Mô Phạm Đức Tin: Nữ Tỳ Xin Vâng
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
“Đầy ơn phúc” - v́ đă tin
(Luca 1:45)
Tất cả mọi đặc ân và vai tṛ cao trọng
của Mẹ Maria đều phát xuất từ thiên chức
Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa.
Tức là, v́ Mẹ Maria được Thiên Chúa
tuyển chọn làm Mẹ của Thiên Chúa mà Mẹ
đă được Ngài ban cho các đặc ân khác
tương xứng với chúc phận và phẩm vị làm
Mẹ Thiên Chúa của Mẹ. Đúng thế, v́ là Mẹ
của Thiên Chúa nên linh hồn của Mẹ Maria
ngay từ giây phút được hoài thai không
thể nào có thể nhiễm lây nguyên tội, có
thể bị Satan cai trị, và thân xác của Mẹ
là nơi thụ thai và cưu mang Con Thiên
Chúa vô cùng cao cả không thể nào thuộc
về một nam nhân nào và không thể nào bị
hư nát trong ḷng đất trong khi thân xác
của Con Mẹ được phục sinh vinh hiển.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là
làm thế nào để Mẹ chỉ là một tạo vật
thuần túy, vừa hữu h́nh và hữu hạn lại
có thể sinh ra Đấng hằng hữu vừa vô h́nh
và vô hạn? Đúng thế, về bản chất, Mẹ
Maria không thể nào có trước Thiên Chúa
để sinh ra Thiên Chúa, bằng không Thiên
Chúa sẽ không c̣n là Thiên Chúa nữa,
không c̣n là Đấng hiện hữu và hằng hữu
nữa. Thế nhưng, chính v́ "bởi quyền
năng Đấng Tối Cao" (Lk 1:35), chứ không
phải "bởi huyết nhục, bởi dục t́nh hay ư
muốn nam nhân" (Jn 1:13; Mt 1:20) mà
Mẹ đă trở thành một dụng cụ và phương
tiện được Thiên Chúa trong việc "thụ
thai và hạ sinh một con trai ... và
Người sẽ được gọi là Con Đấng Tối
Cao" (Lk 1:31-32).
Về phần ḿnh, Mẹ Maria cảm thấy ḿnh quả
thực được vô cùng diễm phúc trở nên "Mẹ
của Chúa tôi" (Lk 1:43) đến độ Mẹ không
thể nào không thốt lên bài ca vịnh
Magnificat ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa
"đă thương đến phận hèn nữ tỳ của Ngài"
và "đă làm nơi tôi những điều cao trọng
v́ danh Ngài là thánh" (Lk 1:48-49). Tuy
nhiên, cái diễm phúc được làm Mẹ của
Thiên Chúa như thế Mẹ chẳng những cảm
thấy bất xứng không bao giờ nghĩ đến mà
thậm chí c̣n không muốn nhận v́ Mẹ đă
khấn hứa giữ ḿnh đồng trinh, muốn hoàn
toàn thuộc trọn về Chúa chứ không muốn
ḿnh thuộc về bất cứ tạo vật nào. Thế
nhưng Mẹ vẫn tuyệt đối tín phục Thánh ư
Chúa, chứ không theo ư ḿnh, nhờ đó, Mẹ
luôn "đầy ân phúc", không bao giờ làm
mất ḷng Chúa.
Đó là lư do Mẹ Maria chẳng những được
"đầy ân phúc" v́ "Chúa ở cùng bà" (Lk
1:28) mà c̣n v́ "bà được ơn nghĩa với
Thiên Chúa" (Lk 1:30), nghĩa là ở chỗ
luôn tin tưởng vào Chúa và sẵn sàng làm
trọn Thánh ư Chúa trong tất cả mọi sự.
Bởi thế, Mẹ đă được người chị họ
Elizabeth đầy Thánh Thần lên tiếng chúc
khen rằng: "Em có phúc v́ em đă tin rằng
những điều Chúa phán cùng em sẽ được nên
trọn" (Lk 1:45). Vần đề được đặt ra ở
đây là tại sao Mẹ Maria không "có phúc
v́ đă yêu" v́ t́nh yêu mới là những ǵ
bất biến vĩnh hằng, mà là "v́ đă tin"
trong khi đức tin chỉ tồn tại duy ở đời
này và nếu t́nh trạng "có phúc" của Mẹ
Maria "v́ đă tin" th́ cái phúc của Mẹ sẽ
chẳng c̣n một khi đức tin qua đi?
