Bài 26– 10/7/1996: Việc thụ thai trinh nguyên là một sự kiện sinh lư
1- Giáo Hội
liên lỉ chủ trương rằng đức đồng trinh của Mẹ Maria là một sự thật của đức
tin, như Giáo Hội đă lănh nhận và suy niệm căn cứ vào chứng từ của các
Phúc Âm theo Thánh Luca, Thánh Mathêu và cũng có thể cả Thánh Gioan.
Trong đoạn về
Truyền Tin, Thánh Kư Luca đă gọi Mẹ Maria là một «trinh nữ», ám chỉ cả ư
hướng của Mẹ muốn giữ ḿnh đồng trinh lẫn dự án thần linh ḥa hợp với ư
hướng này nơi vai tṛ làm mẹ lạ lùng của Mẹ. Sự khẳng định về việc thụ
thai trinh nguyên, nhờ tác động của Thánh Linh, loại trừ hết mọi giả
thuyết về vấn đề sinh sản đơn tính theo tự nhiên và loại trừ những nỗ lực
giải thích tŕnh thuật này của Thánh Luca như là một thứ khai triển về một
đề tài Do Thái hoặc như là một thứ rút tỉa lấy từ một câu truyện thần
thoại nào đó của dân ngoại.
Cấu trúc của bản
văn Thánh Luca (cf. Lk 1:26-38; 2:19, 51) chống lại bất cứ một thứ dẫn
giải suy diễn nào. Tính chất mạch lạc của đoạn văn không hỗ trợ một cách
hiệu lực cho bất cứ cắt xén về các từ ngữ hay về những diễn đạt xác nhận
việc thụ thai trinh nguyên do bởi Thánh Linh.
2- Thánh Kư
Mathêu, khi tường tŕnh về việc thiên thần loan báo cho Thánh Giuse, đă
như Thánh Luca khẳng định rằng việc thụ thai này « là công việc của
Thánh Linh » (Mt 1 :20) và loại trừ đi bất cứ liên hệ nào về phu thê.
Ngoài ra, việc
Chúa Giêsu được thụ thai một cách trinh nguyên được thông đạt cho Thánh
Giuse ở vào thời điểm sau đó : đối với ngài, vấn đề không phải là ngài
được mời gọi để chấp thuận trước khi Mẹ Maria thụ thai Người Con này,
hoa trái của việc Thánh Linh can thiệp một cách siêu nhiên và việc hợp
tác chỉ nguyên của người mẹ. Ngài chỉ được được yêu cầu tự do chấp nhận
vai tṛ của ḿnh làm chồng của Người Trinh Nữ và sứ vụ làm cha đối với
con trẻ ấy.
Thánh Mathêu
tŕnh bày việc xuất thân trinh nguyên của Chúa Giêsu như là việc hoàn trọn
lời tiên tri của Isaia. «’Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một
người con trai, và Người sẽ được gọi là Emmanuel’ (nghĩa là Thiên Chúa ở
với chúng ta)» (Mt 1:23; cf. Is 7: 14). Như thế, Thánh Mathêu đă dẫn
chúng ta tới chỗ kết luận rằng việc thụ thai trinh nguyên ấy là đối tượng
của việc suy tư trong cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, một cộng đồng đă hiểu
được việc họ tuân hợp với dự án cứu độ thần linh cũng như hiểu được mối
liên hệ của cộng đồng này với căn tính của Chúa Giêsu, «vị Thiên Chúa ở
cùng chúng ta».
Giáo Hội sơ
khai mạnh mẽ tin tưởng vào việc thụ thai trinh nguyên
3- Không như
Thánh Luca và Mathêu, Phúc Âm Thánh Marcô không hề đề cập ǵ tới việc thụ
thai và hạ sinh của Chúa Giêsu hết; tuy nhiên, cũng đáng ghi nhận là
Thánh Marcô không bao giờ đề cập tới Thánh Giuse là chồng của Mẹ Maria.
