Sau
thánh lễ
khai mạc
HÀNH
HƯƠNG MẸ
LA VANG
2012 tại
nhà thờ
Mẹ Việt
Nam,
Silver
Spring,
Marylang
(TGP
Washington,
DC), Đức
Cha Vinh
Sơn
Nguyễn
Văn Long
đă chia
sẻ với
cộng
đoàn dân
Chúa với
chủ đề
MẸ LA
VANG VỚI
DÂN TỘC
VIỆT
NAM...
Kính
thưa quư
ông bà
anh chị
em,
Hôm nay,
tôi rất
hân hạnh
được đến
Thủ Đô
Hoa
Thịnh
Đốn để
tham dự
cuộc
Hành
Hương
kính Đức
Mẹ La
Vang do
Liên
Đoàn
Công
Giáo
Việt Nam
tại Hoa
Kỳ tổ
chức.
Lời đầu
tiên,
tôi xin
được gởi
đến toàn
thể quư
vị đó là
lời chúc
sức khoẻ,
t́nh yêu
và ân
sủng của
Thiên
Chúa.
Xin Ngài
kiện
toàn
thánh ư
nhiệm
mầu của
Ngài nơi
chúng ta,
những
chứng
nhân của
tự do,
công lư
và nhân
bản. Tôi
cũng xin
được
chuyển
lời chào
thân
thương
của đồng
bào
chúng ta
tại Úc
Đại Lợi
luôn
hướng về
khối
người
Việt tại
Hoa Kỳ
như là
con chim
đầu đàn
của đàn
chim
Việt
đang tản
mác khắp
bốn
phương
trời. Dù
ở đâu,
người
Việt
Nam
chúng ta
cũng cố
gắng để
làm rạng
danh
‘con
Rồng
cháu
Tiên’ và
cùng
tranh
đấu cho
một
tương
lai tươi
sáng của
quê
hương
dân tộc.
Chủ đề
mà Ban
Tổ Chức
đă mời
tôi đến
để chia
sẻ với
quư vị
tối nay
là “Mẹ
La Vang
với dân
tộc Việt
Nam.”
Tôi phải
thú thật
là khi
nh́n vào
một chủ
đề như
thế, tôi
không
biết
phải nói
ǵ để
khỏi phụ
ḷng
mong đợi
của quư
vị.
Nhiều
người
nghĩ
rằng,
giám mục
th́ có
thể nói
về bất
cứ vấn
đề ǵ.
Thực tế
th́
không
như thế.
Ở lứa
tuổi 50
và sống
hai phần
ba đời
ḿnh ở
Úc, tôi
cũng chỉ
có một
kiến
thức
giới hạn
– nhất
là về
những
vấn đề
liên
quan đến
Việt
Nam. Tôi
không
thể
‘xuất
khẩu
thành
thơ’ và
càng
không
thể ‘múa
ŕu qua
mắt thợ’
trước
một cử
tọa ở
cái nôi
chính
trị và
văn hóa
của Hiệp
Chủng
Quốc
này. Ước
mong của
tôi là
được
chia sẻ
và học
hỏi hơn
là được
‘thuyết
giảng’
về mối
liên
quan
giữa tôn
giáo và
dân tộc
– nhất
là trong
hoàn
cảnh đất
nước
chúng ta
hôm nay.
Tôi cũng
đại diện
cho một
thế hệ
trẻ được
hấp thụ
hai nền
văn hoá
khác
nhau. V́
thế, ước
mơ của
tôi là
làm một
nhịp cầu
giữa hai
thế hệ,
ngơ hầu
ngọn
đuốc của
tự do và
công lư
được
chuyển
tiếp cho
đến ngày
quê
hương
mến yêu
được
phục
hưng.
Để t́m
hiểu về
sự tương
quan của
“Mẹ La
Vang với
dân tộc
Việt
Nam,”
chúng ta
có thể
nh́n vào
một dân
tộc mà
lịch sử
của họ
cũng có
nhiều
điểm
tương
đồng với
Việt Nam
chúng
ta, đó
là Ba
Lan, quê
hương
của Đức
Cố Giáo
Hoàng
Gioan
Phaolo
II. Ba
Lan, một
quốc gia
bị ngoại
bang xâm
chiếm
nhiều
lần và
trong
lịch sử
cận đại
đă chịu
nhiều
tang tóc
hơn các
dân tộc
khác,
với hơn
sáu
triệu
người
chết
trong Đệ
Nhị Thế
Chiến.
Hơn thế
nữa, Ba
Lan đă
sống
dưới
bóng của
tên
khổng lồ
không
mấy tử
tế là
Liên
Bang Xô
Viết và
chế độ
Cộng Sản
hơn bốn
thập
niên.
Trong
suốt
những
năm dài
tăm tối
đó,
người
dân Ba
Lan đă
hướng về
một
thánh
địa
tượng
trưng
cho tinh
thần dân
tộc và ư
chí bất
khuất
của họ,
đó là
Jasna
Gora –
một địa
danh có
nghĩa là
Núi Sáng
(Luminous
Mount)
hoặc có
thể tạm
dịch là
Minh
Sơn. Nơi
đây, Đức
Trinh Nữ
Maria
dưới
danh
hiệu Đức
Mẹ
Czestochowa
được
sùng
kính như
là Đấng
Bảo Vệ
cho dân
tộc Ba
Lan qua
bao
thăng
trầm của
lịch sử.
