|
|
Lịch Sử Thần Học Chúa Ba Ngôi (tiếp
theo) Bai 4
Lm Nguyễn Khắc Hy, Ḍng Xuân
Bích
I.
Hoàn Cảnh Giáo Hội Sau
công đồng Nicea 325
Công đồng Nicea (năm 325) kết
thúc với những xác định cụ thể
về tương quan giữa Chúa Cha và
Chúa Con (Logos) là “hai
Ngôi vị khác biệt, không chia
nhau một thần tính duy nhất
nhưng mỗi Ngôi Vị đều là Thiên
Chúa trọn vẹn,”
hai Ngôi Vị có đồng bản thể (homoousios),
nghĩa là “Chúa Cha là ǵ th́
Chúa Con là thế ấy”chứ không
phải là hai bản tính tương tự
giống nhau.
Công đồng cũng lên án lạc thuyết
Arius đang rất phổ biến thời bấy
giờ, và kèm theo kỷ luật
vạ tuyệt thông cho những ai
không chấp nhận giáo huấn hay
chống lại lời dạy của công đồng.
Sau công đồng, các giám mục về
lại địa phương ḿnh. Họ tuyên
xưng lời dạy của Giáo Hội về
thiên tính Chúa Giêsu Kitô (đồng
bản thể với Chúa Cha, được sinh
ra mà không phải được tạo thành
v.v…) nhưng không cắt nghĩa.
Khi giáo dân thắc mắc về tín lư
này, chính các giám mục cũng
không thực sự hiểu nội dung tín
điều này để giải thích thoả đáng.
V́ thế, những diễn dịch về lời
dạy của công đồng tiếp tục gây
tranh căi thần học. Hoàn cảnh
lịch sử chính trị cũng góp phần
không nhỏ cho những tranh căi
này kéo dài, rồi dẫn đến những
công đồng cần thiết tiếp theo
sau đó để giải quyết.
Ngay trong hàng giám mục, không
phải tất cả đều đồng nhất với
quyết định của công đồng.
Marcellus, giám mục của Ancyra
vẫn tiếp tục công khai ủng hộ
lạc thuyết H́nh Thái Luận
Sabellianism (một Thiên Chúa
nhưng đóng ba vai khác nhau).
Ba năm sau Nicea (năm 328), giám
mục Eusebius thành Nicomedia đă
xin hoàng đế Constantine xét lại
phán quyết của Nicea và xin phép
được dạy lạc thuyết của Arius.
Hoàng đế Constantine cho phép
Eusebius dạy lạc thuyết Arius mà
không bị kỷ luật (như công đồng
Nicea đe doạ).
Rồi sau khi Constantine chết,
con là Constantius II lên ngôi
cai trị vùng Đông phương cũng
tiếp tục cổ động cho lạc thuyết
Arius.
Năm 335, một thượng hội đồng
được nhóm họp tại Tyre dưới sự
chủ toạ của Eusebius đă quyết
định ủng hộ Arius, và đảo ngược
lời dạy công đồng Nicea.
Nhưng giáo huấn của công đồng
lúc nào cũng có những giám mục
trung thành giảng dạy. Năm 328
giám mục Alexander của
Alexandria (Ai Cập) chết,
Athanasius được nhiều người tin
tưởng chọn để thay thế.
Athanasius thuyết phục rằng
việc xác định Chúa Con đồng bản
thể với Chúa Cha (homoousios) là
tối cần thiết, v́ nếu Chúa Giêsu
không là Thiên Chúa th́ loài
người không thể có ơn cứu chuộc
được, v́ chỉ có Thiên Chúa mới
đem lại được ơn cứu chuộc mà
thôi.
