|
Mô Phạm Đức Tin: Nữ Tỳ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức tin của Mẹ Maria và nơi
Mẹ Maria chẳng những là một đức tin tuân phục đối với Chúa mà c̣n là một
đức tin yêu thương đối với tha nhân nữa. Đức tin yêu thương của Mẹ được
thể hiện tột độ nơi biến cố Khổ Giá của Con Mẹ. V́ bấy giờ, theo dự án
thần linh của Thiên Chúa, Mẹ phải chấp nhận hy sinh Người Con duy nhất
vô cùng dấu ái của ḿnh, vô cùng thiện hảo của ḿnh, vô cùng đáng tôn
thờ của ḿnh, để cứu lấy nhân loại tội lỗi, thấp hèn, bất xứng so với
Người Con Thiên Chúa của Mẹ.
Có thể nói, Mẹ đă đánh đổi
tất cả là Con Mẹ để lấy hư không là nhân loại. Thế nhưng, nếu "Thiên
Chúa đă không dung tha cho Con riêng của ḿnh, một phó nộp Người v́ tất
cả chúng ta" (Rm 8:32) th́ Mẹ cũng hoàn toàn tuân phục dự án thần linh
vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, cũng hy sinh Con ḿnh cho phần rỗi của
toàn thể nhân loại.
Thật vậy, Mẹ Maria không
thể nào yêu thương nhân loại đến hy hiến chính Người Con Thiên Chúa vô
cùng cao quí của ḿnh cho nhân loại nếu Mẹ không có một đức tin tuân
phục, không nhận biết Thiên Chúa và không đáp ứng những ǵ Thiên Chúa
muốn.
Chính đức tin tuân phục của
Mẹ và nơi Mẹ đă giúp Mẹ được luôn liên lỉ hiệp nhất nên một với Thiên
Chúa trong hết mọi sự, đến độ, Chúa muốn ǵ th́ Mẹ cũng muốn như vậy.
Thậm chí Mẹ không muốn ǵ khác ngoài Chúa, Đấng phải nói là chính ước
muốn duy nhất của Mẹ và trên hết của Mẹ, là lẽ sống và là hồn sống của
Mẹ, ngoài Chúa ra Mẹ không thể nào sống được nữa, cuộc đời Mẹ chẳng c̣n
nghĩa lư ǵ, chẳng c̣n giá trị ǵ!
Và cũng chính v́ luôn sống
trong Chúa và với Chúa như thế, nhất là lúc Mẹ được thụ thai Con Thiên
Chúa trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ, mà Mẹ Maria đă càng được tràn
đầy Thánh Thần của Ngài, một Thánh Thần là sự sống hiệp thông nội tại nơi
Thiên Chúa Ba Ngôi, Vị Thánh Thần đă là sự hiện diện thần linh của Vị
Thiên Chúa hằng ở cùng Mẹ (x Lk 1:28), Vị Thánh Linh đă trở thành động
lực thúc đẩy Mẹ làm tất cả mọi sự lớn nhỏ, âm thầm hay công khai, chẳng
hạn trong việc Mẹ tỏ ra "vội vă" (Lk 1:39) lên đường đi thăm người chị
họ của ḿnh là Elizabeth đang có thai được 6 tháng trong lúc tuổi già (x
Lk 1:36).
Và cũng chính v́ Mẹ được
tràn đầy Thánh Thần hơn bao giờ hết khi Mẹ đang cưu mang Con Thiên Chúa
làm người trong ḷng Mẹ mà khi Mẹ vừa lên tiếng chào (x Lk 1:44) th́ đă
gây ra một biến động thần linh giây chuyền. Đó là, trước hết, làm cho
thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được tràn đầy Thánh Linh, đến nỗi có
thể nhẩy mừng trong ḷng thai mẫu (x Lk 1:44), để rồi sau đó, thai nhi
này c̣n làm cho thai mẫu của bé được tràn đầy Thánh Linh, để nhờ đó thai
mẫu của bé có thể nhận biết vị đại khách đến thăm ḿnh và gia đ́nh bà là
chính "Mẹ Chúa của tôi" (Lk 1:43) và chúc tụng Mẹ "có phúc v́ đă tin"
(Lk 1:45).