Thế nhưng, đức tin lại là thần đức liên
quan mật thiết với đức tuân phục, đến độ
được gọi là "đức tin tuân phục -
obedience of faith hay obedient faith"
(Rm 1:5), và ai tuân phục th́ không bao
giờ qua đi: "Thế giới cùng với những thứ
quyến dũ của nó sẽ qua đi, nhưng ai làm
theo ư muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại
muôn đời" (1Jn 2:17). Đức tin đồng thời
cũng không thể tách khỏi đức ái, ở chỗ,
"đức tin thể hiện qua đức ái" (Gal 5:6),
bằng không "đức tin không viện làm là
đức tin chết" (Jam 2:6). Nếu đức cậy
được coi như nội tâm của đức tin, như
dầu ngọn đèn đức tin, th́ đức ái là tầm
vóc viên trọn và trọn hảo nhất của đức
tin, là ngọn lửa cháy sáng tiêu biểu cho
chân lư và sự sống: "ánh sáng sự sống"
(Jn 8:12).
Đức Tin Tuân Phục - Xin Vâng
Trong hai chiều kích chính yếu của Đức
Tin, tuân phục và yêu
thương, th́ chiều kích tuân phục liên
quan đến nội tâm của chủ thể tin tưởng,
và chiều kích yêu thương liên quan đối
tượng của chủ thể tin tưởng.
Đức tin đích thực được tỏ ra ở chỗ tuân
phục, đầu tiên bằng việc chấp nhận chân
lư đức tin hay mạc khải thần
linh, sau đó bằng việc trung thành đáp
ứng những đ̣i hỏi của chân lư đức tin,
của mạc khải thần linh, và việc đáp ứng
này có liên hệ mật thiết đến chiều kích
yêu thương của đức tin.
Về chiều kích đức tin tuân phục, Mẹ
Maria đă chấp nhận chân lư đức tin hay
mạc khải thần linh như thế nào? Theo
Thánh Kinh Tân Ước th́ đức tin tuân phục
của Mẹ Maria đă được thể hiện tỏ tường
nhất nơi hai trường hợp, trường hợp thứ
nhất ở biến cố Lời Nhập Thể và trường
hợp thứ hai ở biến cố "Đức Kitô, Con
Thiên Chúa" Khổ Giá.
Trước hết, nơi trường hợp Lời Nhập Thể,
Mẹ Maria đă sống đức tin một cách tuyệt
đối tuân phục, bằng lời "Xin hăy thực
hiện nơi tôi như lời thiên thần truyền"
(Lk 1:38). Ở chỗ, không phải là Mẹ không
biết ư Chúa muốn ǵ, trái lại, Mẹ biết
rơ rằng Ngài muốn Mẹ thụ thai và hạ sinh
Con Đấng Tối Cao (x Lk 1:31-32). Và Mẹ
cũng không hề lên tiếng từ chối ư định
tối cao và toàn hảo của Thiên Chúa.
Thế nhưng, dầu sao, theo trí khôn và khả
năng hạn hẹp của loài người, Mẹ vẫn
không biết được đường lối thực hiện ư
định của Đấng Toàn Năng nơi Mẹ là một
trinh nữ "không hề biết đến nam nhân"
(Lk 1:34), bởi đó Mẹ muốn biết để nhờ đó
Mẹ có thể thực hiện ư muốn của Ngài nơi
Mẹ.
Ở đây Mẹ Maria không hề tỏ ra hồ nghi
việc Thiên Chúa làm, đến độ, xin dấu
chứng như tư tế Giacaria bố của Tiền Hô
Gioan Tẩy Giả (x Lk 1:18), người đă cùng
vợ ḿnh xin những ǵ được chính vị sứ
thần của Thiên Chúa hiện ra báo tin cho
ông hay ở một nơi thánh trong lúc ông
đang thi hành thừa tác vụ tư tế thay dân
chúng, và dấu chứng cho một người hồ
nghi "không tin" (x Lk 1:20) như ông đó
là ông bị "câm" (Lk 1:20).
Sau khi nghe lời sứ thần trấn an dẫn
giải về sự kiện đang mang thai của người
chị họ trong lúc tuổi già (x Lk 1:36),
nhất là lời: "không có việc ǵ Thiên
Chúa không làm được" (Lk 1:37), th́ bấy
giờ, cho dù vẫn không biết được cách
thức cụ thể và thực tế liên quan đến vấn
đề thụ thai theo kiểu vợ chồng b́nh
thường, nhưng với tất cả tự do nhân bản
và ư thức thần linh của ḿnh, Mẹ đă thốt
lên lời "Xin Vâng" (Lk 1:38).
