Lịch Sử Thần Học Chúa
Ba Ngôi
I. Giới
Thiệu:
“Nhân danh Cha, và Con
và Thánh Thần”
“Đức tin công giáo hệ
tại điều này: thờ kính Một Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi
Một Chúa mà không lẫn lộn giữa các Ngôi Vị, không
chia cắt bản thể: v́ Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi
Thánh Thần khác biệt nhau; nhưng Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần có cùng một thiên tính, một vinh
quang, một uy quyền vĩnh cửu” (Giáo lư Công Giáo,
số 266).
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là
nền tảng căn bản đức tin Kitô giáo. Tất cả mọi tín
lư đều từ đó mà ra, và tất cả rồi sẽ quy tụ về mầu
nhiệm căn bản này.
Chúng ta tuyên xưng “Tôi
Tin Một Chúa, Ba Ngôi, Đồng Bản Thể v.v….” như
trong Kinh Tin Kính ta đọc hằng tuần, nhưng tín điều
này h́nh thành thế nào? Và được Kitô hữu đón nhận
thế nào?
Chú Thích:
V́ nội dung tín điều này tự nó khó hiểu, và bối cảnh
lịch sử cũng quá phức tạp, tôi sẽ cố gắng tóm tắt
những điểm quan trọng và giải thích những ǵ cần
giải thích. Bài đầu tiên nói đến hoàn cảnh lịch sử
từ thời khai sinh Giáo hội đến công đồng Nicea năm
325. Bài kế tiếp nói đến những tranh căi dẫn đến
công đồng Constantinople năm 381 trở về sau.
Điều quan trọng nữa là
trước khi vào bài viết, tôi xin phân biệt danh từ mà
người Việt chúng ta thường bị lầm lẫn khi dùng danh
xưng “Thiên Chúa” và “Chúa”
trong lời cầu nguyện hay trong câu chuyện hằng ngày.
Khi nói đến Thiên Chúa (Deus/
God/ Dieu/Dios), chúng ta nói đến Một Thiên
Chúa Đấng làm chủ muôn loài, muôn vật. Từ này được
dịch từ Elohim (Do thái) và
Theos (Hi Lạp). C̣n khi ta dùng từ “Chúa”
(Dominus/ Lord/ Seigneur/Senor) như “Chúa
Giêsu Kitô” là dịch từ Adonai
(Do thái) hay Kurios (Hy Lạp). Từ này
có nghĩa là: một ông/bà chủ/ một bậc thầy/ một
bậc chúa (như ta nói đến chúa Trịnh, chúa Nguyễn
trong lịch sử nước ta.)
Người Do thái không dám
kêu tên Thiên Chúa (Giavê), nên họ dùng từ
Adonai/Chúa chỉ chức vị mà nói đến Thiên
Chúa. V́ thế, trong bài viết, cần phân biệt rằng khi
thánh Phaolo viết: Chúa Giêsu Kitô (Lord Jesus
Christ/ Dominus Iesus Christus), Ngài không
có ư tuyên dương Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mà chỉ
nói lên một ngôi vị được kính trọng mà thôi. Dĩ
nhiên ngày nay chúng ta tin Chúa Giêsu là
Thiên Chúa, nhưng niềm tin này không hẳn có
ngay từ đầu với các Kitô hữu sơ khai, kể cả các tông
đồ, mà có thời gian dài để chính niềm tin này được
thử thách và tôi luyện trước khi được Giáo Hội công
nhận.
II. Bối
Cảnh Sau Khi Chúa Giêsu Sống Lại và Lên Trời
Vậy những Kitô hữu đầu
tiên nghĩ Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi Chúa Giêsu đặt
ra cho các môn đệ: “người ta gọi Con người là
ai?... và các con gọi Ta là ai?” được Phêrô trả
lời nói lên cái nh́n của Kitô hữu đối với Chúa Giêsu
trong thời kỳ đầu Giáo Hội “Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mat 16:16)
Nói cách khác, những Kitô
hữu đầu tiên tin Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến,
tin rằng Ngài có những căn tính và phẩm chất vượt
trên con người và cả thiên thần, tin rằng Thiên Chúa
ưu đăi và ngay cả chọn Đức Giêsu để mặc khải ư định
Thiên Chúa cho con người. Tuy vậy, họ chưa dám tin
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa v́ họ tin chỉ có Một
Thiên Chúa mà thôi. Nếu tin Đức Giêsu là Thiên Chúa,
liệu họ có bị lạc giáo v́ tin có Hai Thiên Chúa
không?