Trong biến cố của Tiệc Cưới
Cana càng chứng tỏ mức độ tràn đầy Thánh Linh nơi Mẹ. Ở chỗ, nhờ có
Thánh Thần nơi Mẹ là một tâm hồn luôn trầm lắng suy niệm về tất cả những
ǵ được tỏ ra cho ḿnh (x Lk 1:19,51), mà Ngài, Đấng thấu suốt mọi sự,
kể cả thâm cung của Thiên Chúa (x 1Cor 2:10), đă khiến Mẹ có thể nh́n
thấu suốt được mọi sự, dù nhỏ bé mấy chăng nữa hay dù thành phần có
trách nhiệm chưa biết đi nữa, chẳng hạn như sự kiện thiếu rượu ở tiệc
cưới Cana này. Đức tin yêu thương của Mẹ, một khi thấy được t́nh
trạng hết rượu này ở tiệc cưới Cana, đă mau mắn và tự động t́m cách cứu
giúp kịp thời.
Cách thức cứu giúp của Mẹ ở
tiệc cưới Cana cũng cho thấy tŕnh độ đầy Thánh Thần của Mẹ, v́ nhờ
Thánh Thần mà Mẹ đă tự động biết làm thế nào để cho "ư Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời" (Mt 6:10), cho dù "giờ" của Ngài "chưa tới" (Jn
2:4).
Mẹ quả thực đă đạt được
những ǵ Mẹ nhờ Thánh Thần thấy được và bởi Thánh Thần mà thực hiện, đó
là dọn đường cho Chúa đến với nhân loại, bằng cách, trước hết, đến báo
(chứ không xin) cùng Con ḿnh về t́nh h́nh thiếu rượu, rồi sau đó đến
với thành phần phục tiệc mà dặn ḍ họ rằng: "Ngài bảo làm ǵ th́ các anh
hăy làm theo như thế" (Jn 2:5).
Và lời nói tràn đầy Thánh
Linh của Mẹ đă tác động thành phần phục tiệc này tự nhiên trở thành
ngoan ngoăn lắng nghe Mẹ không phải là chủ nhân của họ, nhờ đó Con Mẹ đă
được dịp tỏ ḿnh ra lần đầu tiên cho các môn đệ tiên khởi của Người (x
Jn 2:11).
Ở tiệc cưới Cana,
Mẹ Maria đă tỏ ra Mẹ có đủ các thần trí được Tiên Tri Isaia nói về Chúa
Kitô, đó là "thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí huấn dụ và sức
mạnh, thần trí tri thức và kính sợ" (Is 11:1-2).
Mẹ Maria quả thực là "khôn
ngoan và thông hiểu" ở chỗ Mẹ chẳng cần phải xông xáo khắp nơi như vị
quản tiệc hay thành phần phục tiệc mà Mẹ cũng tinh khôn nh́n thấu suốt được
t́nh trạng "hết rượu" (Jn 2:3) của tiệc cưới trong khi mọi người không
ai biết ǵ, bao gồm cả vị quản tiệc.
Mẹ c̣n tỏ ra Mẹ có "thần
trí huấn dụ và sức mạnh" qua lời nhắn nhủ quan trọng và rất am hợp với ư
Chúa muốn được Mẹ ngỏ cùng thành phần phục tiệc, đến độ lời nói chân
thực của Mẹ có thể phát ra một quyền lực mănh liệt khiến thành phần phục
tiệc này phải làm theo lời Mẹ một cách ngoan ngoăn.
Mẹ cũng tỏ ra Mẹ có "thần
trí tri thức và kính sợ" khi Mẹ biết được ư Chúa muốn ǵ và hoàn toàn để
Chúa ra tay vào thời điểm Ngài muốn, như Mẹ sau khi khách quan tŕnh với
Con Mẹ những ǵ Mẹ nhận thấy Mẹ đă để tùy Chúa định đoạt, chứ không thôi
thúc Chúa hay thậm chí năn nỉ Chúa.