Đức Mẹ
Czestochowa
có nghĩa
là ‘Đức
Mẹ Đồng
Đen’ Tục
truyền
rằng,
vào năm
1655,
khi quân
Thụy
Điển
chuẩn bị
xâm
chiếm Ba
Lan,
những
người
lính
trên đồi
Jasna
Gora đă
cầu
nguyện
với ảnh
Đức Mẹ
Đồng Đen
và họ dù
yếu thế
hơn đă
đẩy lui
được
quân
Thụy
Điển. Từ
đó, Đức
Mẹ
Czestochowa
được
mệnh
danh là
Nữ Vương
nước Ba
Lan và
đồi
Jasna
Gora
được coi
như
thánh đô
của họ.
Vào năm
1920,
khi Hồng
Quân
Liên Xô
ồ ạt
đánh vào
Warsava,
một lần
nữa
người
dân Ba
Lan lại
chạy đến
với Đức
Mẹ
Czestochowa.
Không ai
có thể
giải
thích
nổi, với
một đạo
quân
hùng
mạnh
nhất Âu
Châu
thời đó,
Hồng
Quân
Liên Xô
đă bị
đánh bại
ở ḍng
sông
Vistula
– một
chiến
thắng
không
ngờ, như
Ngô
Quyền
đánh bại
quân Nam
Hán trên
sông
Bạch
Đằng năm
xưa
(938).
Với lịch
sử dân
tộc gắn
liền với
đức tin
Công
Giáo và
đặc biệt
là ḷng
sùng
kính Đức
Mẹ,
chúng ta
không
ngạc
nhiên
khi
Jasna
Gora trở
thành
một biểu
tượng
không
thuần
túy về
tôn giáo
mà là
một biểu
tượng
cho tinh
thần
quốc gia
và niềm
tự hào
dân tộc.
Mỗi khi
quốc gia
bị mất
chủ
quyền và
dân tộc
bị đàn
áp,
người
dân Ba
Lan đă
t́m đến
Jasna
Gora
không
phải chỉ
nguyện
xin mà
c̣n t́m
một lối
thoát
cho quốc
gia và
một
tương
lai mới
cho dân
tộc.
Chính v́
thế,
trong
những
năm gọi
là
‘chiến
tranh
lạnh,’
khi bạo
quyền
Cộng Sản
Ba Lan,
được sự
chỉ đạo
của Điện
Cẩm
Linh,
dập tắt
tất cả
các ngọn
lửa đấu
tranh
cho nhân
quyền,
Jasna
Gora đă
trở nên
thành
lũy đối
kháng và
linh hồn
của
phong
trào
chống
cộng.
Vào ngày
26 tháng
8 năm
1982,
tức ngày
Lễ Kính
Đức Mẹ
Czestochowa,
Đức Giáo
Hoàng
Gioan
Phaolo
II đă
nói
những
lời tâm
huyết
với đồng
bào ḿnh
c̣n đang
sống sau
cái gọi
là ‘bức
màn sắt’
và đang
tranh
đấu cho
tự do.
Ngài nói
như sau:
“Đồng
bào
thân
mến.
Dù đời
sống
của
người
Ba Lan
khó
khăn
thế
nào,
xin cho
chúng
ta thâm
tín
rằng
cuộc
đời
của
chúng
ta đã
thuộc
về
Trái
Tim Mẹ.
Như Mẹ
đã
toàn
thắng
nơi
Thánh
Maximiliano
Kolbe,
người
Hiệp
sĩ của
Đấng
Khiết
Trinh,
xin Mẹ
cũng
toàn
thắng
nơi
chúng
ta. Xin
Mẹ
Jasna
Gora
toàn
thắng
nơi
chúng
ta và
qua
chúng
ta. Xin
Mẹ
toàn
thắng
ngay cả
qua
những
đau khổ
và
thất
bại
của
chúng
ta. Xin
Mẹ cho
chúng
ta đừng
nản
lòng
tranh
đấu cho
công lý
và sự
thật,
cho tự
do và
nhân
phẩm
của con
người.
Chẳng
phải lời
của Mẹ ở
tiệc
cưới
Cana
‘Hăy làm
theo
mệnh
lệnh của
Ngài’ có
nghĩa
như vậy
sao? Anh
chị em
hăy nhớ
rằng,
sức mạnh
được thể
hiện qua
sự yếu
đuối.
Tôi ở
gần anh
chị em.
Tôi luôn
nhớ tới
anh chị
em.”
Đọc
những
lời của
Đức
Thánh
Cha, tôi
không có
cảm
tưởng là
tôn giáo
và chính
trị là
hai thái
cực mà
người
tín hữu
không
được lẫn
lộn.
Ngược
lại, sự
nhập thể
của
Thiên
Chúa vào
đời sống
của con
người
đ̣i buộc
chúng ta
cũng
phải
‘nhập
thể’
dưới ánh
sáng Tin
Mừng.
