Bài
22 –5/6/1996: Ân Sủng
của
Chúa Kitô ǵn giữ
Mẹ
Maria khỏi
Nguyên Tội
1- Tín
lư về
sự
thánh
đức
trọn
hảo
của
Mẹ
Maria ngày từ
giây phút
đầu
tiên Mẹ
được
hoài thai
đă
gặp
phải
một
số
chống
đối
ở
Tây phương,
căn
cứ
vào những
lời
của
Thánh Phaolô về
nguyên tội
cũng
như
về
phổ
quát tính của
tội
lỗi,
những
ǵ
được
Thánh Âu Quốc
Tinh mạnh
mẽ
tiếp
sức
và giải
thích.
Vị đại tiến sĩ của Giáo Hội
này chắc chắn là nhận thức được chức phận của Mẹ Maria là Mẹ của một
Người Con hoàn thành thánh thiện đ̣i phải hoàn toàn tinh tuyền và một
thánh đức phi thường. Đó là lư do tại sao, trong cuộc tranh luận với
Pelagius, ngài đă nhấn mạnh rằng thánh đức của Mẹ Maria là một tặng ân
ngoại thường của ân sủng và đă nói theo chiều hướng ấy rằng: “Chúng tôi
châm chước cho Đức Trinh Nữ Maria, vị mà, v́ tôn vinh Chúa, tôi không
thể nào muốn được đề cập tới về vấn đề tội lỗi. Chúng ta không biết hay
sao lư do tại sao Mẹ được ban cho một ân sủng cao cả hơn đối với việc
toàn thắng trên tội lỗi, Mẹ là vị đáng thụ thai và hạ sinh Đấng hiển
nhiên chẳng có tội lỗi ǵ?” (De natura et gratia, n. 42).
Thánh Âu Quốc Tinh đă nhấn
mạnh đến t́nh trạng thánh đức trọn hảo của Mẹ Maria và t́nh trạng không
có bất cứ một tư tội nào nơi Mẹ v́ phẩm vị cao cả của Mẹ là Mẹ của Chúa.
Tuy nhiên, ngài không hiểu làm thế nào để khẳng định được cái t́nh trạng
hoàn toàn vô tội này ở vào giây phút hoài thai như thế có thể dung ḥa
với tín lư về tính cách phổ quát của nguyên tội cùng với nhu cầu cần cứu
chuộc của toàn thể gịng dơi Adong. Cái kết luận này sau đó đă đạt được
bởi một kiến thức thấu suốt hơn bao giờ hết của đức tin Giáo Hội, trong
việc giải thích làm thế nào Mẹ Maria được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa
Kitô ngay từ lúc Mẹ được hoài thai.
Duns Scotus đă thắng
vượt được những chống đối Việc Hoài Thai Vô Nhiễm
2- Vào thế kỷ thứ IX, lễ Mẹ
Maria Hoài Thai cũng được đưa vào Tây phương, đầu tiên ở miền Nam Ư
quốc, ở Naples, rồi tới Anh quốc.
Khoảng năm 1128, một đan sĩ
ở Canterbury là Eadmer, khi viết luận đề đầu tiên về việc Hoài Thai Vô
Nhiễm, đă than phiền rằng việc cử hành phụng vụ thích đáng của lễ này,
nhất là trong việc làm thỏa đáng những ai “có một tấm chân t́nh và hết
ḷng kính mến Thiên Chúa” (Tract. de conc. B.M.V., 1-2), đă bị
gạt ra ngoài hay bị dẹp bỏ. V́ muốn phát động lại việc phục hồi lễ này,
người đan sĩ đạo hạnh ấy đă phủ nhận những chống đối của Thánh Âu Quốc
Tinh về đặc ân Hoài Thai Vô Nhiễm, căn cứ vào tín lư truyền đạt nguyên
tội qua việc truyền sinh loài người. Vị tu sĩ này đă thích đáng sử dụng
h́nh ảnh của một cây dẻ “là cây được thụ thai, nuôi dưỡng và h́nh thành
ở bên dưới cái cây mang quả có gai của nó nhưng được cây ấy bảo vệ cho
khỏi bị châm chích” (Tract. 10). Thậm chí ở bên dưới cái cây mang
quả có gai của tác động truyền giống mà tự ḿnh việc truyền giống này
cần phải truyền đạt nguyên tội, th́ theo lập luận của Eadmer, Mẹ Maria
vẫn được bảo tŕ cho khỏi hết mọi t́ ố bởi ư muốn tỏ tường của Thiên
Chúa là Đấng “rơ ràng là có thể làm điều này và muốn làm như thế. Bởi
thế, nếu Ngài muốn th́ Ngài thực hiện thôi” (ibid).