Nếu "đức tin thể hiện qua
đức mến" (Gal 5:6), mà đức mến của Mẹ là một đức mến tràn đầy Thánh
Linh, Đấng là mối hiệp thông yêu thương trong nội tâm của Thiên Chúa
trong mầu nhiệm Ba Ngôi, giữa Thiên Chúa với loài người qua mầu nhiệm
Nhập Thể, và giữa loài người với nhau qua mầu nhiệm Giáo Hội, th́ đức
tin của Mẹ quả thực đă sinh muôn vàn hoa trái thần linh.
Muôn vàn hoa trái thần linh
đó là một tân nhân loại được tái sinh trong "Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống", khi máu cùng nước tuôn ra từ cạnh sườn của Người bấy giờ chỉ c̣n
là một thi thể vô hồn, cũng là lúc Mẹ của Người đă như bị gươm sắc thâu
qua ḷng, quặn quại rên xiết đớn đau (x Rev 12:2) như người đàn bà lâm
bồn sinh con (x Jn 16:21), trong việc chịu đựng cái đau của Con Mẹ và
thay cho Con Mẹ.
Nếu Thánh Thần là t́nh yêu
của Thiên Chúa tuôn đổ vào ḷng chúng ta (x Rm 5:5) là nguyên lư và là
động lực cho đức tin yêu thương của Mẹ, và đối tượng của đức tin yêu
thương của Mẹ trên thế gian này là nhân loại, th́ sứ vụ của đức tin yêu
thương của Mẹ với vai tṛ trung gian đó là việc mang "Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" Con Mẹ cho nhân loại, cũng là việc tái sinh Người
nơi nhân loại, chẳng những về thể lư khi Mẹ sinh hạ Người trong hàng lừa
Bêlem mà c̣n về siêu nhiên bằng ân sủng nữa.
Ở biến cố Thăm Viếng, Mẹ
Maria đă mang Lời Nhập Thể là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đến
cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhờ đó thai nhi cao trọng nhất trong
thành phần con người được người nữ sinh ra ấy (x Mt 11:11) được cứu rỗi
ngay từ khi mới được 6 tháng tuổi trong ḷng thai mẫu, tức được tái sinh
trong Chúa Kitô, và Mẹ Maria, ở một nghĩa nào đó, vị đă mang Chúa Kitô
đến cho ngài, trở thành Mẹ thiêng liêng của ngài, ở chỗ đă sinh ngài ra
trong ơn nghĩa Chúa, ngay cả trước khi ngài được người mẹ trần gian của
ngài sinh ngài ra về thể lư.
Ở Tiệc Cưới Cana, Mẹ Maria
cũng đă mang Chúa tới cho thành phần môn đệ tiên khởi để họ có thể tin
vào Người, bằng việc Mẹ dọn đường cho Người trong việc Người biến nước
lă thành rượu ngon ở tiệc cưới này, nhờ đó Người tỏ ḿnh ra cho các vị.
Như thế, đức tin yêu thương của Mẹ Maria là ở chỗ làm sao cho Chúa Kitô
hiển linh nơi thế gian này nói chung và trong Giáo Hội của Người nói
riêng, nhất là nơi thành phần môn đệ ưu tuyển chứng nhân trung thực của
Người, như Người đă tỏ ḿnh ra cho Mẹ là đệ nhất môn đệ của Người cũng
là môn đệ tuyệt nhất
của Người.
Nếu đức mến của Mẹ Maria
liên quan đến vai tṛ làm mẹ thiêng liêng của Mẹ, trong việc tái sinh
Chúa Kitô cho loài người trên Đồi Canvê và trong các tâm hồn khi Mẹ dọn
đường để Người có thể tỏ ḿnh ra cho họ như ở biến cố Thăm Viếng và Tiệc
Cưới Cana, th́ đức tin của Mẹ liên quan đến phẩm chất trinh nguyên
"không hề biết đến nam nhân" (Lk 1:34) của Mẹ.