Các tông đồ và những Kitô
hữu đầu tiên là những tín đồ Do Thái giáo, họ tiếp
xúc với Cựu Ước và luật Môisê, và họ tin chỉ có Một
Thiên Chúa là Vua của mọi loài tạo vật. Dù đi theo
Đức Giêsu Kitô, họ tiếp tục xây dựng đức tin ḿnh
dựa trên cơ sở Độc Thần (monotheism) mà Thiên Chúa
trong Cựu Ước đă nhiều lần cảnh cáo và ngay cả trừng
phạt khi dân Israel bỏ Yahweh đi thờ tà thần: “Chúng
tôi biết rằng…. chỉ có một Thiên Chúa và không ai
khác” (xem Exod 20:3; Isa 45:5; 1 Cor 8:4; Acts
17:24-29). Hơn nữa, họ biết rằng chính Chúa Giêsu
cũng thờ phượng và cầu nguyện cùng Thiên Chúa Giavê,
cũng giữ luật (như rửa tay, ngày Sabat…) và mừng các
lễ (Vượt Qua…) theo phép Đạo Do Thái.
Dù thánh Phaolô rao giảng
nhiều về tin mừng và con người Chúa Giêsu, Ngài
không bao giờ tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa
(Deus), mà chỉ nói đến là Chúa (Kyrios) mà thôi.
Trong ba tin mừng Nhất Lăm (Matthêu, Macô, Luca)
cũng không hề nói đến Chúa Giêsu là Thiên Chúa,[1]
mà chỉ nói Ngài là “Con Thiên Chúa” mà thôi.[2]
Chỉ có phần cuối tin mừng Gioan có lời tuyên xưng
của Tôma khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi
Ngài sống lại và cho phép ông xỏ tay vào dấu đanh,
ông đáp: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”(Jn 20:28). Các nhà Kinh thánh tin rằng vào
cuối thế kỷ đầu tiên (tin mừng Gioan được viết trong
thời gian này), cộng đoàn Kitô hữu bắt đầu tuyên
xưng “Chúa Giêsu là Thiên Chúa” trong những
nghi thức phụng vụ. Dù tuyên xưng như thế, nhưng
việc hiểu nội dung của lời tuyên xưng cần nhiều thời
gian để t́m hiểu và tranh luận.
Vậy đầu thế kỷ thứ 2,
Giáo Hội đă công nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa
chưa? Đă có những giáo huấn rơ rệt về căn tính và
con người Đức Giêsu chưa? Câu trả lời sẽ không rơ
ràng và dễ dàng như ta nghĩ.
III. Những
Tuyên Xưng Đức Tin Thửa Ban Đầu
Ta nhận ra cảm nghiệm của
Kitô hữu với Thiên Chúa Ba Ngôi khi đọc thấy những
lời tuyên xưng đức tin trong đời sống phụng vụ của
họ.
Thánh Phaolô viết: “Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô
ban cho anh em ân sủng và b́nh an.”(Gal 1:3)[3]
Với dân Thessalonica: “Xin chính Thiên Chúa là
Cha chúng ta, và xin Chúa chúng ta là Đức Giêsu san
phẳng con đường dẫn chúng tôi đến với anh em.”
(1Thes 3:11).[4]
Trong thư gởi Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một
Thần Khí… một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ
có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên
mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” (Eph
4:4-6).
Và “Có nhiều đặc sủng
khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều
hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa
làm mọi sự trong mọi người.” (1 Cor 12:4-6).
Và khi Phêrô nói với dân
trong ngày lễ Ngũ Tuần: “Vậy toàn thể nhà
Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh
em đă treo trên thập giá, Thiên Chúa đă đặt Người
làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Acts 2:36).
Thư gởi tín hữu Do Thái
nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa
đă phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă phán dạy chúng
ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đă nhờ Người mà dựng nên
vũ trụ, đă đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật
muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là h́nh
ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng
dùng lời quyền năng của ḿnh mà duy tŕ vạn vật”
(Heb 1:1-3). Đây là lời tuyên xưng Đức Kitô được
Thiên Chúa chọn lựa để rao giảng ư định Thiên Chúa.
