Mỗi tôn giáo có những đặc ngữ riêng. Bài viết này giúp độc giả hiểu tại sao người Công Giáo Việt Nam gọi cha mẹ Linh Mục là Ông Bà Cố và tại sao khi xưa gọi vị nữ tu ḍng Mến Thánh Giá là Bà Mụ.
Ông Bà Cố: Người Công Giáo Việt Nam có tục lệ gọi cha mẹ Linh Mục là Ông Bà Cố cho dù “Ông Bà Cố”này đôi khi c̣n rất trẻ. Lối xưng hô này bị một số người chỉ trích là tâng bốc vị Linh Mục. Lời phê b́nh đó có xác đáng không? Chúng ta t́m hiểu vấn đề này trong văn hóa Việt Nam. Theo Từ Điển Văn Học Việt Nam của cố Lm Trần Văn Kiệm, từ Cố 故 vừa là Hán Việt vừa là Nôm có ít nhất 7 nghĩa sau đây:
(1) Gắng sức: cố công mài sắt.
(2) Đành chịu: cố đấm ăn xôi.
(3) Cha mẹ của ông bà: ông bà cố.
(4) Gặp thế kẹt: Quân tử cố cùng cũng thẹn mặt.
(5) Linh mục Thiên Chúa Giáo: Cố đạo.
(6) Trao đồ lấy tiền rồi chuộc lại: cầm cố.
(7) Cha mẹ của những người làm quan hay đỗ cử nhân.
Theo nghĩa số 7 trên đây, người Công Giáo Việt Nam gọi cha mẹ linh mục là Ông Bà Cố v́ dựa vào phong tục xưa gọi cha mẹ những người làm quan hay đỗ cử nhân là Ông Bà Cố. Chúng ta cũng thấy, con trai con gái nhà quan hay nhà giầu ngày xưa được dân chúng gọi là Cậu hay Cô. V́ vậy mới có danh từ Cậu Ấm – Cô Chiêu.
Đối với các vị linh mục, giáo dân công giáo xưa coi các vị này đă học tập lâu dài, như đă đỗ được một bằng cấp cao, do đó mới có tiếng Đỗ Cụ.
Vậy việc xưng hô với cha mẹ linh mục là Ông Bà Cố hoàn toàn dựa vào phong tục dân gian, chứ không có ư tâng bốc vị linh mục như nhiều người lầm tưởng.
Bà Mụ: Vào đầu thế kỷ 20 dân chúng thường dùng danh từ Bà Mụ để chỉ bất cứ Bà Ḍng Mến Thánh Giá nào và nhà ḍng Mến Thánh Giá được gọi là Nhà Mụ. Đây là hai từ cổ được dùng rất phổ biến từ những năm 1950 trở về trước. Vậy nguyên nhân nào các chị Nữ Tu Mến Thánh Giá lại được gọi là bà Mụ - một danh xưng không được “ra vẻ” cho lắm.
Thực ra dân chúng đă hiểu lầm ư nghĩa của từ Bà Mụ. Theo bản văn luật ḍng Mến Thánh Giá xưa được gọi là phép nhà, th́ nguyên nghĩa của từ Bà Mụ là để chỉ bà bề trên cơ sở ḍng Mến Thánh Giá và từ Chị Ả để chỉ bà phó bề trên, c̣n các chị ḍng khác được gọi chung là chị em.
Đoạn 19 trong bản luật thế kỷ 18 của ḍng Mến Thánh Giá viết như sau: “Phép chọn mụ, cùng chị ả, và kẻ giữ việc. Hễ là ba năm một lần trong lễ Đức Chúa Spiritô Sanctô (Chúa Thánh Thần- ghi chú của người viết) Hiện Xuống, hay là ngày nào khác, bề trên dạy chị em hợp lại, mà chọn một người nào làm mụ, cùng một người nào làm chị ả, và một người khác giữ việc cho chị em”.
Dân chúng không phân biệt như trên mà gọi bất cứ vị nữ tu Mến Thánh Giá nào cũng là Bà Mụ. Ngày nay từ Mụ không c̣n được dùng nữa, và dân gian coi từ mụ không được ra vẻ cho lắm nên đă dùng từ Bà Sơ,Bà Ḍng, Bà Phước, D́ Phước để chỉ người Nữ Tu.