Tranh luận tại công đồng Nicea
về bản tính Chúa Giêsu là “Thiên
Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng
bởi Ánh sáng”, nhóm Arius
cho là Đức Giêsu được Thiên Chúa
chọn cho làm Thiên Chúa. Nghĩa
là, tự căn tính Đức Giêsu không
là Thiên Chúa, mà chỉ được vinh
thăng lên hàng Thiên Chúa mà
thôi. Athanasius biện luận rằng
v́ Chúa Giêsu tự bản tính là
Thiên Chúa, nên công đồng, sau
khi xác nhận thiên tính Chúa
Giêsu đă thêm một ḍng: “Thiên
Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”,
chứ không phải Thiên Chúa được
vinh thăng như lạc giáo Arius
tuyên truyền.
II.
Các Thần Học Gia với Thần
Học Chúa Thánh Thần
Nếu công đồng Nicea đă giải
quyết những câu hỏi về thiên
tính Chúa Giêsu Kitô, th́ nhiều
câu hỏi về Chúa Thánh Thần, nhất
là từ sau năm 360, đă gây tranh
căi gay cấn trong Giáo Hội.
Trong Nicaea, đề tài về Chúa
Thánh Thần không được bàn luận
nhiều, và nếu được nhắc đến chỉ
v́ có tương quan với Chúa Con
trong những thảo luận mà thôi.
Thật ra trong phụng vụ, giáo dân
vẫn tuyên xưng Chúa Ba Ngôi qua
công thức phép thanh tẩy (làm
phép rửa nhân danh Cha-Con-Thánh
Thần), nhưng thần học Chúa
Thánh Thần chưa được quan tâm
đúng mức. Khi cầu nguyện, Kitô
hữu có thói quen cầu nguyện trực
tiếp với Chúa Cha hay Chúa Giêsu
Kitô mà không cầu nguyện trực
tiếp với Chúa Thánh Thần, hay
đúng hơn họ cầu nguyện TRONG và
QUA Chúa Thánh Thần mà thôi.
V́ thế, nhóm Phản Thánh Thần
(Pneumatomachian) rao giảng rằng
Thánh Thần không là Thiên Chúa
mà chỉ là tạo vật, và Thiên Chúa
mặc khải qua Thánh Thần như Ngài
dùng thiên thần hay tiên tri
trong Cựu Ước, và ngay cả Thánh
Thần trong Cựu Ước khác với
Thánh Thần trong Tân Ước.
Để bênh vực cho thần học Chúa
Thánh Thần, một số những người
đáng được chú ư trong lịch sử là
thánh Athanasius,
các giáo phụ vùng Cappadocian
như thánh Basil thành Caesarea
(330-379), em trai ngài là thánh
Gregory thành Nyssa (330-395),
và thánh Gregory thành Nazianzus
(329-389).
Athanasius dùng cùng phương thức
suy luận “Chúa Con đồng bản
thể với Chúa Cha” khi áp
dụng với Chúa Thánh Thần và bảo
vệ lư luận Ba Ngôi bằng nhau.
Đồng ḷng với Athanasius, Basil
tranh luận rằng Chúa Thánh Thần
phải được tôn vinh và thờ phượng
như Chúa Cha và Con.
Gregory thành Nyssa nhấn mạnh
đến Một Bản Thể của Ba Ngôi Vị,
và Gregory thành Nazianzus cùng
với Cyril thành Alexandria nói
đến Chúa Thánh Thần đồng bản thể
với Chúa Cha, như trường hợp
Chúa Con.
Các giáo phụ Cappadonian đă giúp
giải thích cội nguồn và tương
quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa:
Chúa Cha là cội nguồn, Chúa Con
sinh ra từ Cha, và Chúa Thánh
Thần th́ từ Cha mà ra.
III.
Triệu Tập Công Đồng
Constantinople 381
Sau khi đại đế Constantine I
chết (năm 337), đế quốc Roma
chia ra làm 2 miền: Tây phương
và Đông phương. Thời Valens
(328-378), ông cai trị Đông
phương, và người anh là
Valentinian (321-375) cai trị
Tây phương. Ở Đông phương,
Valens ủng hộ lạc thuyết Arius.