Rơ nhất và ngắn nhất là
công thức trong phụng vụ mà ta vẫn dùng ngày nay: “Cầu
chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa
Giêsu Ki-tô, đầy t́nh thương của Thiên Chúa, và ơn
hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cor 13:13).[5]
IV. Các Giáo
Phụ Sau Thời Các Tông Đồ
Dù tin chỉ có Một Thiên
Chúa (độc thần), nhưng các giáo phụ (khoảng năm
90–140) bắt đầu t́m cách cắt nghĩa về những câu hỏi
nhắm đến Chúa Giêsu Kitô: Ngài là ai? Là Thiên Chúa
hay con người? Hay cả hai?
Để cắt nghĩa những câu
hỏi này, các giáo phụ bắt đầu t́m hiểu về nhân tính
và thiên tính của Đức Giêsu Kitô.
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều
thần học gia thuộc nhóm Hộ Giáo (apologia)
bắt đầu cắt nghĩa thần học để giải đáp những thắc
mắc của Kitô hữu.
Đọc tin mừng Gioan, ta
thấy: “Lúc khởi đầu đă có Logos (Ngôi Lời). Logos
(Ngôi Lời) vẫn hướng về Thiên Chúa, và Logos (Ngôi
Lời) là Thiên Chúa.” (Jn 1:1).[6]
Justin Martyr (khoảng năm
100-165), và học tṛ là Tatian (110-180), ông
Theophilus thành Antiokia (chết khoảng 180-185),
Athenagoras (cuối thế kỷ 2), và nhiều người khác đă
khai thác triết học Hi Lạp đương thời để cắt nghĩa
thần học Kitô giáo. Họ là nhóm đầu tiên được xem là
những thần học gia cắt nghĩa Chúa Ba Ngôi cách có hệ
thống.
Theo nhóm này, Logos của
Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài xuất hiện cách kín
đáo trong Cựu Ước.[7]
Khi đọc sách Châm Ngôn, Justin cho là Thiên Chúa sai
Ngôi Lời đến với mục đích tạo dựng vũ trụ: “ĐỨC
CHÚA đă dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,
trước mọi công tŕnh của Người từ thời xa xưa nhất.”
(Châm ngôn 8:22).
Chính Logos này giờ đây
xuống thế làm người, như được tŕnh bày trong tin
mừng Gioan. Nhưng so sánh với Chúa Cha, Justin cho
là Logos đứng “hạng hai” và Thần Khí th́ “hạng ba”.
Nghĩa là chỉ có Một Thiên Chúa, c̣n Logos và Thần
Khí không đồng hạng được.[8]
Nói tóm, Justin và những
giáo phụ đầu tiên này t́m cách cắt nghĩa Logos trong
chức năng tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa,
nhưng luôn giữ vững lư luận rằng Chúa Cha là nguồn
gốc, là khởi đầu mọi sự.
Một người khác có công
đóng góp rất nhiều cho thần học Chúa Ba Ngôi thời sơ
khai là Tertullian (150–225). Ông là người đầu tiên
dùng danh từ Chúa Ba Ngôi (Latin: trinitas),
và những danh từ “bản thể -substantia , ngôi
vị- persona” khi cắt nghĩa mầu nhiệm này.
Chính ông là người đầu tiên nhấn mạnh rằng Ba Ngôi
cùng Bản Thể (Latin: una substantia et tres
personae). Nhưng để cắt nghĩa thế nào mà Ba
Ngôi chỉ có Một Thiên Chúa, Tertullian cho là mầu
nhiệm này hiện hữu với mục đích mặc khải cho con
người mà thôi, nghĩa là, v́ mục đích tạo dựng và cứu
chuộc nên Ba Ngôi đă tỏ cho loài người biết như ḿnh
đang t́m hiểu.
Ông phân biệt Nội
tại và Nhiệm cục trong Ba Ngôi. “Nội
tại- theologia” là sự sống, hoạt động, bản
thể, căn tính v.v… của Ba Ngôi mà loài người hoàn
toàn không thể nào biết được. “Nhiệm cục-
Oikonomia” là những ǵ Ba Ngôi tỏ ra cho con
người hiểu như Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con xuống thế
cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hoá con người v.v…
Rồi đây, theo ông, cuối cùng th́ Nhiệm cục-
Oikonomia sẽ chấm dứt để trở lại Nội
tại- theologia của Một Thiên Chúa mà thôi.