Lời đáp ứng "Xin Vâng" của Mẹ Maria
trong giây phút Truyền Tin Lời Nhập Thể,
có thể nói là vô cùng khẩn thiết và quan
trọng cho cả dự án cứu độ và công cuộc
cứu độ của Thiên Chúa này, quả thực đă
liên quan đến đức tin tuân phục của Mẹ,
đó là, ở khía cạnh thứ nhất, Mẹ đă tỏ ra
tin tưởng vào một tạo vật thuần túy như
Mẹ, dù bản tính của vị tạo vật này rất ư
là cao trọng hơn bản tính loài người của
Mẹ, đó là tin tưởng vào vị sứ thần "được
Thiên Chúa sai" (Lk 1:26) và thưa lời
xin vâng với những ǵ vị thiên thần này
nói, như tin tưởng và xin vâng với chính
Thiên Chúa.
Ở khía cạnh thứ hai, từ việc trực
tiếp tin tưởng vào những lời thiên
sứ dẫn giải cho Mẹ biết khi ngài trả lời
vấn nạn của Mẹ, Mẹ Maria c̣n cho
thấy đức tin tuân phục của
ḿnh nơi quyền phép toàn năng của Thiên
Chúa nữa, Vị Thiên Chúa luôn "hiện hữu"
(Ex 3:14) - hiện diện dọc suốt gịng
Lịch Sử Ơn Cứu Độ của dân Do Thái như là
một vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
qua những biến cố phi thường của họ, như
biến cố vượt qua hay Xuất Ai Cập và biến
cố hồi hương sau thời gian lưu đầy ở
Babylon.
Đối với việc Mẹ tỏ ra đức tin tuân phục
liên quan đến vị sứ thần, một việc không
phải là dễ dàng ǵ. Tư tế Giacaria, thân
phụ của vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả tương
lai, một tư tế có một người vợ được
Thánh Kinh công nhận "là công chính
trước nhan Thiên Chúa nghiêm chỉnh tuân
giữ tất cả mọi giới răn và chỉ thị của
Chúa" (Lk 1:6), đến độ, Thiên Chúa rất
hài ḷng với hai vợ chồng già tốt lành
thánh đức về phần hồn nhưng về phần trần
thế vẫn son sẻ không có con cái ǵ mà
vẫn cầu xin cho bằng được này, và "lời
cầu xin của các ngươi đă được nhận lời"
(Lk 1:13), như người chồng tư tế đă được
vị thiên sứ vừa hiện ra báo tin cho
biết.
Ấy thế mà vị tư tế này lại không tin lời
sứ thần báo tin, phải chăng v́ ông ta
không tin rằng đó là vị thiên sứ của
Thiên Chúa, mà là một thần linh nào đó,
đến độ, như Thánh Kư Luca cho biết: "Ông
Giacaria hết sức bấn loạn khi trông thấy
ngài và bàng hoàng khiếp sợ" (Lk 1:12).
Cũng có thể v́ hoảng sợ như thế mà ông
đă có phản ứng tiêu cực thiếu tin tưởng
vào lời sứ thần. Thế nhưng, nếu ông
hoảng sợ đến thất kinh và bị mất hết hồn
hết vía như vậy th́ ông đâu c̣n ḷng trí
nào để mà nghe thấy một cách hết sức rơ
ràng lời nói của vị thần hiện ra với
ông, nhờ đó ông mới có thể nói lại với
vị này chứ?
Phải chăng, sau khi, nhờ chính lời thiên
thần tràn đầy Thánh Linh bởi trời mà
ông đă lấy lại được b́nh tĩnh, để
rồi ông trở nên tỉnh táo hơn, đến độ v́
muốn biết chắc xem có phải vị thần bấy
giờ thực sự là từ Thiên Chúa mà đến hay
chăng, nên ông đă lên tiếng xin dấu lạ -
"làm sao để tôi biết được điều ấy
chứ?", nhờ đó, với dấu chứng ấy, ông có
thể tin đó là vị sứ thần của Thiên
Chúa, đáng tin tưởng? Nếu vị tư tế này
tin đó là thần sứ của Thiên Chúa th́ ông
đă không đặt vấn đề dấu chứng với ngài,
và ngài cũng đă không cần phải đi đến
chỗ tự xưng ḿnh: "Ta là Ga-Biên, vị
đứng chầu trước Thiên Chúa. Ta được sai
đến để nói cùng ngươi và mang cho ngươi
tin vui" (Lk 1:19).