Bất chấp Eadmer, các đại
thần học gia của thế kỷ 13 đă chấp nhận những khó khăn của Thánh Âu Quốc
Tinh như là của ḿnh, khi khai triển lập luận như thế này: Việc Cứu
Chuộc được Chúa Kitô hoàn thành không trở thành phổ quát nếu t́nh trạng
tội lỗi không phải là những ǵ chung cho tất cả mọi người. Và nếu Mẹ
Maria không vướng mắc nguyên tội, Mẹ không thể nào được cứu chuộc. Việc
cứu chuộc thật sự ở chỗ giải thoát những ai ở trong t́nh trạng tội lỗi.
3- Duns Scotus, theo một số
thần học gia thời thế kỷ 12, đă t́m thấy cái then chốt để thắng vượt
những chống đối này đối với tín lư Hoài Thai Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Ngài
đă chủ trương rằng Chúa Kitô, vị trung gian tuyệt hảo, đă thi hành tác
động trung gian cao cả nhất của ḿnh nơi Mẹ Maria, bằng cách ǵn giữ Mẹ
khỏi nguyên tội.
Như thế, ngài đă đưa vào
thần học quan niệm Cứu Chuộc bằng việc bảo tŕ, nhờ đó Mẹ Maria đă được
cứu chuộc bằng một cách thức thậm chí c̣n tuyệt vời hơn nữa: không phải
bằng cách được giải phóng khỏi tội lỗi mà bằng việc ǵn giữ cho khỏi tội
lỗi.
Cái minh thức này của Chân
Phươc Duns Scotus, vị sau đó được nh́n nhận là “Tiến Sĩ của Đấng Vô
Nhiễm”, đă được các thần học gia nồng hậu đón nhận, nhất là các tu sĩ
Ḍng Phanxicô, ngay từ đầu thế kỷ 14. Sau khi được Đức Sixtus IV chấp
thuận vào năm 1477 cho Lễ Hoài Thai Vô Nhiễm th́ tín lư này càng ngày
càng được chấp nhận hơn ở các trường thần học.
Việc tiến triển quan pḥng
về phụng vụ và tín lư này đă dọn đường cho việc định tín về đặc ân Thánh
Mẫu đó bởi Huấn Quyền Tối Thượng. Huấn Quyền Tối Thượng chỉ xẩy ra nhiều
thế kỷ sau đó, và đă được thôi thúc bởi một minh thức nền tảng về đức
tin như thế này: Người Mẹ của Chúa Kitô cần phải hoàn toàn thánh thiện
ngay từ giây phút đầu đời của ḿnh.
4- Không ai lại không thấy
được rằng việc khẳng định về đặc ân phi thường này được ban cho Mẹ Maria
nhấn mạnh rằng tácđộng cứu chuộc của Chúa Kitô không chỉ giải thoát
chúng ta khỏi tội lỗi mà c̣n ǵn giữ chúng ta khỏi tội lỗi nữa. Chiều
kích ǵn giữ này, một chiều kích hoàn toàn ở nơi Mẹ Maria, hiện diện nơi
việc can thiệp cứu chuộc mà Chúa Kitô, trong việc giải phóng con người
khỏi tội lỗi, cũng ban cho họ ân sủng và sức mạnh để chiến thắng ảnh
hưởng của tội lỗi trong đời sống của họ.
Tín điều này làm sáng tỏ
những tác dụng của ân sủng
Như thế, tín điều Mẹ Maria
Hoài Thai Vô Nhiễm không làm lu mờ mà c̣n tuyệt vời giúp vào việc làm
sáng tỏ những hiệu lực của ơn Chúa Kitô cứu chuộc nơi bản tính của con
người nữa.
Kitô hữu nh́n lên Mẹ Maria,
vị đầu tiên được Chúa Kitô cứu chuộc và là v́ đă được đặc ân không bị
lụy thuộc, cho dù một giây lát, quyền lực của sự dữ và tội lỗi, như một
mẫu thức và h́nh ảnh toàn vẹn của t́nh trạng thánh thiện
(cf. Lumen gentium,
n. 65) họ được kêu gọi đạt được trong đời sống của ḿnh nhờ ơn Chúa
trợ giúp.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển
dịch
từ
L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 12/6/1996, trang 11.
|