Như lời
mở đầu
Hiến chế
Gaudium
et Spes
(Vui
mừng và
Hy vọng)
của Công
Đồng
Vaticano
II đă
khẳng
định
“Vui
mừng và
hy vọng,
ưu sầu
và lo
lắng của
con
người
ngày
nay,
nhất là
của
người
nghèo và
những ai
đau khổ,
cũng là
vui mừng
và hy
vọng, ưu
sầu và
lo lắng
của các
môn đệ
Chúa
Kitô,”
Chân
phước
Gioan
Phaolô
II đă
cho
chúng ta
thấy
rằng,
tranh
đấu cho
công lư
và sự
thật,
cho tự
do và
nhân
phẩm
không
phải là
việc làm
của
những kẻ
muốn
chính
trị hóa
tôn giáo
mà là
bổn phận
‘nhập
thể hóa’
Tin Mừng
và ‘Kitô
hóa’ môi
trường
của
chúng
ta. Nếu
chúng ta
chỉ giữ
đạo
trong
nhà thờ,
nếu
chúng ta
chỉ đóng
khung
tôn giáo
trong
những
vấn đề
siêu
nhiên mà
hoàn
toàn vô
cảm với
những
vui mừng
và hy
vọng,
những sợ
hăi và
lo âu
của đồng
loại,
th́ phải
chăng
tôn giáo
chỉ là
thứ
thuốc
phiện ru
ngủ
chúng ta
như lời
Karl
Marx?
Đây cũng
là chiêu
bài của
cộng
sản. Họ
muốn tôn
giáo chỉ
là thứ
thuốc
phiện ru
ngủ dân
chúng.
Họ muốn
biến tôn
giáo trở
thành
một công
cụ của
chế độ.
Cách đây
không
lâu, tôi
có nghe
một câu
nói rất
hùng
hồn:
“Nếu ai
không
thích
cộng
sản,
người ấy
không
nên yêu
cầu
chúng
tôi
khích
bác họ.”
Đằng sau
câu nói
này là
một khó
khăn
thực tế
cho
những ai
phải
sống
dưới chế
độ cộng
sản.
Trong
bối cảnh
đất nước
và giáo
hội Việt
Nam hôm
nay, sự
liên
quan
giữa
chính
trị và
tôn giáo
quả thật
là một
đề tài
hết sức
tế nhị
cho
người
tín hữu,
nhất là
các vị
lănh
đạo. Làm
sao để
giữ được
một lợi
thế
thực
dụng cho
giáo hội
mà không
thỏa
hiệp các
giá trị
cơ bản
của Phúc
Âm? Làm
sao
thăng
tiến đời
sống đạo
và lo
cho các
nhu cầu
của các
giáo xứ,
các ḍng
tu, các
chủng
viện
v.v...
và đồng
thời làm
trách
nhiệm
ngôn sứ
trong
một xă
hội độc
tài đảng
trị? Đó
là một
số những
mệnh đề
nan giải
mà những
ai sống
với cộng
sản mới
biết
những
phức tạp
của nó.
Ở đây,
tôi
không có
ư phê
b́nh câu
nói hùng
hồn trên
kia hay
một thái
độ nào
đó của
các vị
lănh đạo
giáo hội
trước
t́nh
h́nh
chính
trị của
đất
nước.
Tuy
nhiên,
như Đức
Cố Giáo
Hoàng
Phaolo
II đă
quảng
diễn qua
lời
giảng
dạy,
thái độ
và đời
sống của
ngài,
Kitô hóa
môi
trường
theo tôn
chỉ Phúc
Âm là
nhiệm vụ
của mọi
tín hữu.
Tranh
đấu cho
công lư
và sự
thật, tự
do và
nhân
phẩm là
con
đường
tất yếu
của
những ai
theo
Đấng là
Đường,
là Sự
Thật và
là Sự
Sống. V́
thế, vấn
đề ở đây
không
phải là
chúng ta
‘không
thích
cộng
sản’ hay
‘khích
bác họ.’
Vấn đề ở
đây là
chọn lựa
của
chúng ta
giữa hai
thế lực
tương
phản: sự
thật và
sự giả
dối, sự
thánh
thiện và
sự gian
ác, ánh
sáng và
bóng
tối.
Vâng,
người
tín hữu
phải yêu
thương
cả kẻ
thù, kể
cả người
cộng
sản.
Nhưng
chúng ta
không
thể đồng
lơa và
vô cảm
với sự
giả dối,
gian ác
và phi
nhân của
họ.
Chính
t́nh yêu
đối với
Thiên
Chúa và
nhiệt
tâm cho
Vương
Quốc của
Ngài đ̣i
hỏi thôi
thúc
chúng ta
trong
cuộc
chiến
cho công
lư và sự
thật,
ánh sáng
và sự
sống –
cuộc
chiến mà
chính
Đức Kitô
đă tranh
đấu và
khải
hoàn qua
sự chết
và phục
sinh của
Ngài.
Quư vị
thân
mến,
Nếu
người
dân Ba
Lan đă
coi Đức
Mẹ
Czestochowa
như là
biểu
tượng
niềm tin
của họ,
th́
người
Việt Nam
chúng ta
có thể
coi Đức
Mẹ La
Vang như
là biểu
tượng
niềm tin
của
chúng ta
hay
không?
Hơn thế
nữa, nếu
Jasna
Gora đă
hun đúc
tinh
thần đấu
tranh
cho quê
hương và
cho giáo
hội Ba
Lan
trong
những
chặng
đường
cam go
nhất của
lịch sử
dân tộc
Ba Lan,
người
Việt Nam
Công
Giáo
chúng ta
có thể
đến với
Mẹ La
Vang
trong nỗ
lực t́m
kiếm một
tương
lai tươi
sáng cho
đất nước
và giáo
hội hay
không?
Đối với
tôi,
những
câu hỏi
này thật
thiết
thực với
bối cảnh
của quê
hương
chúng ta
hôm nay.
