diệt trùng lysozyme,
lactoferrin.
- Nước mắt
phản ứng khi có một vật lạ hoặc ánh sáng quá mạnh xâm nhập
kích thích mắt. Chẳng hạn như khi thái củ hành tươi có hơi cay
bay vào mắt hoặc mắt vướng bụi bặm. Dây thần kinh cảm giác ở
nhãn cầu sẽ chuyển tín hiệu báo cho não biết có vật lạ vào mắt.
Não bộ tác động lên tuyến nước mắt, nước mắt chảy ra để loại bỏ
vật lạ.
- Nước mắt
xúc động tiết ra trước một buồn rầu, đau đớn hoặc niềm vui…
Nước mắt này có cấu tạo khác với các nước mắt kể trên vì có thêm
các chất như prolactin, ACTH, chất chống đau thiên nhiên leucin
enkephalin
Vì có muối,
cho nên nước mắt hơi mặn và đã có nhận xét rằng cặp môi ướt nước
mắt rất tốt khi hôn nhau. Vừa sạch miệng, vừa làm cho nụ hôn đậm
đà, tình cảm, nhớ nhau hoài.
Mỗi lần mắt
chớp là nước mắt được trải rộng trên mặt nhãn cầu. Mắt chớp có
công dụng như những cái gạt nước trên mặt kính xe hơi, máy bay.
Chớp mắt xảy ra mỗi dăm ba giây đồng hồ và là một động tác tự
chủ. Tuy nhiên ta cũng có thể chớp mắt theo ý muốn tỏ vẻ e thẹn
khi gặp chàng gặp nàng lần đầu, nhưng khó mà có thể ngưng chớp
mắt lâu hơn một phút.
Thực ra nước
mắt trải trên nhãn cầu có những ba lớp: lớp trên cùng có chất
dầu tiết ra từ hạch nhờn ở mi mắt để ngăn lệ bốc hơi; lớp thứ
nhì là nước từ tuyến nước mắt và lớp dưới cùng là dịch nhày
mucus. Bất cứ bệnh nào ảnh hưởng tới cấu trúc của ba lớp này đều
gây trở ngại cho sự nhìn.
Theo nhà
sinh hóa học William H. Frey, Đại học Minnesota, nước mắt khi
xúc động có nhiều chất đạm hơn nước mắt do vật chất hoặc hơi cay
kích thích.
Nước mắt có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ mắt với vật lạ như vi khuẩn
bụi bặm và cũng là chất bôi trơn để mắt có thể điều tiết khi
nhìn. Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ trở nên khô, nhiễm trùng
đưa tới khiếm thị, mù lòa.
Diễn tiến khóc:
Một xúc động
mạnh, một kỷ niệm đau sót làm con người nín thở, cơ bắp ở miệng
co thắt đột ngột, rồi nước mắt trào ra. Họ tiếp tục nức nở, dàn
dụa một lúc rồi mọi sự lắng đọng, tâm hồn cảm thấy nhẹ nhàng
hơn. Diễn tiến này cũng tương tự khi vui thì cười.
Trong sự
khóc, xúc động kích thích dây thần kinh não, não bộ bèn gửi tín
hiệu tới hạch nước mắt khiến cho ta khóc và nước mắt tuôn trào.
Theo
Stephanie Shields, giáo sư tâm lý tại Đại học Pensylvannia,
“Nước mắt tốt” là những giọt lệ
nhỏ ra mà ta kiểm soát được. Nó chứng tỏ người đó rất xúc động
nhưng vẫn làm chủ được lòng mình”.
Tại sao khóc?
Có nhiều lý
do.
- Khóc khi
chia tay tan rã hôn nhân, vì sinh ly tử biệt người thân vĩnh
viễn ra, vì bực tức mà không giải tỏa, đè nén được, vì quá vui,
vì đau đớn thể xác.
- Để diễn tả
cảm xúc, làm dịu xúc động.
- Nghe bản
nhạc, nghe bài quốc ca, xem một phim buồn, đọc chuyện thương tâm
…là cảm động, dớm nước mắt.
- Khóc khi
vui buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, đau đớn, yêu thương…nhiều khi vu,
vơ, không lý do… chỉ muốn khóc.
- Khóc để hàn
gắn vết thương lòng hoặc để thông báo có chuyện chẳng lành để
sửa đổi.
Tiến sĩ
Judith Kay Nelson phân loại khóc như sau:
(a) những cơn
khóc phản kháng để giải tỏa hoàn cảnh với tiếng gào thét tức
giận;
(b) cơn khóc
thầm lặng chịu đựng để tạo ra quan hệ mới sau một mất mát;
(c) khóc thờ
ơ không nước mắt trong hoàn cảnh hoàn toàn thất vọng.
Tác dụng của Khóc
Đã có nhiều
nghiên cứu cũng như nhận xét về tại sao ta khóc và tác dụng của
khóc.
Nhà tâm lý
Sigmund Freud cho rằng sự kích thích hạch nước mắt giúp não bộ
giảm tích tụ căng thẳng.
Giáo sư
William H. Frey có ý kiến tương tự: những căng thẳng không được
giải tỏa sẽ tăng rủi ro cơn đau tim và tổn thưong não. Theo ông,
“Hít thở để loại thán khí, tiểu tiện loại chất thải urea và khóc
để xả stress”.