Việc xin dấu chứng của tư tế Giacaria
và thái độ ông tỏ ra không tin rằng vị
thần hiện ra với ông ấy là thiên sứ của
Thiên Chúa, trầm trọng và nặng đến
nỗi đă khiến ông bị phạt khá nặng, ở chỗ
ông bị câm không nói được nữa, như là
chính dấu chứng cho thấy vị thần ấy là
thiên sứ của Thiên Chúa. Tính chất trầm
trọng và nặng này của thái độ thiếu niềm
tin của ông là vị sứ thần Thiên Chúa đă
hiện ra với ông ở một địa điểm trang
nghiêm là nơi thánh trong Đền Thờ, và
vào một thời điểm linh thánh khi ông đại
diện dân chúng xông hương kính Chúa, một
biến cố hiện ra không thể nào xuất phát
từ thần dữ hay từ một vị thần linh ma
quái nào ngoại trừ vị sứ thần của Thiên
Chúa.
Khi so sánh với trường hợp của tư tế
Giacaria, như được phân tích theo suy
đoán trên đây mới thấy được đức tin tuân
phục của Mẹ Maria như thế nào trong biến
cố Truyền Tin Lời Nhập Thể cho Mẹ. Trước
hết, về thân phận, Mẹ chỉ là một thiếu
nữ tầm thường, vô danh tiểu tốt trong
dân, chứ không phải nam nhi, vốn được
coi trọng hơn nữ giới, chứ chưa nói ǵ
đến một nam nhi đóng vai tư tế trong dân
như tư tế Giacaria.
Sau nữa, về bản thân, Mẹ Maria cũng
không được Thánh Kư Luca cho biết về
tŕnh độ sống đạo của Mẹ ra sao, như
ngài đă cho biết roĩ ràng về hai vợ
chồng tư tế Giacaria liên quan tới đời
sống thánh đức của họ, mà chỉ vỏn vẹn
cho biết trạng thái sống bề ngoài của
Mẹ kèm theo tên của Mẹ mà thôi: "một
trinh nữ đă đính hôn với một nam nhân
tên là Giuse thuộc ḍng dơi Đavít. Tên
của người trinh nữ này là Maria" (Lk
1:27).
Sau hết, về địa điểm và thời điểm hiện
ra của cùng vị sứ thần Gabiên th́ chỉ
xẩy ra ở một căn nhà nghèo hèn, chứ
không phải ở Đền Thờ, và vào một lúc tầm
thường đến độ không thấy vị Thánh Kư nói
đến, chẳng hạn lúc Mẹ đang cầu
nguyện ban sáng, hay vào lúc Mẹ đang làm
việc v.v., chỉ biết rằng lúc ấy chỉ có
một ḿnh Mẹ mà thôi, chứ không có dân
chúng đang đợi ở ngoài như trường hợp
của tư tế Giacaria (x Lk 1:21).
Chính v́ đức tin mạnh mẽ của Mẹ mà Mẹ đă
không cảm thấy hoảng sợ khiếp kinh như
tư tế Giacaria lúc sứ thần Gabiên hiện
ra với Mẹ. Cho dù, ngay từ ban đầu khi
vị sứ thần này vừa hiện ra, Mẹ được
Thánh Kư Luca thuật lại rằng Mẹ tỏ ra
"rất ư là xao xuyến" (Lk 1:29), nhưng
không phải v́ bấy giờ Mẹ đối diện với
một nam nhân sáng láng tuyệt đẹp, hay
một vị thần linh nào đó như tư tế
Giacaria tưởng tượng ở trường hợp của
ông, mà chỉ sau khi Mẹ nghe lời vị thiên
sứ này chào mà thôi. Đó là lư do Thánh
Luca đă viết thêm cùng với những lời
trên đây rằng: "Vị trinh nữ này tỏ ra
rất ư là xao xuyến trước những lời của
ngài và ngẫm nghĩ xem lời ngài chào ấy
có ư nghĩa ǵ" (Lk 1:29).