Đối với
tôi, đây
không
phải là
‘chính
trị hóa’
La Vang
mà là
đem Phúc
Âm vào
ḷng dân
tộc và
là thực
thi vai
tṛ ngôn
sứ của
chúng ta
trong
một xă
hội đang
mất căn
tính
nhân
bản. Nói
một cách
khác,
nếu
người
tín hữu
chúng ta
phải như
‘thành
phố xây
trên
núi’ hay
như
‘muối
men cho
đời,’
th́ vai
tṛ phục
hồi cho
xă hội
một căn
tính
nhân bản
trên
những
giá trị
Phúc Âm
là vai
tṛ
thiết
yếu của
chúng
ta. Câu
Kinh Đức
Mẹ La
Vang
“Xin cho
chúng
con tấm
ḷng từ
bi nhân
hậu, đại
lượng
bao
dung,
cùng
nhau bồi
đắp nền
văn minh
t́nh
thương
và sự
sống” sẽ
không có
ư nghĩa
khi
người
tín hữu
chúng ta
vô cảm
trước
hiện
t́nh một
xă hội
băng
hoại
toàn
diện
đang
diễn ra
trên quê
hương
chúng
ta.
Như quư
vị đă
biết,
trong
những
ngày gần
đây,
giáo hội
tại Hoa
Kỳ đang
tranh
đấu cho
quyền tự
do tôn
giáo qua
những
cuộc
biểu
t́nh rầm
rộ,
những
kháng
cáo
trước
ṭa án
cũng như
qua các
phương
tiện
truyền
thông.
Lư do là
gi? Đó
là việc
chính
phủ của
Tổng
thống
Obama đă
đề xướng
ra một
đạo luật
về y tế
mà theo
đó, tất
cả các
tổ chức
kể cả tổ
chức
Công
Giáo
phải
cung cấp
bảo hiểm
phổ quát
bao gồm
ngừa
thai cho
các nhân
viên của
ḿnh.
Các giám
mục Hoa
Kỳ đă
không
ngần
ngại
đương
đầu với
chính
sách
‘Obamacare’
mà họ
cho rằng
đi ngược
lại với
luân lư
Công
Giáo và
hơn thế
nữa giới
hạn
quyền tự
do của
giáo hội
trong
việc
hành xử
theo
giáo
luật.
Giáo hội
không
thể làm
ngược
lại tôn
chỉ của
Phúc Âm
nếu bị
bắt buộc
phải
cung cấp
dịch vụ
phá thai
hay ngừa
thai –
dù chỉ
là gián
tiếp –
trong
các bệnh
viện của
ḿnh hay
tài trợ
các dịch
vụ này
cho các
nhân
viên của
ḿnh như
tại
trường
học,
giáo xứ,
cơ sở xă
hội
v.v...
Chính v́
thế, các
giám muc
Hoa Kỳ
đă không
ngần
ngại
đứng lên
bảo vệ
những
giá trị
mà họ
cho là
không
thể
nhượng
bộ dù là
trong
một xă
hội đa
nguyên.
Nhiều
giáo dân
và ngay
cả một
số giáo
sĩ Hoa
Kỳ không
đồng
quan
điểm với
Hội Đồng
Giám Mục
Hoa Kỳ.
Nhưng ít
ra,
không ai
có thể
chỉ
trích là
họ đă
can
thiệp
vào
chính
sách của
nhà nước
hay là
họ đă
vượt qua
giới hạn
tôn giáo
thuần
túy.
Phúc Âm
và đời
sống
không
thể tách
ĺa
nhau;
tôn giáo
và chính
trị
không
thể
không
liên hệ
với
nhau.
Vai tṛ
ngôn sứ
của Giáo
hội đ̣i
buộc
người
tín hữu
ở mỗi
bậc và
mỗi hoàn
cảnh
phải
tranh
đấu cho
một xă
hội phản
ảnh
Vương
Quốc của
Thiên
Chúa,
hay như
Kinh Đức
Mẹ La
Vang, là
xây dựng
một ‘nền
văn minh
t́nh
thương
và sự
sống.’
Thực
thế,
truyền
thống
công lư
xă hội
trong
Kinh
Thánh là
bằng
chứng
hùng hồn
về sự
nhập thế
của các
giá trị
siêu
nhiên
vào đời
sống tự
nhiên
của con
người.
Ơn cứu
độ không
chỉ có
nghĩa là
một sự
giải
thoát
của linh
hồn và
đời sống
vĩnh
hằng
trên
Thiên
Quốc mà
là sự
giải
thoát
con
người
toàn
diện.
Ngay
trên cơi
đời này
và ngay
trong xă
hội này,
con
người
được mời
gọi để
sống
cuộc
sống
sung măn
với
Thiên
Chúa và
tha
nhân. Do
đó, sống
đức tin
và sống
thánh
thiện
không
chỉ có
một
chiều
dọc, tức
là thờ
phượng
kính mến
Chúa
được
quảng
diễn qua
xây nhà
thờ, tu
viện,
trung
tâm, lễ
nghi,
kinh kệ,
rước
sách,
đ́nh
đám,
hành
hương,
ăn chay
hăm minh
v.v...
Sống đức
tin và
sống
thánh
thiện
không
thể tách
ĺa khỏi
tiến
tŕnh
công lư
hóa xă
hội và
phong
phú hóa
đời sống
con
người.
Tiên tri
Isaiah
đă định
nghĩa
cho
chúng ta
thế nào
là giữ
đạo, đó
là “phá
vỡ xiềng
xích của
bọn ác
nhân,
cất đi
gánh
nặng của
kẻ lầm
than,
giải
thoát
cho kẻ
bị áp
bức và
phá tan
mọi gông
xiềng”
(Isaiah
58:6).