Thật vậy, theo tu đức, để
có thể tiến tới bậc hoàn toàn hiệp nhất nên một với "Thiên Chúa là thần
linh" (Jn 4:24), tâm hồn của Kitô hữu cần phải được thanh tẩy, thậm chí
họ phải trải qua những đêm tăm tối về đức tin, để họ có được một đức tin
tinh tuyền, đến độ ḷng họ không c̣n dính bén sự ǵ trên thế gian này,
không ngoại t́nh với bất cứ một tạo vật nào, không c̣n một ngẫu tượng
nào trong họ, ngoài một ḿnh Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của
họ, nhờ đó, Thiên Chúa chiếm đoạt họ và làm chủ họ, để rồi qua họ và nhờ
họ, Ngài có thể thực hiện tất cả những ǵ Ngài muốn cho phần rỗi các
linh hồn.
Nếu chỉ có duy một ḿnh Mẹ
Maria là trinh nữ sinh con nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa th́ đức
tin yêu thương "đầy ân phúc" như Mẹ đă trở thành mô phạm của Giáo Hội và
cho Giáo Hội, như được Công Đồng Chung Vaticanô II xác nhận trong Hiến
Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 63 và 64 (theo bản dịch của
Giáo Hoàng Học Viện Piô X – 1972) như sau:
63.
Maria trinh nữ và người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội.
83* Đức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ
đó Ngài được hiệp nhất với Con là Đấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm
vụ đặc biệt khác, Ngài c̣n kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh
Ambrosiô đă dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên b́nh diện
đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô
18. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng
được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Đức Nữ Trinh Maria đi tiên
phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm
có
19. V́, bởi ḷng tin và vâng phục, Ngài đă sinh chính Con Chúa
Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh
Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đă đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên
Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ
nào làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đă sinh ra, Thiên Chúa đă đặt
làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà
Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với t́nh thương của một người
mẹ.
84*
64.
Giáo Hội là trinh nữ và là mẹ.
Tuy nhiên, khi chiêm
ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Đức Maria, và khi
trung thành chu toàn thánh ư Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời
Thiên Chúa mà Giáo Hội trung thành lănh nhận: thực vậy, nhờ việc rao
giảng và ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ
thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lănh nhận
một đời sống mới và bất diệt. Giáo Hội cũng là trinh nữ đă giữ ǵn toàn
vẹn và tinh tuyền ḷng trung nghĩa đă hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ
Chúa ḿnh, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền
một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành
20.
85*
Đức
Tin Mô Phạm cho Năm Đức Tin
Vấn đề trước hết được đặt
ra ở đây là Năm Đức Tin: tại sao có và để làm ǵ? Nhất nữa
Năm Đức Tin lần này là lần thứ hai, sau lần thứ nhất cách đây 45 năm,
Năm Đức Tin 1967, dưới thời Đức Phaolô VI, được kết thúc bằng Kinh Tin
Kính Dân Chúa.
Để biết được chính xác lư
do tại sao cần phải có một Năm Đức Tin lần thứ hai và có để làm ǵ,
chúng ta phải tự hỏi rằng tại sao Năm Đức Tin 2012-2013 lại được tổ chức
vào dịp mừng kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II
(11/10/1962) và tại sao lại tổ chức Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường
lệ XIII vào ngay thời điểm khai mạc Năm Đức Tin này?
Trước hết, Năm Đức Tin được
mở màn vào chính ngày khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II và là dịp kỷ
niệm mừng 50 năm Công Đồng thứ 21 này của Giáo Hội, là v́ Công Đồng
Chung Vaticanô II là một công đồng vừa canh tân vừa về nguồn. Canh tân
cho thích hợp với thế giới tân tiến ngày nay, nhưng bằng một đức tin
tông truyền chân chính. Đó là lỳ do trong 16 văn kieên của công đồng này
(4 Hiến Chế - Constitutions, 9 Sắc Lệnh – Decrees và 3 Tuyên Ngôn -
Declarations), có hai Hiến Chế tiêu biểu đă chứng thực cho thấy chiều
hướng vừa canh tân vừa về nguồn này của công đồng, đó là Hiến Chế tín lư
về Giáo Hội Lumen Gentium – Ánh Sáng Muôn Dân, và Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội là Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng.