Những giám mục trong vùng Đông
phương tin theo phán quyết của
công đồng Nicea th́ bị ông đuổi
khỏi giáo phận, và nhà thờ được
giao cho những nhóm theo lạc
thuyết Arius.
Khi Valens chết (378),
Theodosius I (một người ở bên
vùng phương Tây) lên thay và đảo
ngược những quyết định của
Valens. Trong sắc lệnh tháng 2
năm 380, Theodosius I ra lệnh
phải dạy những giáo huấn của
công đồng Nicea, và những ai
không chấp nhận “một thiên
tính của Cha, Con, Thánh Thần,
và ba ngôi vị bằng nhau” bị
coi là Lạc Giáo, và nếu là giáo
sĩ th́ bị kỷ luật, có khi bị đi
đày.
Theodosius I muốn củng cố địa vị
chính trị của ḿnh, và hàn gắn
những chia rẽ trong đế quốc, ông
triệu tập công đồng
Constantinople năm 381 v́ hai lư
do khẩn cấp: một là t́nh trạng
chia rẽ trầm trọng của đế quốc
bị đe dạo bởi những lạc giáo khi
nhiều giám mục vùng Đông phương
vẫn c̣n ủng hộ Arius, hai là
nhóm lạc giáo Phản Thánh Thần
nổi lên rất mạnh và lôi kéo
nhiều người khiến Giáo Hội cần
phải có câu trả lời rơ ràng về
vai tṛ Chúa Thánh Thần.
Theodosius I triệu tập công đồng
Constantinople (381)
có 186 giám mục tham dự, nhưng
36 người bị coi là “lạc giáo” v́
ủng hộ lạc thuyết Arius, c̣n lại
150 người đồng nhất lên án lạc
thuyết Arius để bênh vực Chúa
Con đồng bản thể Chúa Cha, lên
án Apollinarianism để bênh vực
Chúa Giêsu có đầy đủ bản tính
con người (con người thật), và
lên án nhóm Phản Thánh Thần để
bênh vực thần tính của Chúa
Thánh Thần.
Công đồng Constantinople tuyên
xưng: “Chúa Thánh Thần là
Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống,
Người bởi Chúa Cha mà ra, Người
được thờ phượng và tôn vinh cùng
với Chúa Cha và Chúa Con. Người
đă dùng các tiên tri giảng dạy”.
Dù công đồng xác định thần tính
của Chúa Thánh Thần, nhưng lời
văn không trực tiếp và rơ ràng
như thần tính Chúa Giêsu trong
Nicea “Thiên Chúa bởi Thiên
Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa
thật…” Công đồng
Constantinople không dùng từ “đồng
bản thể - homoousios” để nói
đến tương quan giữa Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần, nhưng trong
Điều Luật 1 của công đồng có lên
án lạc giáo Macedonians v́ không
chấp nhận thiên tính đồng bản
thể của Chúa Thánh Thần đối với
Chúa Cha và Chúa Con.
IV.
Filioque – Xung Đột giữa
Đông và Tây
Chúng ta không thể kết thúc mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi mà không nói
đến vấn nạn “Filioque- Và
Chúa Con” trong kinh Tin
Kính ta đọc hằng tuần. Chính cụm
từ này là nguyên nhân chia cắt
giáo hội Đông và Tây từ 1054 cho
đến nay.
Như ta đọc thấy lời tuyên xưng
của Constantinople: “Chúa
Thánh Thần từ Chúa Cha mà ra.”
Nhưng người Công giáo La mă ngày
nay thường đọc: “Chúa Thánh
Thần…. bởi Chúa Cha và Chúa Con
mà ra.” Vậy cụm từ “Và
Chúa Con – Filioque” từ đâu
mà có?
Từ cuối thế kỷ thứ 6 bên Tây Ban
Nha tái xuất hiện lạc thuyết
Arius, từ chối Chúa Con là Thiên
Chúa. Vậy để khẳng định Chúa Con
là Thiên Chúa thật, một số giáo
phận đă thêm “Chúa Thánh Thần
từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra.”