Trong việc Mẹ ngẫm nghĩ về lời vị sứ
thần Gabiên chào: "Kính mừng đầy ân
phúc! Chúa ở cùng người" (Lk 1:28), h́nh
như Mẹ thắc mắc tại sao trong lời chào
của thiên sứ không có tên "Maria" của Mẹ
như kiểu chào b́nh thường trong dân
gian, phổ thông ở khắp mọi nơi và ở mọi
thời, trong mọi văn hóa, mà lại chào
"đầy ân phúc" mà thôi. Bởi đó, chính vị
là sứ thần của Thiên Chúa, thấu hiểu
được tâm trạng của Mẹ bấy giờ, và những
ǵ Mẹ đang ngẫm nghĩ, ngài đă chẳng
những trấn an Mẹ rằng: "Hỡi Maria, xin
đừng sợ", mà c̣n giải thích về danh xưng
mới "đầy ân phúc" của Mẹ như sau: "Người
đă được ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa"
(Lk 1:30).
Như thế t́nh trạng hay danh xưng mới
"đầy ân phúc" của Mẹ là ở chỗ Mẹ "được
ơn nghĩa với Thiên Chúa", nói trắng ra
là ở chỗ Mẹ luôn sống đẹp ḷng Thiên
Chúa, không hề làm mất ḷng Ngài một tí
nào, ở bất nơi cứ đâu và vào bất cứ lúc
nào trong đời sống trần gian của Mẹ,
trái lại, Mẹ c̣n liên lỉ gia tăng t́nh
trạng "đầy ân phúc" của Mẹ, t́nh trạng
làm đẹp ḷng Thiên Chúa vô cùng toàn
thiện đáng tôn thờ, đáng kính mến của Mẹ
trong mọi sự bất cứ giá nào, cho đến độ,
theo giới hạn tự nhiên của bản tính loài
người nơi Mẹ, Mẹ không c̣n chịu đựng
được t́nh trạng "đầy ân phúc" nữa nơi
Mẹ, một khi Thiên Chúa không tiếp tục
ǵn giữ Mẹ bằng một ân sủng đặc biệt, mà
Mẹ đă nghỉ yên trong Chúa và đă về trời
với Ngài.
Sau lời chào và trấn an Mẹ, vị thiên sứ
tiếp tục cho Mẹ biết rằng chính v́ Mẹ
"đầy ân phúc" như vậy, "được ơn nghĩa
với Thiên Chúa" như thế, Thiên Chúa đă
vô cùng hài ḷng về Mẹ và sẽ thực hiện
dự án thần linh của Ngài "vào lúc
thời điểm viên trọn" (Gal 4:4) nơi Mẹ,
đó là dự án "Người sẽ thụ thai và hạ
sinh một con trai và đặt tên cho người
con này là Giêsu..." C̣n vấn đề cách
thức làm sao để thực hiện việc sinh con
trong khi Mẹ chỉ là một trinh nữ, "không
hề biết đến nam nhân" (Lk 1:34), cho dù
"đă đính hôn với một người tên là Giuse"
(Lk 1:27), vị thiên sứ cho biết rằng:
"Thánh Linh sẽ xuống trên người và quyến
phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ người..."
(Lk 1:35).
Mẹ đă thưa "xin vâng" tất cả những ǵ vị
thiên sứ nói với Mẹ, v́ Mẹ tin rằng vị
thiên sứ ấy được Thiên Chúa sai đến và
v́ thế tất cả những lời ngài nói đều
chân thật không thể sai lầm. Và sở dĩ Mẹ
tin tưởng trong ḷng và chấp nhận bằng
ngôn từ tất cả những ǵ được nói với Mẹ
từ vị thiên sứ là v́ Mẹ tin rằng ngài từ
Thiên Chúa mà đến, là đại diện của Thiên
Chúa, và vâng lời ngài là vâng lời chính
Thiên Chúa vậy. Ở đây chúng ta thấy Mẹ
Maria chẳng những là gương mẫu cho thành
phần tu sĩ sau này về lời khấn đồng
trinh mà c̣n cả lời khấn tuân phục bề
trên một cách tin tưởng và trọn lành
nữa.
Tuy nhiên, việc Mẹ Maria tin tưởng và
tuân phục vị sứ thần Gabiên không phải
chỉ có thế, mà đó mới chỉ là cửa ngơ dẫn
đến việc Mẹ tin tưởng và tuân phục chính
Thiên Chúa, chính dự án thần linh của
Thiên Chúa là nội dung của sứ điệp được
vị thiên sứ từ trời xuống loan báo cho
Mẹ. Lời Mẹ thưa cùng vị đại diện của
Thiên Chúa truyền tin Lời Nhập Thể cho
Mẹ rằng "xin hăy thực hiện nơi tôi như
lời ngài truyền" (Lk 1:38) có nghĩa là
"xin dự án thần linh của Thiên Chúa hăy
nên trọn nơi tôi là tôi tớ của Ngài",
hay "xin Thiên Chúa hăy hoàn thành những
ǵ Ngài muốn về việc nhập thể của Đấng
Cứu Thế nơi tôi".