Đức Kitô
cũng đă
đúc kết
sứ mạng
của Ngài
trong
câu nói
đầy ư
nghĩa và
súc
tích:
“Ta đến
để mọi
người
được sự
sống và
sự sống
viên
măn”
(Gioan
10:10).
Sự sống
viên măn
không
phải chỉ
là ở đời
sau. Nó
là sự
sống
toàn thể
trọn
vẹn. Nó
là sự
sống
trong
yêu
thương,
trong
công lư,
trong
t́nh
người từ
bây giờ
và măi
măi.
Ở bên
Úc, có
rất
nhiều
người
hỏi tôi
là họ
phải làm
ǵ khi
nhận
những lá
thư hay
những
lời kêu
gọi giúp
đỡ giáo
hội quê
nhà. Nào
là xây
nhà thờ,
sửa tu
viện, tu
bổ trung
tâm hành
hương,
nâng cấp
địa điểm
truyền
giáo....
rồi nào
là giúp
cô nhi,
người
tàn tật,
các chị
em lầm
lỡ [tôi
không
mấy ưa
cụm từ
này v́
nó có vẻ
kỳ thị
giới
tính
quá. C̣n
các anh
lầm lỡ
đâu?] Có
nhiều
người
c̣n nói
là họ
rất sợ
vô đoàn
thể v́
đó là
những
nơi bị
xin
tiền!
Tôi trả
lời với
họ rằng
chúng ta
không
nên vô
cảm
nhưng
cũng
không
nên tạo
một gánh
nặng cho
ḿnh hay
cho
người
khác.
Tôi cũng
nói thêm
là trên
hết mọi
sự giúp
đỡ, anh
chị em
hăy tham
dự vào
tiến
tŕnh
công lư
hóa cho
dân tộc.
V́ sao?
V́ căn
nguyên
của sự
nghèo
đói và
của
những
nỗi nhục
quốc thể
ở trong
nước
cũng như
ở ngoài
nước là
hệ thống
chính
trị lỗi
thời, là
chế độ
cộng sản
tham
nhũng,
bất công
và phi
nhân.
Tôi sẽ
không
bao giờ
ngần
ngại để
nói lên
sự thật
phũ
phàng
đó. Tôi
sẽ không
bao giờ
tách ĺa
lư tưởng
một Việt
Nam phi
cộng sản
và một
Việt Nam
nhân bản
ra khỏi
sứ mạng
giám mục
của tôi.
Nhiều
người
Công
Giáo
quan
niệm
rằng,
đạo và
đời là
hai thực
thể
riêng
biệt.
Chính v́
thế, câu
nói
“người
Công
Giáo
không
làm
chính
trị” đối
với họ
đă trở
thành sự
biện
minh cho
thái độ
vô cảm
hay chủ
trương
không
tham dự
vào
những
vấn đề
xă hội
và đất
nước.
Một số
quư vị
lớn tuổi
ở đây
chắc đă
từng
trải qua
thời kỳ
Việt
Minh vào
những
năm sau
Đệ Nhị
Thế
Chiến. Ở
Bắc
Việt,
Đức Giám
Mục Lê
Hữu Từ,
là một
vị tiền
nhiệm
của Đức
Giám Mục
Nguyễn
Năng
hiện
nay, đă
có thời
lập ra
khu Bùi
Chu -
Phát
Diệm tự
trị với
cả những
đội vũ
trang Tự
vệ Công
giáo,
chống
lại
chính
quyền
Việt
Minh do
ông Hồ
Chí Minh
lănh
đạo. Đối
với ngài
cũng như
rất
nhiều
giám mục
miền Bắc
trong
thời kỳ
đó đă
không
ngần
ngại dấn
thân cho
quê
hương và
có thể
nói vượt
qua cái
ranh
giới
thông
thường
của đạo
và đời,
tôn giáo
và chính
trị. Hôm
nay, tôi
không có
ư hoài
niệm về
một quá
khứ mà
nhiều
người
trong
thế hệ
cha anh
rất tự
hào về
giáo hội
Việt
Nam; tôi
càng
không có
ư cổ vơ
một con
đường
chống
đối bạo
động dù
đối với
chế độ
vong bản
phi
nhân.
Tuy
nhiên,
khi lấy
cuộc
sống
sung măn
làm mục
đích,
chúng ta
không
thể mặc
nhiên để
sự ác
hoành
hành
khống
chế xă
hội. Sự
ác này
không
những
thể hiện
nơi cá
nhân hay
đoàn
thể. Tôi
cho rằng
sự ác
lớn nhất
đang
hoành
hành
trên đất
nước
chúng ta
hôm nay
chính là
tà quyền
và hệ
thống
chính
trị đưa
con
người
vào chỗ
bế tắc.
Có nhiều
người sẽ
không
đồng
thuận
với nhận
xét và
quan
điểm ở
trên của
tôi. Họ
dẫn
chứng
rằng:
Việt Nam
đă có ít
nhiều tự
do tôn
giáo.
Nhà thờ,
ḍng tu,
chủng
viện
v.v...
được xây
cất tu
bổ một
cách rầm
rộ. Giáo
dân đi
lễ không
c̣n chỗ
ngồi. Ơn
gọi
không
c̣n chỗ
chứa.