Với căn bản thần học của
những giáo phụ trên đây (và c̣n rất nhiều những tư
tưởng của các vị đương thời), một số những thần học
gia đă có những cắt nghiă sai lạc trong khi t́m
hiểu, đem lại những lạc thuyết trong Giáo Hội. Chúng
ta cần biết một vài lạc thuyết căn bản để hiểu Mầu
Nhiệm Chúa Ba Ngôi.
V́ là con người, nếu
chúng ta không đủ khả năng để hiểu Mầu Nhiệm Chúa Ba
Ngôi là G̀, th́ ít nhất, qua các lạc thuyết bị lên
án, chúng ta hiểu được Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi KHÔNG
là G̀.
V. Những Lạc Thuyết
Để t́m cách giữ vững tín
điều chỉ có Một Thiên Chúa, một vài những lạc thuyết
phổ biến lúc bấy giờ:
Thuyết Phụ Thuộc (hay Thứ
Vị Luận - subordinationism):
cho là Chúa Con và Chúa Thánh Thần phụ thuộc và Chúa
Cha cả bản tính và sự hiện hữu. Nghĩa là, về phẩm
trật, Chúa Cha trên Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Về
hoạt động hay hiện hữu, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
hoàn toàn lệ thuộc vào Cha. Thuyết này từ chối Ba
Ngôi bằng nhau.
Thuyết Nhất Ngôi Nhất Thể
Luận (Monarchianism)
cho rằng chỉ cỏ một Thiên Chúa, một Bản Thể, một
Ngôi vị không chia sẻ cho ai (tiếng Hi lạp: monos
= một; archein = cai quản, thống trị). Lạc
thuyết này rơ ràng từ chối thiên tính trong Chúa
Giêsu, v́ theo họ, Thiên Chúa không chia sẻ với ai.
Họ cũng lư luận: nếu ai công nhận Đức Giêsu là Thiên
Chúa, th́ khi Đức Giêsu chết trên thánh giá, Thiên
Chúa cũng phải đau khổ và chết. Những người theo
nhóm này có có tên là Patripassionism, nghiă là
“Chúa Cha Chịu Đau Khổ” (Patri- Cha; passion-đau
khổ)
Thuyết Thừa Tự
(Adoptionism)
cho rằng Đức Giêsu Kitô tự bản chất không là Thiên
Chúa, nhưng được Thiên Chúa tạo dựng, và cho làm con
Thiên Chúa, nghĩa là được chọn làm thừa tự. Chủ
thuyết này căn cứ vào tin mừng khi Chúa Giêsu chịu
phép rửa và được Thiên Chúa Cha công nhận: “Con
là con yêu dấu Cha, Cha hài long về con” (Mk
1:9). Lạc thuyết này từ chối Chúa Giêsu LÀ
Thiên Chúa từ đời đời, v́ Ngài chỉ TRỞ NÊN
Thiên Chúa khi Chúa Cha cho phép mà thôi..
Thuyết H́nh Thái Luận
hay Mô Thức
Luận (Modalism) cho là chỉ có Một Thiên Chúa
nhưng Ngài có 3 bộ mặt hay h́nh thức biến thái khác
nhau. Từ khởi đầu, Thiên Chúa Cha là đấng tạo dựng
vũ trụ. Qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa mang h́nh
hài Chúa Con. Sau khi lên trời, Thiên Chúa mang h́nh
dạng Chúa Thánh Thần. Đây có thể là lạc thuyết phổ
biến nhất lúc bấy giờ. Thuyết này từ chối Ba Ngôi Vị
riêng biệt.
VI. Arius và
Những Tranh Căi Thần Học Chúa Ba Ngôi
Nếu chỉ có một Thiên
Chúa, vậy Đức Giêsu Kitô là ai? Là con người hay
Thiên Chúa? Rồi Chúa Thánh Thần là ai?
Tất cả những câu hỏi này
khởi đầu cho những tranh căi thần học, giúp làm sáng
tỏ những ngộ nhận và khai thông những hiểu biết về
đức tin Kitô giáo.