Về thần học, tư tưởng này không
có ǵ mới, v́ thánh Augustinô và
thánh Hilary thành Poitiers đă
nói đến cách hiểu này.
Nhưng khi công đồng miền vùng
Toledo (Tây ban Nha) họp năm 589
quyết định thêm cụm từ “Filioque
– và Con” vào kinh Tin Kính,
lại c̣n ra vạ tuyệt thông cho ai
từ chối lời dạy này, vấn đế trở
nên rất phức tạp. Lúc này, Giáo
Hội bên phương Đông cho là
Toledo vi phạm quyết định của
các công đồng chung
Constantinople (381), Ephesus
(431) và Chalcedon (451) v́
Toledo chỉ là công đồng miền mà
thôi, không thể thay đổi quyết
định công đồng chung được.
Lịch sử ghi lại là hoàng đế
Charlemagne (768-814) đọc kinh
này trong cung điện vua, và dần
dần lan ra toàn vùng Tây phương.
Tuy vậy toà thánh Roma, dù không
phản đối “filioque” nhưng
chưa đọc thêm cụm từ này trong
kinh Tin Kính ở Roma. Cao điểm
là năm 1014, ĐGH Benedict VIII
(1012-1024), trong nghi lễ trao
vương miện cho vua Henry II tại
Roma, đă đọc thêm cụm từ này
trong Kinh Tin Kính.
Khi Đấng kế vị Phêrô ở Roma chấp
thuận và đọc thêm cụm từ này,
vấn đề trở nên cực kỳ trầm trọng
v́ liên quan đến tín lư của Giáo
Hội. Giáo Hội Đông phương lên
tiếng phản đối v́ cụm từ thêm
này không diễn tả đúng thần học
Chúa Ba Ngôi trong lời dạy cúa
các công đồng xưa. Giáo hội Đông
phương lư luận rằng họ có thể
chấp nhận Chúa Thánh Thần đến từ
Chúa Cha “qua Chúa Con – per
filium” nhưng không thể “và
Chúa Con – filioque” được.
Một phần v́ chỉ có Chúa Cha là “Cội
Nguồn duy nhất” mà cả Chúa
Con và Chúa Thánh Thần từ Ngài
mà ra, và một phần v́ công đồng
Constantinople không dạy điều
này.
Sau khi tố cáo nhau là lạc giáo,
hai Giáo Hội Đông và Tây (Chính
Thống gíáo và Công Giáo) tách
biệt nhau từ năm 1054. Với Giáo
hội Công Giáo Tây phương, công
đồng Lateran năm 1215 tái khẳng
định Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha
và Chúa Con mà ra, và được công
đồng Lyons (1274) và
Florence (1438-1445) lặp lại lời
dạy này.
Vấn nạn “và Chúa Con -
filioque” đem lại chia rẽ
trong Giáo Hội là điều đáng buồn.
Nhưng ngày nay, cả hai giáo hội
Đông và Tây đang có nhiều cố
gắng t́m đến hợp nhất với nhau.
Mọi sử gia và thần học gia ngày
nay đều hiểu rằng hoàn cảnh
chính trị và xă hội thời đó góp
phần nhiều cho sự chia rẽ 1054.
Nhưng về căn bản thần học, dù
tuyên xưng “Chúa Thánh Thần
từ Chúa Cha mà ra, hay từ
Chúa Cha và Chúa Con (filioque)
mà ra, hay từ Chúa Cha
qua Chúa Con (per filium) mà ra…”
tất cả chỉ là những cách diễn tả
khác nhau cho cùng một thực thể:
Một Thiên Chúa nhưng Ba Ngôi
Vị, Bằng Nhau và có Bản Thể Như
Nhau (đồng bản thể). Nói
cách khác, vấn đề không c̣n là
sai lạc thần học tín lư, mà phần
lớn là quyền bính Đức Giáo Hoàng
và điều hành mục vụ có là nguyên
nhân ngăn trở đối thoại hiệp
nhất giữa Đông và Tây không?