Bây giờ,
cái khó
không
phải là
do chính
phủ hay
công cụ
của họ
như công
an cảnh
sát gây
nên. Cái
khó là
do đời
sống
luân lư
đạo đức
suy đồi
của
người
dân, đặc
biệt là
giới
trẻ...
Tôi
không
phủ nhận
những
thử
thách
đến từ
sự mất
hướng
đi, lối
sống
buông
thả và
hưởng
thụ vô
trách
nhiệm
của thế
hệ hôm
nay cũng
như đă
xảy ra
cho thế
hệ hôm
qua.
Nhưng
tôi cho
rằng
những
thử
thách về
đời sống
luân lư
vẫn ở
măi với
chúng ta
từ đời
này qua
đời
khác.
Cái khác
là trong
một xă
hội bị
cai trị
bởi một
tà quyền
và hệ
thống
chính
trị gian
dối ác
độc,
những
thử
thách ấy
mang một
sắc thái
tiêu cực
và bi
đát hơn.
Khi một
chế độ
không
cho giới
trẻ một
tương
lai,
không
tạo cho
họ một
niềm tự
hào,
không
cho họ
cơ hội
phát huy
tài
năng;
khi một
chế độ
chỉ cho
họ tiến
thân qua
thẻ
đảng,
khi chỉ
có ‘c̣n
đảng mới
c̣n ta’
th́ làm
sao
tránh
được sự
tuyệt
vọng, sự
mất
hướng đi
và sự
bất cần
của giới
trẻ. Hăy
cứ hỏi
những cô
dâu đi
lấy
chồng
Đài
Loan,
Nam Hàn,
những
người
lao động
hợp tác
ở Mă
Lai, ở
Arab
Saudi và
thậm chí
ở cả Phi
Châu,
những
người di
dân bất
hợp pháp
ở Đông
Âu,
những em
bị bán
làm nô
lệ t́nh
dục ở
Thái
Lan,
những
người
dân oan
bị cướp
đất, các
công
nhân bị
bóc lột
ở các
hăng
xưởng,
những
người
trẻ
trong
các
‘chat-room’
v.v...
Có lần
đi
Macau,
tôi gặp
một số
bạn trẻ
Việt Nam
lao động
bất hợp
pháp. Họ
bị đối
xử tàn
tệ mà
ṭa đại
sứ Việt
Nam hoàn
toàn
không
can
thiệp.
Tôi
không
nghĩ là
trong
các nước
không
cộng sản
không có
những
vấn nạn
xă hội
của họ –
ngay cả
trên đất
nước Hoa
Kỳ này.
Nhưng
một điều
không
thể chối
căi được
là trong
nước ta
hôm nay,
nhiều
những
hiện
tượng
tôi đan
cử trên
là vô
tiền
khoáng
hậu
trong
lịch sử
oai hùng
của nước
ta và là
những
nỗi nhục
quốc thể
cho
những ai
mang
ḍng máu
Việt.
Những
hiện
tượng
này là
triệu
chứng
của một
cơn bệnh
trầm
kha: một
thể chế
hoàn
toàn
băng
hoại và
dẫn cả
dân tộc
vào chỗ
bế tắc.
Đức Giáo
Hoàng
Benedicto
XVI có
nhắc nhở
cho
người
Công
Giáo là
“Giáo
Hội
không
làm
chính
trị
nhưng
cũng
không
đứng bên
lề xă
hội.”
Lịch sử
Việt Nam
qua
nhiều
thời đại
đă minh
chứng
được sự
dấn thân
của
người
tín hữu
thuộc
mọi
thành
phần
giáo hội
vào sự
nghiệp
bảo vệ
và phát
triển
đất
nước.
Thế
nhưng
trong
những
năm gần
đây, sự
ru ngủ
lương
tri của
giáo hội
đă trở
thành
một hiện
tượng
phổ biến
nằm
trong
chính
sách
công cụ
hóa tôn
giáo của
chính
quyền
cộng
sản. Các
cụm từ
như ‘tôn
giáo và
dân
tộc,’
‘tốt đời
đẹp
đạo,’
‘giáo
dân tốt
công dân
tốt,’
‘kính
Chúa yêu
nước’ và
‘đồng
hành
cùng dân
tộc’ đă
trở
thành
những
viên
thuốc an
thần để
ru ngủ
lương
tri và
vô hiệu
hóa vai
tṛ ngôn
sứ của
giáo
hội. Khi
“đồng
chí” Lê
Hồng
Anh,
thường
trực Ban
Bí Thư,
đi thăm
Đức Cha
Bùi Tuần
nhân dịp
Giáng
sinh
2011,
“ông bày
tỏ tin
tưởng
đồng bào
có đạo
tiếp tục
phát huy
truyền
thống
kính
Chúa yêu
nước”
(nguyên
văn của
báo
Sàig̣n
Giải
Phóng).
Rồi sống
sượng
hơn nữa,
“đồng
chí”
Nguyễn
Thiện
Nhân,
Phó Thủ
Tướng,
tại La
Vang năm
2010 đă
ban huấn
từ cho
cả các
giám mục
Việt Nam
về việc
mà ông
gọi là
“đồng
hành
cùng dân
tộc.”
Cái điều
mà người
Tây
phương
gọi là
‘elephant
in the
room’
tức là
điều ai
cũng
nhận ra
là đảng
đă tự
tôn ḿnh
ngang
hàng với
dân tộc
thay v́
là ‘đầy
tớ của
nhân
dân’ như
họ vẫn
rêu rao.