Arius là người đóng vai
tṛ quan trọng khi những tranh căi thần học xoay
quanh lạc thuyết do ông chủ trương, và dĩ nhiên sau
này bị Giáo Hội lên án. Tranh căi bắt đầu khi Arius,
một linh mục ở Alexandria, Ai cập (khoảng 256–336),
dạy rằng: Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa, nhưng
Ngài là một tạo vật, được Thiên Chúa dựng nên và cho
làm nghiă tử. V́ thế, ông kết luận: “có một thời
kỳ, người con (Đức Giêsu) đă không có mặt” (ư
muốn nói, Chúa Giêsu được tạo dựng, v́ thế, trước
khi tạo dựng, Chúa Giêsu đă không có hiện hữu; như
vậy, Ngài không có hiện diện từ đời đời).
Ông bị giám mục Alexander
của thành Alexandria (chết năm 326), họp hội đồng
giám mục địa phương năm 321 lên án, cấm ông dạy lạc
thuyết này, và ra vạ tuyệt thông cho ông. Arius
khiếu nại lên với các giám mục khác, và được giám
mục Eusebius thành Nicomedia ủng hộ. V́ thế, Arius
tiếp tục giảng dạy. Hơn nữa, thuyết của ông hấp dẫn
rất nhiều Kitô hữu bấy giờ v́ nó hợp với Kinh thánh
, dễ hiểu, bảo vệ được đức tin Độc Thần (Một Chúa),
và tránh Đa Thần (nhiều Chúa).[9]
Người chống đối Arius
mạnh mẽ nhất là giám mục Athanasius (276-373), với
lập luận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa, và Ngài đă có
mặt từ đời đời, không thể nào chấp nhận là “đă có
lúc không có Đức Giêsu.”
Tranh căi trầm trọng đến
độ đem lại chia rẽ trong Giáo Hội, và đe doạ sự hợp
nhất của đế quốc Roma. Đại đế Constantine (280-337)
, sau khi nắm quyền cai trị toàn đế quốc Roma (ở
phương Tây) và hợp thức hoá Kitô giáo (năm 313), ông
thấy cần bảo vệ sự hợp nhất trong đế quốc. Dù không
quan tâm lắm đến vấn đề thần học, Constantine triệu
tập công đồng chung Nicea (năm 325) với chừng 300
giám mục (1/6 tổng số bấy giờ) tham dự với hy vọng
là nếu Công đồng chung ra quyết định, tất cả các
giám mục buộc phải tuân theo. Như thế, trật tự xă
hội được bảo đảm. Để chắc chắn thành công, đại đế
Constantine áp lực và có khi kỷ luật cho những giám
mục không kư vào bản tuyên xưng mới, và có vị c̣n bị
lưu đày.
Thành phần tham dự Công
đồng có ba nhóm: một thiểu số theo Arius, một thiểu
số theo Athanasius, và đa số không thực sự hiểu
những phức tạp của nội dung tranh căi, nhưng chỉ
muốn được b́nh an.
Khi Công đồng kết thúc,
quyết định được đưa ra là lên án Arius, và khẳng
định: “Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha
(homoousios), và Chúa Con được sinh ra nhưng không
phải được tạo thành, và Ngài có từ trước đời đời…”[10]
Nên biết rằng những giáo
huấn của Công đồng không nhằm mục đích định nghĩa
căn tính của Thiên Chúa, căn tính của Chúa Giêsu
Kitô hay giải thích những căn tính này, nhưng chỉ
với mục đích là Tuyên Xưng Đức Tin, nghĩa là, đây là
điều ta bắt buộc phải tuyên xưng, ngay cả khi ta
không hiểu.
Những tuyên xưng này
không chấm dứt nhưng tranh căi trong Giáo Hội về mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà tranh căi vẫn tiếp tục để làm
sáng tỏ vai tṛ Chúa Giêsu và vai tṛ Chúa Thánh
Thần trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong những Công
đồng sau (c̣n tiếp).