Chúa Giêsu được dân thành Nazarét gọi là «con của bà Maria», hay ở nơi
khác, là «Con Thiên Chúa» một số lần (3:11; 5:7; cf. 1:11; 9:7;
14:61-62; 15:39). Những sự kiện này hợp với niềm tin tưởng vào mầu nhiệm
Người được thụ thai một cách trinh nguyên. Sự thật này, theo một khám
phá mới đây về luận giải, hoàn toàn chất chứa nơi câu 13 ở Lời Mở Đầu
Phúc Âm Thánh Gioan, một lời mà có một os61 tác giả thế giá xưa kia (chẳng
hạn như Thánh Giáo Phụ Irenaeus và vị Giáo Phụ Tertullian) cho thấy,
không phải ở thể số nhiều b́nh thường mà là ở thể số ít : «Kẻ, được sinh
ra, không bởi máu huyết hay ư muốn của xác thịt hoặc bởi ư muốn của con
người, mà là bởi Thiên Chúa». Câu này, ở thể số ít, làm cho Lời Mở Đầu của
Thánh Gioan trở thành một trong những chứng thực chính về việc Chúa
Giêsu được thụ thai một cách trinh nguyên, một câu được cho vào bối cảnh
về mầu nhiệm Nhập Thể.
Câu khẳng định
mâu thuẫn của Thánh Phaolô là «thế nhưng, khi đến thời gian viên trọn
th́ Thiên Chúa đă sai Con của Ngài đến, được hạ sinh bởi một người nữ…
nhờ đó chúng ta được làm dưỡng tử» (Gal 4 :4-5), đă mở đường cho vấn nạn
về vai tṛ làm người này của Người Con ấy, do đó, về việc Người được
sinh ra một cách trinh nguyên.
Chứng từ đồng loạt
của Phúc Âm chứng tỏ cho thấy đức tin nơi việc thụ thai trinh nguyên của
Chúa Giêsu đă được cắm rễ mạnh mẽ ra sao nơi môi trường khác nhau của
Giáo Hội sơ khai. Điều này loại đi bất cứ nền tảng nào được một số dẫn
giải gần đây hiểu là việc thụ thai trinh nguyên ấy không hiểu theo nghĩa
thể lư hay sinh lư mà chỉ có tính cách biểu hiệu hay bóng gió: nó có ư
nói rằng Chúa Giêsu như là tặng ân của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những
người khác cũng có ư nghĩ hơn thế nữa, cho rằng tŕnh thuật về việc thụ
thai trinh nguyên chỉ là một thứ theologoumenon, tức là một
cách thức diễn tả một tín lư thần học, tín lư thần học về vai tṛ làm
con thần linh của Chúa Giêsu, hay chỉ là một phác họa thần thoại về Người.
Như chúng ta thấy,
các Phúc Âm chất chứa việc khẳng định dứt khoát về việc thụ thai trinh
nguyên về lănh vực sinh lư được Thánh Linh thực hiện. Giáo Hội đă chấp
nhận chân lư này, bắt đầu bằng ngay những công thức ban đầu về đức tin
(cf. Catechism of the Catholic Church, n. 496).
4- Đức tin được
diễn tả trong các Phúc Âm được xác định một cách liên tục theo truyền thống
sau đó. Những công thức về đức tin của những tác giả Kitô giáo đầu tiên
đă nêu lên chủ trương về việc thụ thai trinh nguyên này : Aristides,
Justin, Irenaeus và Tertullian đều đồng ư với Thánh Ignatius of Antioch,
vị đă tuyên bố Chúa Giêsu «thực sự sinh ra bởi một trinh nữ» (Smyrn.
1, 2). Những vị tác giả này có ư nói về một cuộc thụ thai trinh nguyên
thực sự về lịch sử của Chúa Giêsu và chứ không khẳng định một sự đồng
trinh chỉ về luân lư hay là một tặng ân mơ hồ của ân sủng được bày tỏ
nơi việc hạ sinh của con trẻ.