Có thể định nghĩa Công Đồng
Chung Vaticanô II là công đồng mang vui mừng và hy vọng cho thế giới tân
tiến thời đại bằng ánh sáng muôn dân của ḿnh, tức là bằng đức tin chân
chính tông truyền của ḿnh. Đó là lư do, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, từ
khi c̣n là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Đức Tin, như trong cuốn The
Ratzinger Report (1985, ấn bản Anh ngữ, trang 35-36), nhất là trong bài
giảng khai mạc cho Năm Đức Tin ngày 11/10/2012 và trong diễn từ ngày
14/10/2012 ngỏ cùng các vị nghị phụ đă tham dự công đồng này c̣n sống
sót, luôn nhấn mạnh đến một vấn đề then chốt liên quan đến công đồng này
đó là vấn đề Công Đồng Chung Vaticanô II không bao giờ chủ trương tách
ĺa khỏỉ quá khứ để chỉ đồng hóa với thế giới hiện tại.
Như thế, nếu Năm Đức Tin
được dính liền với Công Đồng Chung Vaticanô II, mà Công Đồng Chung
Vaticanô II chủ trương canh tân bằng cách về nguồn, th́ lư do có Năm Đức
Tin là v́ Giáo Hội cần phải về nguồn và mục đích của Năm Đức Tin là để
trở thành nhân chứng giữa thế giới tân tiến ngày nay.
Sau nữa, Năm Đức Tin c̣n
liên hệ mật thiết với biến cố Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ
lần thứ XIII (7-28/10/2012), v́ chủ đề cho biến cố thượng nghị được tổ
chức vào ngay đầu Năm Đức Tin đó là "Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa để Truyền
Đạt Đức Tin Kitô Giáo". Nơi chủ đề này chúng ta cũng thấy có hai phần rơ
rệt, một liên quan đến quá khứ, đó là "Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa", và
một liên quan đến tương lai, đó là "Để Truyền Đạt Đức Tin Kitô Giáo".
Căn cứ vào chủ để lưỡng diện này, chúng ta thấy chiều hướng của Thượng
Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ lần thứ XIII này đă lập lại chiều hướng
của Công Đồng Chung Vaticanô II 50 năm trước.
Nếu Năm Đức Tin có dính
dáng bất khả phân ly với Thượng Nghị Giám Mục lần này th́ lư do của Năm
Đức Tin đó là "Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa" cho chính ḿnh, nhất là cho
những nơi đă từng sâu xa đâm rễ Kitô giáo lâu đời và đă truyền giáo khắp
thế giới, nhất là từ kỷ nguyên "thế giới mới" (thế kỷ 17) bùng phát,
nhưng nay đă bị phá sản đức tin và đang truyền bá văn hóa chết chóc, và
do đó mục đích của Năm Đức Tin đó là để "Truyền Đạt Đức Tin Kitô Giáo"
cho một thế giới càng tân tiến lại càng ngày càng mất gốc nhân bản chân
chính và càng trở thành vô luân lẫn vô thần, và v́ thế càng trở nên tăm
tối, rất
khẩn trương cần đến một thứ
"ánh sáng muôn dân" xuất
phát từ Giáo Hội để
có thể sống trong
"vui mừng và hy vọng".
Tới đây, vấn đề thứ hai
được đặt ra: đức tin là ǵ? Theo lư thuyết, như Thánh
Phaolô đă định nghĩa trong Thư Do Thái đoạn 11 câu 1 th́ "Đức tin là bảo
đảm những ǵ chúng ta hy vọng và là bảo chứng những ǵ chúng ta không
thấy". Tuy nhiên, một cách thực tế hơn, "nếu đức tin của các con bằng
hạt cải" (Mathêu 17:20) th́ chúng ta cũng có thể định nghĩa đức tin là
hạt cải li ti được gieo trong ruộng để có thể trở thành một cây to lớn
cho chim trời làm tổ (xem Mathêu 13:31-32).