Lời ước nguyện Chúa Giêsu “Lạy
Cha, xin cho chúng nên một”
(Jn 17:21) không biết khi nào
mới trở nên hiện thực?
V.
Kết Luận
Hai công đồng Nicea (325) và
Constantinople (381) đă làm sáng
tỏ thần học Chúa Ba Ngôi, xác
định rơ ràng đối tượng của đức
tin được tuyên xưng trong Kinh
Tin Kính mà Kitô hữu vẫn đọc
hằng tuần, và để lại một công
thức mẫu mực đức tin căn bản
nhất cho mọi Kitô hữu, được tóm
gọn trong giáo lư Công Giáo: “Đức
tin công giáo hệ tại điều này:
chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa
trong Ba Ngôi và Ba Ngôi trong
Một Thiên Chúa mà không lẫn lộn
các Ngôi Vị, không phân chia bản
thể: thật vậy Ngôi Cha là khác,
Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh
Thần là khác; nhưng thần tính,
sự vinh quang ngang nhau và uy
quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của
Chúa Con và của Chúa Thánh Thần
là một”
(số 266).
Eusebius thành Nicomedia
đóng vai tṛ quan trọng
với đại đế Constantine
v́ ông làm các phép bí
tích khai tâm cho
Constantine ở giường
bệnh năm 337. Sau khi
hoàng đế Constantine
chết, Eusebius viết cuốn
“Cuộc Đời Constantine
–tiếng Latin:
Vita Constantini”
được coi là cuốn sách
lịch sử gía trị nói về
cuộc đời hoàng đế và
hoàn cảnh Giáo hội thời
bấy giờ.
Athanasius là một phó tế
và là thần học gia trụ
cột của công đồng Nicea.
Ngài bị trục xuất khỏi
giáo phận Alexandria 5
lần chỉ v́ không chịu
theo thuyết Arius.
Xem A. McGiffert, A
History of Christian
Thought, Early and
Eastern (New
York-London, 1947) 1,
pp. 246-257.
Athanasius hiểu rằng sở
dĩ có người chống đối
Nicea v́ họ sợ nếu chấp
nhận “Chúa Con đồng
bản thể với Chúa Cha”
sẽ dễ gây hiểu lầm là
Chúa Con không c̣n khác
biệt với Chúa Cha nữa,
như thế th́ không c̣n là
Hai Ngôi Vị, mà chỉ c̣n
Một Ngôi Vị thôi.
V́ thế, nhiều người
không muốn nói “đồng
bản thể - homoousios”
mà nói là “giống
(tương tự) bản thể -
homoiousios” mà
thôi. Dù Athanasius,
theo công đồng Nicea,
lên án “giống bản thể
- homoiousios” là
lạc giáo, Athanasius
cũng chấp nhận lối giải
thích của công đồng miền
Alexandria năm 362 nói
là Chúa Cha-Con-Thánh
Thần có “Một bản thể”
nếu lối nói này phải
hiểu là Ba Ngôi Vị riêng
biệt khác nhau, và cũng
có thể nói là “Ba Bản
Thể” với điều kiện
không được hiểu là Ba
Thiên Chúa. Xem John A.
McGuckin “The Trinity in
the Greek Fathers”
in The Trinity –
The Cambridge Companion,
ed. P. Phan (Cambridge
University Press, 2011),
p. 62-65.
Một câu đơn điệu trong
tuyên ngôn công đồng
Nicea: “Chúng ta tin
vào Chúa Thánh Thần”.
Câu này thêm vào nhằm
chống lại nhóm Phản
Thánh Thần lúc bấy
giờ tuyên truyền rằng
Chúa Thánh Thần không là
Thiên Chúa, mà chỉ là
tạo vật được Thiên Chúa
dựng nên, rằng Chúa
Thánh Thần luôn đứng sau
Chúa Cha và Chúa Con.