Những định tín đức
tin long trọng của cácCông Đồng Chung và Huấn Quyền của giáo hoàng, những
ǵ theo sau những công thức đức tin vắn gọn ban đầu, đều hoàn toàn hợp với
chân lư này. Công Đồng Chalcedon (451), trong bản tuyên xưng đức tin của
ḿnh, đă cẩn thận sử dụng từ ngữ và bằng một nội dung được xác định vô
ngộ của ḿnh, khẳng định rằng Chúa Kitô được «sinh ra… theo nhân tính của
Người trong những ngày sau hết này, v́ chúng ta và phần rỗi của chúng
ta, bởi Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa» (DS 301). Cũng thế, Công Đồng
Constantinopoli III (681) đă tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô đă «được sinh
hạ… theo nhân tính của Người, bởi Thánh Linh và Trinh Nữ Maria, vị thích
đáng và thực sự là Mẹ Thiên Chúa» (DS 555). Các Công Đồng Chung khác
(Constantinople II, Lateran IV and Lyons II) đă tuyên bố Mẹ Maria “trinh
nguyên”, khi nhấn mạnh đến đức đồng trinh trọn đời của Mẹ (DS 423, 801,
852). Những khẳng định này được tiếp tục với Công Đồng Chung Vaticanô II,
một công đồng đề cao sự kiện là Mẹ Maria «nhờ đức tin và tuân phúc… đă
sinh hạ trên trần gian này chính Người Con của Cha, không bởi ư thức của
con người mà là bởi việc bao phủ của Thánh Linh» (Lumen gentium,
n. 63).
Ngoài những định
tín của các công đồng, c̣n có những khẳng định của Huấn Quyền giáo hoàng
liên quan tới tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm của «Đức Trinh Nữ Maria» (DS
2803) và tín điều Mông Triệu của «Người Mẹ của Thiên Chúa Vô Nhiễm Trinh
Nguyên» (DS 3903).
Sự thánh thiện
và đức đồng trinh của Mẹ Maria liên kết chặt chẽ với nhau
5- Mặc dù các định
tín của Huấn Quyền, trừ những định tín của Công Đồng Latêranô năm 649,
được Đức Martin I triệu tập, không giải thích vế ư nghĩa của chữ “đồng
trinh”, th́ vẫn rơ ràng là chữ này được sử dụng theo ư nghĩa quen thuộc
của nó: tức là việc tự t́nh kiêng lánh các hành động t́nh dục và ǵn giữ
sự toàn vẹn của thân xác. Tuy nhiên, tính chất toàn vẹn về thể lư được
coi là những ǵ thiết yếu đối với sự thật về đức tin nơi việc thụ thai
trinh nguyên của Chúa Giêsu (cf. Catechism of the Catholic Church,
n. 496).
Việc diễn tả Mẹ
Maria là “Vô Nhiễm Trinh Nguyên Thánh Hảo” đă khiến chúng ta chú ư tới
việc liên hệ giữa sự thánh thiện và đức đồng trinh. Mẹ Maria muốn sống một
cuộc đời trinh nguyên, v́ Mẹ được tác động bởi ư muốn hiến dâng trọn vẹn
con tim của ḿnh cho Thiên Chúa.
Việc diễn tả được
sử dụng trong lời định tín về tín điều Mông Triệu là “Người Mẹ Thiên
Chúa Trinh Nguyên Vô Nhiễm” cũng bao hàm mối liên kết giữa đức đồng
trinh của Mẹ với vai tṛ làm mẹ của Mẹ: hai đặc ân này liên kết với nhau
một cách lạ kỳ nơi việc Chúa Giêsu được thụ thai, vị Thiên Chúa thật và
là người thật. Bởi thế, đức đồng trinh của Mẹ Maria sâu xa liên kết với
vai tṛ làm mẹ và sự thánh thiện toàn hảo của Mẹ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển
dịch
từ
L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 177/1996, trang 11.
|