Trong câu định nghĩa so
sánh đức tin như hạt cải này, chúng ta thấy có 3 yếu tố chính yếu, đó là
hạt cải, thửa ruộng và chim trời. Hạt cải đây có thể hiểu là chính đức
tin; thửa ruộng đây có thể hiểu là nhân tính của con người lănh nhận đức
tin khi chịu phép rửa tội; chim trời đây có thể hiểu là các linh hồn
mong được cứu độ, cần được cứu độ và t́m ơn cứu độ.
Trước hết, về hạt cải đức
tin hay đức tin hạt cải, tự bản chất của ḿnh, nó là một thứ "hạt giống
nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống" (Mt 13:32). Bởi v́, tính chất của
nó c̣n li ti hơn cả vi khuẩn hay vi trùng, một thế giới thực vật li ti
những vẫn có thể nh́n thấy qua kính hiển vi. Thật vậy, hạt cải đức tin
hay đức tin hạt cải về h́nh thức là những ǵ vô cùng li ti không thể nào
có thể trông thấy được bằng mắt trần, có thể nắm bắt được bằng giác quan,
có thể khảo sát được bằng phát minh kỹ thuật, có thể giải quyết được
bằng đáp số toán học, có thể thấu hiểu được bằng giải thích khoa học.
Lư do là v́ hạt cải đức tin
hay đức tin hạt cải này chất chứa những mầu nhiệm thần linh, những chân
lư mạc khải khôn thấu, nếu không có Thần Linh là Đấng thấu suốt tất cả
mọi sự kể cả thâm cung của Thiên Chúa (xem 1Cor 2:10). Và chính v́ h́nh
thức vô cùng li ti của một thứ hạt cải đức tin hay đức tin hạt cải này
có một bản chất thần linh siêu việt như thế mà tầm vóc trọn vẹn của nó
mới có thể trở thành một thứ cây to lớn hơn bất cứ một cây nào khác, đến
độ chất ngất vươn cao lên trời cao, thu hút chim trời từ bốn phương đến
làm tổ nơi nó. H́nh ảnh hạt cải vươn cao chất ngất lên trời làm tổ cho
chim trời này phải chăng là h́nh ảnh của cây Thánh Giá cao vời trên Đồi
Canvê đă cứu chuộc được cả nhân loại?
Sau nữa, về yếu tố thửa
ruộng: để hạt cải đức tin hay đức tin hạt cải li ti nhỏ bé ấy có thể trở
thành một thứ cây vĩ đại nhất như thế, nó cần phải được gieo vào một
thửa ruộng và thửa ruộng này phải là một mảnh đất tốt. Thửa ruộng này
chính là một trường cho sự phát triển của hạt cải đức tin hay đức tin
hạt cải. Tuy nhiên, thửa ruộng không phải là nguyên lư hay động lực phát
triển của đức tin hạt cải hay của hạt cải đức tin. V́ một khi gặp được
mảnh đất tốt, một thửa ruộng được cầy sới đàng hoàng, hạt cải đức tin
hay đức tin hạt cải, vốn tiềm tàng sinh lực thần linh, tiềm tàng sự sống
viên măn (xem Gioan 10:10), sẽ dễ dàng phát triển để mau chóng đạt đến tầm
vóc vĩ đại khổng lồ của nó.