Bằng
chiêu
bài đồng
hóa đảng
với dân
tộc họ
biến
ḷng yêu
nước
thành
yêu đảng
và chống
đảng là
chống
lại dân
tộc.
Điều
đáng
buồn là
liều
thuốc an
thần này
đang làm
ru ngủ
và làm
vô cảm
lương
tri của
nhiều
người
Việt
Nam, kể
cả người
tín hữu.
Đồng
hành
cùng dân
tộc
không
thể là
đồng
hành
cùng chế
độ, nhất
là khi
chế độ
đó đang
đưa dân
tộc vào
chỗ diệt
vong.
Quư vị
thân
mến,
Trở lại
câu hỏi
là chúng
ta có
thể đến
với Mẹ
La Vang
trong nỗ
lực t́m
kiếm một
tương
lai tươi
sáng cho
đất nước
và giáo
hội hay
không,
niềm xác
tín của
tôi là
đây là
bổn phận
của
người
tín hữu.
Như
người
Công
Giáo Ba
Lan,
cũng như
ở khắp
mọi nơi,
chúng ta
người
tín hữu
Việt Nam
cũng
cùng Mẹ
để hành
tŕnh
tiến về
sự sống
sung măn
cho đất
nước và
cho dân
tộc. Ở
trên,
tôi đă
chứng
minh là
đây là
sự nhập
thể hóa
đức tin
và là
bổn phận
Phúc Âm
hóa môi
trường
xă hội
của
người
môn đệ
Chúa
Giêsu.
Bây giờ,
tôi xin
được
hướng về
chính
Đức
Trinh Nữ
Maria
như là
một ‘mẫu
người lữ
hành
trong
đức tin’
và là
một ‘đầy
tớ can
trường
của công
lư.’
Có lẽ
đối với
nhiều
người
Công
Giáo
Việt
Nam, họ
ít khi
nào dùng
hai cụm
từ này
để diễn
tả hay
suy niệm
về Đức
Mẹ.
Trong
gần 20
năm ở
trong
nước, kể
cả những
năm ở
tiểu
chủng
viện
Phaolô
Xuân
Lộc, tôi
chưa một
lần nghe
các cha
giảng về
Đức Mẹ
dưới hai
danh
hiệu nói
trên.
Thế
nhưng
tôi cho
rằng đây
là một
kho tàng
về Thánh
Mẫu học
mà chúng
ta cần
khai
phá,
nhất là
cho
những
tín hữu
Việt Nam
trong
bối cảnh
của đất
nước
chúng ta
hôm nay.
Phúc Âm
thánh
Luca đă
mô tả là
khi
Maria
bước vào
nhà
ḿnh, bà
Elisabeth
được đầy
ơn Chúa
Thánh
Thần đă
thốt
lên:
“Bởi đâu
tôi được
Mẹ Thiên
Chúa đến
thăm
tôi...
Phúc cho
em là kẻ
đă tin
lời Chúa
phán
cùng em
sẽ được
thực
hiện”
(Luca
1:43,45).
Maria
được đầy
ơn phúc
không
những v́
là người
được
những
đặc ân
Thiên
Chúa ban
tặng. Bà
là một
người đă
tín thác
tuyệt
đối. Bà
là mẫu
người lữ
hành
trong
đức tin
vượt
trội hơn
mọi
người lữ
hành
khác.
Abraham
đă tin
vào lời
Chúa hứa
khi ông
bỏ tất
cả để
tiến về
vùng đất
hứa. Ông
đă tin
dù chẳng
được
thấy
bằng
chứng
của lời
hứa ấy.
Abraham
chẳng hề
nh́n
thấy con
đàn cháu
đống và
cũng
chẳng hề
được
bước
chân vào
vùng đất
đầy sữa
và mật
ong. Ông
tin khi
không
c̣n ǵ
để tin
và hy
vọng khi
không
c̣n ǵ
để hy
vọng.
Maria
cũng
thế. Bà
cũng tin
khi
không
c̣n ǵ
để tin
và hy
vọng khi
không
c̣n ǵ
để hy
vọng. Ít
ra ông
Abraham
khi phải
chịu thử
thách là
đem con
đi sát
tế, Chúa
đă nhận
ḷng tin
và cứu
con ông
khỏi
chết.
C̣n ḷng
tin của
Maria
th́ bị
thúc đẩy
đến
đường
cùng. Bà
phải
chứng
kiến con
một ḿnh
bị sát
tế trên
bàn thờ
thập
giá. Đức
tin của
bà được
chứng
minh một
cách
tuyệt
đối.
Maria
trên Núi
Sọ đă
trở
thành
một
người lữ
hành
trọn hảo
trong
đức tin.
Bà cũng
là môn
đệ trọn
hảo v́
đă bước
theo con
đường
chân
thiện mỹ
của Đức
Kitô cho
đến
cùng.
C̣n
Maria là
‘đầy tớ
can
trường
của công
lư’ như
thế nào?
Kinh
Magnificat
(Luca
1:46-55)
cho
chúng ta
câu trả
lời khi
Maria ca
ngợi
Đấng
đoái
thương
tới
người nữ
t́ hèn
mọn như
Ngài đă
luôn
chúc
phúc cho
những kẻ
khiêm
nhường
và đói
nghèo
nhưng
luôn
kính sợ
Ngài.
Những
lời nói
này đối
với
những
người
không
hiểu
lịch sử
cứu độ
th́ có
vẻ tổng
quát và
mơ hồ.