[1]
Trong Phúc Âm Matthew, ta đọc được Chúa Giêsu truyền
cho các môn đệ: “Vậy anh em hăy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”
(Mat 28:19). Liệu câu này có phải là câu khẳng định
Chúa Ba Ngôi (Cha-Con-Thánh thần) như ta hiểu ngày
nay không? Các nhà kinh thánh đều đồng ư rằng đây là
công thức tuyên xưng đức tin cho những người gia
nhập Giáo Hội thời sơ khai, nhưng nội dung thần học
về tín lư Chúa Ba Ngôi lúc bấy giờ hoàn toàn không
như ta hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi sau này. Nghĩa là, lúc
đó Kitô hữu chưa hiểu Chúa Cha-Con-Thánh Thần đồng
ngôi vị, đồng bản thể v.v… như Giáo Hội dạy sau này.
Ta sẽ nói thêm về nội dung này sau.
[2]
Danh xưng “Con Thiên Chúa” được dùng trong
Kinh Thánh không nhất thiết nói lên thiên tính của
người được lănh nhận danh xưng này. Trong Cựu Ước,
từ “Con Thiên Chúa” đôi khi được dùng để nói
đến các thiên thần (Gen 6:2), hay các vị vua (Ps
2:7), hay những người lành thánh (Wis 2:18), hay dân
Israel nói chung (Exod 4:22). Đến thời Chúa Giêsu,
danh xưng này mang thêm tính Mesia và có hàm ư thiên
tính.
[3]
Xem thêm thư 2 John 3.
[4]
Xem thêm trong 1 Tim 2:5-6 và 1 Cor 8:6.
[5]
Đầu thánh lễ, chủ tế đón chào: “Nguyện xin ân
sủng Đức Giêsu Ki-tô Chúa chúng ta, t́nh yêu của
Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở
cùng tất cả anh chị em…”
[6]
Từ Logos được hiểu là “Lời, Lư Luận, Tư Duy,
Logic…” Trong kinh thánh ta dịch là Lời hay Ngôi Lời.
Với tư tưởng triết Hi Lạp, Logos là một sản
phẩm của Thượng Đế (Thiên Chúa) ban cho con người và
nhờ đó con người biết suy nghĩ. Justin Martyrs dùng
lư luận này để cắt nghĩa tại sao người Do Thái và Hi
Lạp cùng đọc và hiểu được chân lư chứa đựng trong
Cựu Ước. Xem J. Blenkinsopp, The Pentateuch: An
Introduction to the First Five Books of the Bible
(New York, 1992), 176.
[7]
Trong sách Sáng Thế kể chuyện có ba nhân vật viếng
thăm Abraham ở Mamre (Gen 18:2). Có phải là Thiên
Chúa viếng thăm trong h́nh hài thiên thần không? Tư
tưởng này cảm hứng cho Andrei Rublev, một tu sĩ Nga,
vẽ bức i-con Chúa Ba Ngôi vào thế kỷ 15. Một nơi
khác là câu nói của Thiên Chúa khi tạo dựng vũ trụ:
“Thiên Chúa phán: "Chúng ta hăy làm ra con người
theo h́nh ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con
người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dă thú,
tất cả mặt đất và mọi giống vật ḅ dưới đất." (Gen
1:26). Liệu chủ từ số nhiều “chúng tôi” ở đây có ám
chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa và diễn tả căn tính Thiên
Chúa hay không?
[8]
Xem G. Von Rad, Old Testament Theology,
translated by D. M. G. Stalker, (New York,
1962-1965) vol. 2: 206.
[9]
Arius trích Kinh Thánh để chứng minh là Chúa Con
được tạo dựng bởi Thiên Chúa Cha. Trong John 17:3 “Mà
sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa
duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đă sai
đến, là Giê-su Kitô.” Trong Col 1:15 “Người
con là h́nh ảnh Thiên Chúa vô h́nh, là con đầu được
sinh ra trước mọi loài thọ tạo.” và Châm Ngôn
8:22 “ĐỨC CHÚA đă dựng nên ta như tác phẩm đầu
tay của Người, trước mọi công tŕnh của Người từ
thời xa xưa nhất.” Công đồng Nicea khi lên án
Arius đă nói đến bản tuyên xưng đức tin không chỉ
dựa vào Kinh Thánh, mà c̣n dưới sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần qua Giáo Hội.
[10]
Trong bản tuyên xưng này, Công đồng cũng chưa nói
nhiều đến vai tṛ Chúa Thánh Thần, nhưng những công
đồng sau sẽ tiếp tục những ǵ đă được mở đầu ở công
đồng này.