Ngay trong lời thân thưa vô cùng dễ
thương này của Mẹ Maria, liên quan
đến cấu trúc của câu nói, có một cái ǵ
rất đức tin tuân phục được sâu xa chất
chứa ở đó, đến độ dường như ngược lại
với hai chữ vắn gọn "xin vâng" tóm tắt
nguyên cả câu nói của Mẹ. Bởi v́, động
từ "xin vâng" tóm gọn này cho thấy chủ
thể "xin vâng" mang tính cách chủ động,
dấn thân.
Nhưng nguyên câu thưa của Mẹ Maria lại ở
thể thụ động, thụ động không phải ở văn
phạm của câu nói mà là ở chính bản thân
của người nói là Mẹ Maria: "xin hăy thực
hiện nơi tôi như lời ngài truyền", nhưng
thụ động một cách tích cực, một cách sẵn
sàng, một cách đáp ứng, một cách tuân
phục của một người bề dưới, của một "tỳ
nữ Chúa" (Lk 1:38), Đấng là chủ tể mọi
sự nhất là muốn chủ động nơi lịch sử
loại người nói chung và trong các tâm
hồn nói riêng.
Theo tiến tŕnh tu đức Kitô giáo, bậc
trọn lành cao nhất của Kitô hữu đó là
t́nh trạng họ được hoàn toàn hiệp nhất
nên một với "Thiên Chúa là thần linh
trong tinh thần và chân lư" (Jn 4:24),
một tŕnh độ được tu đức gọi là "thần
hiệp" hay "hiệp sinh" (sau bậc tu đức
"khởi sinh" ban đầu và "tiến sinh"
chuyển tiếp), tức ở mức độ tâm hồn Kitô
hữu được Thiên Chúa hoàn toàn chiếm đoạt
và làm chủ, muốn làm ǵ th́ làm nơi họ,
trong bất cứ sự ǵ và vào bất cứ lúc
nào, để Thiên Chúa, qua Thánh Linh của
Ngài, như "gió muốn thổi đâu th́ thổi"
(Jn 3:8).
Tâm hồn sống trọn lành bấy giờ chỉ biết
luôn ở trong trạng thái (như thể thụ
động) lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn
đáp ứng (một cách tích cực) ư muốn của
Ngài ngay khi được Ngài tỏ ra cho qua
những dấu chỉ thời đại. Để lên tới bậc
tu đức trọn lành cao nhất này, linh hồn
chẳng những phải hoàn toàn từ bỏ ư
nghĩ của trí khôn và ư riêng của ḷng
muốn ḿnh, dù những ư nghĩ ấy có đúng
mấy và ư muốn ấy có tốt mấy chăng nữa,
mà c̣n phải tuyệt đối phó thác tất cả
mọi sự, bao gồm cả con người lẫn cuộc
đời ḿnh cùng những sự thuộc về ḿnh,
cho thượng trí vô cùng khôn ngoan của
Đấng Quan Pḥng thần linh đầy yêu thương
của họ.
Như thế, qua câu thưa "xin hăy thực
hiện nơi tôi như lời ngài truyền" (Lk
1:38), Mẹ Maria cho thấy tŕnh độ hiệp
nhất nên một của Mẹ đối với Thiên Chúa
tới đâu. Ở chỗ, Mẹ chẳng những đă tin
tưởng chấp nhận dự án thần linh của
Thiên Chúa nơi Mẹ, tức là Mẹ chấp nhận
làm Mẹ "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên
Chúa" (Lk 1:32,35), mà nhất là Mẹ c̣n
tuyệt đối phó thác tất cả mọi sự, nhất
là thân xác trinh nguyên của Mẹ, cho
quyền năng của Thiên Chúa trong việc làm
cho một trinh nữ như Mẹ trở thành một
người mẹ, có thể thụ thai và sinh con,
không cần đến người nam mà Mẹ đă đính
hôn, để nhờ đó ứng nghiệm lời tiên tri
Isaia đă tiên báo: "Này đây một trinh nữ
sẽ thụ thai và sinh con..." (Is 7:14).