Họ xem Chúa Thánh Thần
là một tertum quid -
hữu thể thứ ba, giữa
Thiên Chúa và con người.
Xem
H. Jedin, History of
the Church, The Imperial
Centuries from
Constantine to the Early
Middle Ages (New
York, 1980) vol. 2, p.
73.
Xem
A. von Harnack,
History of Dogma
(New York, 1961) 4, p.
119. Thánh Basil tranh
luận về thiên tính của
Chúa Thánh Thần và tính
b́nh đẳng của Ngài với
Chúa Cha và Chúa Con dựa
vào công thức rửa tội.
Xem tác phấm của Ngài Về
Chúa Thánh Thần trong bộ
Nicene and
Post-Nicene Fathers,
2nd series., vol. 8, p.
24.
Thánh Athanasius là thần
học gia chính chống lại
lạc thuyết Arius. Những
lư luận của Ngài được áp
dụng trong tranh luận về
thần học Chúa Thánh Thần,
và những tư tưởng của
Ngài được công đồng
Constanstinople (381)
đón nhận và được công
đồng Chalcedon (451) lặp
lại khi đúc kết thành
Kinh Tin Kính mà chúng
ta tuyên xưng ngày nay.
Xem Athanasius of
Alexandria, Against
the Arians, 3.1-3.
Athanasius đă không sống
để thấy những cố gắng
của ḿnh được công nhận
ở công đồng
Constantinople 381.
Các giáo phụ
Cappadocians không hoàn
toàn có cùng quan điểm
thần học giống nhau,
nhưng v́ cùng ủng hộ lời
dạy của Nicea và cùng
hiểu tầm quan trọng của
thần học Chúa Thánh
Thần, họ được gom thành
một nhóm gọi là các giáo
phụ Cappadocian. Về danh
từ “một bản thể, ba
ngôi vị”, dù ít thấy
trong các bài viết của
các giáo phụ, nhưng tư
tưởng này được các ngài
giảng dạy rơ ràng.
Trong bản kinh tin kính
gốc tiếng Hi Lạp, các
giáo phụ dùng những động
từ khác nhau để chỉ việc
Chúa Con và Chúa Thánh
Thần từ Cha mà ra, và
cũng để nói lên sự khác
nhau giữa Chúa Con và
Chúa Thánh Thần dù cả
hai đến từ Chúa Cha. Với
Chúa Con th́ Ngài “được
sinh ra –monogenes);
với Chúa Thánh Thần th́
Ngài không được sinh như
Chúa Con, nhưng “từ
Cha mà ra –
ekporeuomenon).
Basil c̣n nói Chúa Thánh
Thần không được “sinh
ra” như Chúa Con, mà
là “hơi thở từ Chúa
Cha”. Xem thêm tác
phẩm của Gregory thành
Nazianzus Oration
25.16; Oration 26.19.
Tháng 11 năm 380,
Theodosius I đến
Constantinople và ra
lệnh trục xuất giám mục
Demophilus v́ ông này
theo lạc thuyết Arius.
T́m hiểu sắc lệnh “Cunctos
populos” xem The
Theodosian Code, ed.
C. Pharr (Princeton,
1952) 16.1.2. và xem
H. Jedin, History of
the Church, The Imperial
Centuries from
Constantine to the Early
Middle Ages (New
York, 1980) 2, p. 68.
Giáo hội Công Giáo lư
nhắc đến Chúa Thánh Thần
nhận mọi sự từ Chúa Con
(Gioan 16:14), được Chúa
Kitô sai đi, và được gọi
là Thần Khí của Đức
Kitô (Rm 8:9; 1 Pet
1:11) hay Thần Khí
của Đức Giêsu (Acts
16:7; Phil 1:19). V́ đă
chia cắt từ năm 1054,
nên Giáo hội Công giáo
gọi ba công đồng trên là
công đồng chung, nhưng
giáo hội Chính Thống
không công nhận v́ họ
không tham dự.
|
|
|
|