Từ Sơ hay Ma Sơ do tiếng Ma Soeur của Pháp ngữ có nghiă là chị, em, tĩnh từ ma được thêm vào để tỏ ḷng tôn kính.
Từ Bà Phước hay D́ Phước là tiếng của dân chúng miền Nam Việt Nam gọi các nữ tu. Sở dĩ như vậy v́ các vị nữ tu này thường phục vụ trong các bệnh viện, cô nhi viện, các trung tâm xă hội. Phước là tiếng đọc trại của chữ Phúc 福.
Điều đáng chú ư là không ai dùng từ Bà Phúc, mà chỉ nói Bà Phước. Sở dĩ như vậy v́ vấn đề kỵ húy. Dân miền Nam tránh dùng chữ Phúc v́ đó là tên đệm của các chúa Nguyễn như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan v.v... Ngày nay dân chúng gọi bất cứ vị nữ tu nào cũng là Bà Phước hay D́ Phước. Gọi là D́ với phụ nữ v́ phong tục giao tế của người Việt muốn thân tộc hóa để tỏ ḷng kính trọng, thương yêu.
Tại sao các nhà truyền giáo xưa lại dùng từ Bà Mụ để chỉ nữ tu ḍng Mến Thánh Giá trong khi người Việt Nam hiểu từ Bà Mụ là người đàn bà đỡ đẻ và là nữ thần khuôn nặn h́nh hài thai nhi.
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1896 có từ Bà Mụ nhưng chỉ có nghiă là người đàn bà lớn tuổi.
Từ điển Tiếng Việt của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản vào tiền bán thế kỷ 20 chưa có từ Bà Mụ với nghiă là nữ tu ḍng Mến Thánh Giá.
Đại Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo xuất bản năm 1999 mới có từ Bà Mụ với ư nghiă là nữ tu Công Giáo:
(1) người đàn bà đỡ đẻ ở nông thôn trước đây.
(2) Nữ thần nặn ra h́nh đứa trẻ.
(3) nữ tu đạo Thiên Chúa thuộc một ḍng tu riêng của Việt Nam
(3) Bướm nhỏ.
(4) ấu trùng của chuồn chuồn sống dưới nước.
Giả Thuyết Giải Thích Từ Bà Mụ: Với các ư nghĩa dân gian hiểu về từ Bà Mụ ngày xưa chắc chắn không thích hợp để chỉ bà ḍng Mến Thánh Giá. Vậy tại sao lại có từ Bà Mụ? Có hai giả thuyết giải thích từ Bà Mụ để chỉ bà bề trên cơ sở ḍng Mến Thánh Giá.
Giả thuyết thứ nhất căn cứ vào ư nghĩa từ Mụ trong tiếng Nôm và Hán Việt. Từ Mụ vừa là Nôm 姥 vừa là Hán Việt 媽.Hai từ có ư nghĩa gần như nhau để chỉ người mẹ hoặc bà già. Theo giả thuyết này, v́ từ Mụ có ư nghĩa là mẹ, hay người đàn bà lớn tuổi nên các nhà thừa sai đă dùng từ đó để chỉ bà bề trên ḍng Mến Thánh Giá như tập tục của tất cả các nhà ḍng nữ trên thế giới gọi bà bề trên là bà mẹ. Giả thuyết này có sức thuyết phục, nhưng cũng có giả thuyết thứ hai xem ra cũng hợp lư.
Giả thuyết thứ hai cho rằng khi thiết lập ḍng Mến Thánh Giá, các nhà truyền giáo tây phương chưa thông thạo tiếng Việt nên đă dựa vào Phúc Âm để lấy chữ Mụ trong từ Mulier của tiếng La tinh để chỉ nữ tu bề trên của Ḍng Mến Thánh Giá. Trong tiếng Latin, từ Mulier có nghĩa là người đàn bà. Trong Phúc Âm có nhiều chữ Mulier. Ví dụ trong đoạn Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan, Phúc Âm viết: Cum vidisset ergo Iesus matrem et discipulum stantem quem diligebat dicit matri suae mulier ecce filius tuus. (Jn 19,26) Vậy Đức Chúa Giêsu thấy Mẹ Ngài, và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh, th́ Ngài nói với Mẹ: Hỡi bà này là con bà!
Giả thuyết nào đúng, đáng tin cậy hơn, c̣n cần sự góp ư của các bậc thức giả.
Nguyễn Long Thao