Đức tin tuân phục của Mẹ Maria không
phải chỉ được tỏ ra nơi Biến Cố Truyền
Tin Lời Nhập Thể mà c̣n nơi Biến Cố Khổ
Giá của "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống" (Mt 16:16) nữa. Nếu đức tin tuân
phục của Mẹ chỉ được thể hiện một cách
trọn lành ở Biến Cố Lời Nhập Thể mà
không ở Biến Cố Khổ Giá của Con Mẹ th́
Mẹ chẳng những không có đức tin tuân
phục trọn lành thực sự mà thậm chí Mẹ
không c̣n là "đầy ân phúc" và được "đầy
ân phúc" nữa. Thật vậy, chính v́ Mẹ là
"đầy ân phúc" mà Mẹ liên lỉ tỏ ra đức
tin tuân phục của Mẹ cho đến cùng, nhất
là lúc Mẹ đứng dưới chân thập giá của
Con Mẹ (x Jn 19:25).
Đừng tưởng rằng Mẹ không bị thử thách
đức tin. Nếu "Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống", một chân lư đức tin, chẳng
những đă trở nên nền tảng cho chung Kitô
giáo và riêng Giáo Hội do Người thành
lập, mà c̣n trở thành cớ vấp phạm cho
chung dân Do Thái và cho riêng Hội Đồng
Đầu Mục Do Thái, mà nhất là cho chính
các môn đệ của Người, thành phần đă được
Người tuyển chọn ở với Người để nhận
biết Người mà sau này trở thành chứng
nhân tiên khởi của Người và cho Người,
th́ chân lư đức tin vô cùng thiết yếu
cho phần rỗi của loài người này cũng đă
trở nên thách đố cho chính Mẹ Maria.
Ở chỗ nào và tại sao?
Ở chỗ nào? - Ở chính đức tin tuân phục
của Mẹ! Tại sao? - Tại v́ những lời sứ
thần Gabiên đă nói cùng Mẹ trong biến cố
Truyền Tin Lời Nhập Thể, nhưng lời dường
như hoàn toàn mâu thuẫn và trái nghịch
hoàn toàn với những ǵ đang xẩy ra khi
Mẹ Maria đứng bên thập giá của Con Mẹ.
Thật vậy, chính v́ tin rằng "Thày là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt
16:16) mà chung tông đồ đoàn và riêng vị
trưởng tông đồ đoàn là Simon Phêrô đă
vấp phạm. Trước hết, vị trưởng tông đồ
đoàn này, ngay sau khi nghe Thày ḿnh
tiết lộ cho biết về thân phận vô cùng
bất hạnh của Ngài hoàn toàn trái ngược
với thân phân "Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống" của Ngài th́ đă chân thành và
kín đáo can ngăn Ngài, không ngờ đă bị
chính Ngài thậm tệ quở trách: "Đồ Satan,
hăy xéo đi cho khuất mắt Ta. V́ ngươi
không phán đoán theo chiều hướng của
Thiên Chúa mà chỉ theo kiểu của loài
người mà thôi" (Mt 16:23). Chưa hết, vị
trưởng tông đồ đoàn này c̣n 3 lần trắng
trợn chối bỏ Thày ḿnh là Đấng đă được
ông công khai mau mắn tuyên xưng "là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Nếu Giuđa Íchca, người môn đệ phản nộp
Thày ḿnh, quả thực cũng tin tưởng rằng
"Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống" th́ phải chăng đó là lư do mạnh,
tuy không phải là lư do chính - lư do
tham tiền của, để hắn quyết định mưu
toan bán Ngài, v́ tưởng rằng cho dù có
bị bọn quân quốc của Hội Đồng Đầu Mục Do
Thái bắt qua việc hắn mưu toan bán Thày
và nộp Thày bằng cái hôn báo hiệu chăng
nữa, Ngài vẫn có thể thoát thân, như đă
từng xẩy ra? Thế nhưng, sự vụ hoàn toàn
xẩy ra ngược lại, bởi thế, sau khi thấy
rằng Ngài chẳng những không thoát thân
mà c̣n bị lên án tử nữa (x Mt
27:3), người môn đệ bất hạnh này đă đi
thắt cổ tự tử (x Mt 27:5) v́ cảm thấy
tội phản nộp Thày của ḿnh vô cùng phạm
thượng và vô cùng đáng phạt, đến độ
không thể tha thứ được, v́ nó là tội
phạm đến không phải là một con người
thuần túy mà là phạm đến chính "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"!