Đi xa hơn,
bác sĩ người Anh, Sir Henry Maudsley báo động “Nỗi sầu muộn
không được giải tỏa bằng nước mắt sẽ làm các bộ phận khác rỉ
nước”.
Giáo sư y
khoa Trung Hoa Wan Chengkui lại có ý kiến rằng sở dĩ đàn bà sống
lâu hơn đàn ông cả 5-7 năm là vì mỗi khi có chuyện ấm ức buồn
bực là họ khóc ngay. Theo ông, nước mắt khi khóc vì xúc đông
loại khỏi cơ thể nhiều độc chất. Nhưng cũng theo ông, không nên
khóc quá năm phút.
Tác giả Lael
Wertenbaker cho hay kìm hãm nước mắt làm cho stress tăng với các
hậu quả như cao huyết áp, bệnh tim, loét dạ dày vì tác động của
stress.
Nhà nhân
chủng học Ashley Montagu quả quyết là nhỏ nước mắt không những
tốt cho sức khỏe mà còn là phương tiện đối thoại hữu hiệu, tăng
sự quan hệ thân thiện giữa người với người trong cộng đồng.
Trong khi đó,
kết quả nghiên cứu của các tác giả
Susan M. Labott
và Randall B. Martin cho hay, người dễ dàng khóc trước các hoàn
cảnh tiêu cực của cuộc sống thường hay bị rối loạn tâm tư hơn là
thoát khỏi hoặc bớt đi.
Văn thi sĩ cũng có ý kiến
về khóc.
Thi sĩ
Richard Crashaw nói “Khóc là làm vơi đi niềm thống khổ”.
Còn thi sĩ
người Anh Robert Herrick cho là “Giọt lệ là ngôn ngữ cao quý
của đôi mắt. Khi tình yêu chân thật không đủ lời để nói ra, thì
nước mắt thay lời nói trong những giây phút im lặng đó”.
Tình cảm hơn,
nhà văn Pháp Valery Larbaud lại tâm sự
“Nhưng tôi yêu những mùi vị của giọt lệ
được giữ lại, những giọt lệ dường như chảy từ cặp mắt xuống trái
tim. Tôi thu gom nó như một kho tàng”.
Nam nữ ai khóc
nhiều?
Nam nữ, già
trẻ lớn bé đều khóc, nhưng ở mức độ khác nhau.
Thường thường
nữ giới hay khóc hơn nam giới, vì họ nhiều tình cảm, dễ xúc
động. Ngoài ra, nhà sinh hóa học William H. Frey đưa ra giả
thuyết là hormon prolactin làm giảm ngưỡng xúc động ở phụ nữ
bằng cách kích thích hệ nội tiết khiến cho phụ nữ dễ dàng chẩy
nước mắt. Prolactin là một loại kích thích tố có nhiêu ở nữ giới
đặc biệt là ở tuổi dạy thì, khi có kinh, mang thai và cho con bú
sữa mẹ cũng như khi bị căng thẳng tinh thần. Prolactin có ở cả
nam lẫn nữ, nhưng tỷ lệ ở nữ cao hơn nam tới 60%. Cho nên khi
các bà các cô ở trong các giai đoạn này, xin đừng làm phiền lòng
họ kẻo họ bù lu bù loa, khó dỗ.
Trước đây cứ
nói là nam không khóc nhưng thực ra là họ có khóc nhưng ít hơn.
Theo tạp chí Man’s Health tháng Tư, 2003 trong một năm, nam khóc
14 lần còn nữ khóc gấp ba gấp bốn, tới 64 lần. Sở dĩ như vậy là
do nam giới có khả năng kìm hãm sự khóc hơn là nữ giới.
Với một vài
văn hóa, khóc là dấu hiệu của yếu đuối, phản ảnh sự bất lực,
không tự cường và cần nơi dựa dẫm, dựa vai người khác mà khóc.
Tại một số
quốc gia, nam giới tự do khóc trong khi đó tại vài quốc gia khác
như Hoa Kỳ, người nam mà khóc tu tu thì được cho là yếu đuối,
không có nam tính, là “Sissy” là “Crybaby”.
Có người cho
rằng nam giới mà khóc là do quá nhậy cảm mà nữ giới mà khóc thì
lại bị gán cho là quá xúc động đôi khi mánh khóe, có dụng ý lung
lạc, tư lợi.
Kết luận
Để kết luận,
xin mượn lời của nhà giáo kiêm tâm lý gia trị liệu, Tiến sĩ
Judith Kay Nelson: “Các bác sĩ và nhà tâm lý gắn liền khóc với
cảm xúc nhưng lại quên rằng khóc còn là một chức năng căn bản
của cơ thể. Khóc liên hệ tới sự sản xuất các loại hormon, sự co
của cơ bắp, những thay đổi sinh hóa học, những tín hiệu thần
kinh và các diễn tiến tuần hoàn, tiêu hóa hô hấp”.
Do đó, tưởng
như là giản dị nhưng nhỏ lệ là một thành phần quan trọng và cần
thiết trong cơ thể con người. Không có những giọt lệ tuôn ra,
trong ngắn hạn, cuộc đời sẽ gặp nhiều tâm trạng khó khăn và
trong dài hạn, thị lực sẽ mờ dần.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|