Kinh nghiệm tu đức cho thấy,
bởi nhiễm nguyên tội, cho dù đă lănh nhận phép rửa tái sinh, bản thân
của mỗi Kitô hữu vẫn c̣n đầy mầm mống tội lỗi, đầy những đam mê nhục dục,
những tính mê nết xấu, chẳng khác ǵ như đám cỏ lùng ở trong ruộng (xem
Mathêu 13:25), có thể làm chết nghẹt hạt giống đức tin hay lấn át những
bông lúa nhân đức nơi con người. Tuy Kitô hữu không thể nào nhổ hết cỏ
lùng (xem Mathêu 13:28-29) họ vẫn có thể sống trong thế gian mà không
thuộc về thế gian (xem Gioan 17:11,14), nhờ
đó, nhờ tinh thần siêu thoát, họ
tự nhiên biến
cỏ lùng trở thành ti tiểu chẳng c̣n là ǵ ở bên dưới chân cây cải vĩ đại
đă mọc vượt lên trên đám cỏ lùng hoang dại ấy. Được như thế là nhờ họ
luôn biết đáp ứng từng tác động thần linh của Thiên Chúa trong tâm hồn,
bằng cách
lắng nghe lời Chúa và tuân giữ lời của Ngài (xem Luca 11:28).
Sau hết, về yếu tố cây cải
cao lớn vĩ đại đệ nhất liên quan đến chim trời, th́ chim chóc có cánh là
loại tạo vật thuộc về trời cao, ám chỉ hồn thiêng bất tử: theo bản năng
tự nhiên, chúng luôn t́m kiếm những cây to cành lớn vững chắc để làm tổ th́
c̣n ǵ bằng ở những cành của cây cải cao lớn vĩ đại khổng lồ vươn lên
giữa trời này. Cành của cây cải vĩ đại khổng lồ cao lớn này, ở một
nghĩa nào đó, có thể
nói là các hoạt động của một tâm hồn đă hoàn toàn sống theo đức tin, đă
được chiếm đoạt bởi Chúa Kitô là chân lư đức tin, là cốt lơi đức tin,
Đấng đă đạt đến tầm vóc thành toàn của Người nơi họ (xem Epheso
4:13,15), trở thành một cây cải khổng lồ từ một hạt cải đức tin li ti,
Đấng đang sống trong họ (xem Galata 2:20) và v́ thế hoàn toàn làm chủ họ,
đến độ họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người và cho
Người, nhờ đó, “ai thấy Thày là thấy Cha” (Gioan 14:9) thế nào th́ những
ai thấy họ là thấy được một Chúa Kitô hiện thân đầy từ bi nhân ái như
vậy!
Nếu Mẹ Maria, theo dự án
cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Chúa Kitô, đă được tuyển
chọn là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc loài người với Chúa Kitô, th́ đức tin
của một Đấng "đầy ơn phúc" (Luca 1:28) "v́ đă tin" (xem Luca 1:45) như
Mẹ thật sự đă phát triển hết tầm cỡ toàn hảo của ḿnh, như một cây cải
cao lớn vĩ đại khổng lồ nhất, chưa từng thấy, vô tiền khoáng hậu, xứng
danh là một đệ nhất tạo vật về ân sủng, hơn cả các thần trời dù Mẹ thua
kém các vị về bản tính tự nhiên.
Thực vậy, thửa ruộng nhân
tính của Mẹ Maria hoàn toàn là một mảnh đất tốt, không có một chút mầm
mống tội lỗi và bóng dáng cỏ lùng nào, đă trở thành một môi trường vô
cùng thuận lợi cho hạt cải đức tin thần linh được gieo nơi Mẹ ngay từ
giây phút Mẹ hoài thai trong ḷng thai mẫu càng ngày càng mau chóng vươn
lên chất ngất, đến độ có thể nói chạm đến tận biên giới thần linh, nhờ
đó, Ngôi Lời hằng hữu đă qua Mẹ hạ giáng xuống trần gian hóa thân làm
người, để có thể yêu thương cho đến cùng (xem Gioan 13:1), ở ngay trên
một cây thập tự giá, với hai cánh tay giang rộng như muốn ôm lấy tất cả
mọi tạo vật của ḿnh, nhất là loài tạo vật đă được dựng nên theo h́nh
ảnh thần linh và tương tự như thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27).
|
|