Đối với Mẹ Maria, v́ Mẹ vốn "luôn ghi
nhớ tất cả mọi sự đó mà suy niệm trong
ḷng" (Lk 1:19,51), mà những lời thiên
sứ Gabiên đă nói với Mẹ về Đấng Mẹ được
thụ thai và hạ sinh là "Con Đấng Tối
Cao" (Lk 1:32), là "Con Thiên Chúa" (Lk
1:35) lại càng làm cho Mẹ suy tư hơn
nữa, nhất là khi Mẹ đứng dưới chân thập
giá của một con người đang hấp hối,
không thể xuống khỏi thập giá! "Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai báu
Đavít cha của Người. Người sẽ muôn đời
cai trị nhà Giacóp, triều đại của Người
sẽ vô cùng bất tận" làm sao có thể ứng
nghiệm với một con người đang kêu lên
cùng trời cao rằng: "Chúa Trời con ơi,
Chúa Trời con ơi, sao Ngài lại bỏ rơi
con" (Mt 27:46).
Không biết lúc bấy giờ, lúc tận mắt
chứng kiến thấy và tận tai nghe thấy
những lời than van yếm thế của Đấng bị
treo trên thập giá là Con của Mẹ ấy Mẹ
có nghĩ rằng Con Mẹ có thực sự là "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" hay
chăng? Nếu phải th́ tại sao Người lại ra
nông nỗi này, trở nên vô cùng nhục nhă
và tang thương đến như thế! Chắc chắn là
không, bằng không, theo thường t́nh,
không một người mẹ nào thương con hơn
bản thân ḿnh có thể đứng nổi, nếu không
muốn nói là bất tỉnh hay quị xuống, khi
thấy đứa con vô cùng đáng yêu của ḿnh trở
nên như một vết thương và không c̣n h́nh
hài như thế.
Vậy mà Mẹ Maria vẫn "đứng" (Jn 19:25),
đứng bên thập giá của Con Mẹ và với Con
Mẹ. Nghĩa là bấy giờ đức tin tuân phục
của Mẹ và nơi Mẹ đă trở thành sức mạnh
thiêng liêng để Mẹ có thể chẳng những
chịu đựng đớn đau trong ḷng với tư cách
là một người mẹ mà c̣n với vai tṛ Đồng
Công Cứu Chuộc trong việc thông công với
Con ḿnh để cứu chuộc loài người của Mẹ.
Mẹ vẫn c̣n nhớ lời tiên báo của tư tế
Simêon nói như liên quan đến vai tṛ
đồng công cứu chuộc của Mẹ trong Đền Thờ
khi ông nói về người Con trai đầu ḷng
của Mẹ lúc Mẹ dâng Người theo luật
Moisen sau 40 ngày hạ sinh Người, đó là
"Con Trẻ này sẽ nên cớ vấp phạm và chỗi
dậy cho nhiều người trong dân Yến Duyên,
một dấu hiệu phản khắc, và chính bản
thân của cô sẽ bị một lưỡi gươm đâm thâu
qua để tư tưởng nơi nhiều tâm hồn được
bộc lộ ra" (Lk 2:34-35).
Đối với Mẹ, "Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống" càng khổ nạn và tử giá mới
càng chứng tỏ Người quả thực là Đấng
Thiên sai, v́ Người đến chỉ làm theo ư
Cha của Người chứ không phải ư của Người.
Và theo tự nhiên không một phàm nhân nào
có thể chịu được nhục nhă và đớn đau như
Người th́ Người phải là Thiên Chúa Nhập
Thể.
Chính v́ tuyệt đối tin rằng Đấng khổ nạn
và tử giá là Con của Mẹ, Đấng đồng thời
là chính Con Thiên Chúa, Đấng đến để cứu
toàn thể loài người chứ không phải chỉ
riêng dân Do Thái về chính trị, mà Mẹ
chắc chắn không chỉ "đứng" dưới chân
thập giá của Con Mẹ bằng một đức tin
tuân phục mà c̣n bằng một đức mến bao
la, một đức mến cao cả phong phú tới độ
chẳng những có thể bù đắp lại tất cả
những xúc phạm Người phải chịu bấy giờ
trong cuộc khổ nạn và tử giá, mà c̣n có
thể tái sinh nhân loại trong Người và
bởi Người nữa.