Kẻ khiêm
nhường
và người
nghèo
đói theo
truyền
thống
Kinh
Thánh là
những
người
trung
tín với
giao ước
bất chấp
những
thử
thách.
Họ không
chỉ là
những
người mà
nói theo
tục ngữ
Việt Nam
là “ở
hiền gặp
lành”.
Khi
người Do
Thái bị
lưu đày
hơn 60
năm ở
Babylon,
rất
nhiều
tín hữu
mất niềm
tin
trong
tâm
trạng
tuyệt
vọng
hoàn
toàn. Họ
mất quê
hương,
mất đền
thánh
Jerusalem,
mất ḥm
bia, mất
chính
quyền,
mất quân
đội và
mất tất
cả. Họ
bỏ giao
ước v́
nghĩ
rằng
chính
Thiên
Chúa đă
bỏ họ.
Chỉ có
một
thiểu số
giữ vững
niềm tin
và tiếp
tục duy
tŕ giao
ước.
Trong
Kinh
Thánh họ
được gọi
là
‘Anawim’
mà có
thể gọi
nôm na
là ‘tàn
dư c̣n
sống
sót’
[danh từ
này rất
phổ
thông
trong
những
năm sau
ngày 30
tháng 4
năm
1975;
chính
quyền
cộng sản
dùng để
miệt thị
những ai
dính líu
tới chế
độ cũ.]
Chính từ
những
‘tàn dư’
này hay
h́nh ảnh
‘gốc
chồi
Jesse’
mà Thiên
Chúa đă
tái tạo
một Do
Thái mới
sau khi
họ trở
về đất
hứa. Họ
là những
người
sống
theo sự
công
chính
của giao
ước. Họ
là những
người
trung
tín với
đường
lối
Thiên
Chúa
ngay cả
khi lộ
tŕnh
này
tưởng
như chỉ
dẫn đến
sự thất
bại, tủi
nhục và
tuyệt
vọng.
Maria là
nữ t́
hèn mọn
theo
bước
chân của
những
‘tàn dư’
trung
tín. Đức
Thánh
Cha
Gioan
Phaolo
II đă
viết là
“Anawim
không
phải một
giai cấp
xă hội
mà là
một sự
chọn lựa
của kẻ
công
chính.”
Họ chọn
con
đường
công lư
và sự
thật mặc
dù bị
thiệt
tḥi và
bắt bớ.
Họ trung
kiên
theo
giao ước
dù bị kẻ
có quyền
bính ức
hiếp.
Như thế
kẻ ‘tàn
dư’
trung
tín cũng
là những
ai sống
tám mối
phúc
thật.
Maria
đầy ơn
phúc v́
Ngài là
người
nghèo
khó,
người
hiền
lành,
người có
ḷng
thương
xót,
người
khóc lóc
và khao
khát
chân
lư...
Maria
đầy ơn
phúc v́
Bà trung
kiên
bước
theo con
đường
của
người
Tôi Tớ
Đau Khổ
của
Thiên
Chúa.
Đức
Gioan
Phaolô
II kết
luận là
“Bài
ngợi ca
Magnificat
đă nói
lên vai
tṛ của
Mẹ trong
cuộc
chiến
chống
lại sự
dữ và tà
quyền.”
Mẹ là
người
đồng
hành và
liên đới
với tất
cả những
ai đứng
về phía
công lư
và sự
thật.
Chúa giơ
tay biểu
dương
sức
mạnh,
dẹp tan
phường
ḷng trí
kiêu
căng.
Chúa hạ
bệ những
ai quyền
thế,
Người
nâng cao
mọi kẻ
khiêm
nhường.
Kẻ đói
nghèo,
Chúa ban
của đầy
dư,
người
giàu có,
lại đuổi
về tay
trắng.
(Lc
1:51-53)
Những
lời này
cho
chúng ta
thấy
Thiên
Chúa
luôn
đứng về
phía
‘anawim’
của
Ngài,
tức là
những
người dù
thiểu số
và yếu
hèn
nhưng
luôn
kiên
cường
trong
công lư
và sự
thật.
Ngài sẽ
chiến
thắng
trên
những kẻ
gian tà
và phục
hồi danh
dự những
‘anawim’
của
Ngài.
Thiên
Chúa đă
thực
hiện
chiến
thắng
này nơi
Đức
Kitô,
“phiến
đá mà
người
thợ xây
loại bỏ
đă trở
nên tảng
đá góc
tường”.
Ngài đă
thực
hiện nơi
Maria nữ
t́ hèn
mọn cũng
như tất
cả những
‘anawim’
trung
tín của
Ngài.
Quư vị
thân
mến,
Đức Mẹ
La Vang
đă đi
vào tâm
hồn của
người
Công
Giáo
Việt Nam
và Ngài
cũng đă
đi vào
ḷng dân
tộc
chúng ta.
Dù không
phải như
là người
Ba Lan
đă gắn
bó với
thánh
địa Minh
Sơn như
là linh
hồn của
cả dân
tộc,
người
Việt
Công
Giáo ở
khắp mọi
nơi
hướng về
Mẹ La
Vang như
là người
đồng
hành
trong
thăng
trầm của
lịch sử
và là
đấng phù
hộ trong
cơn thử
thách.
Ḷng
sùng
kính Đức
Mẹ không
chỉ đưa
chúng ta
tới
những
hành
động
thuần
túy tôn
giáo và
lễ nghi
như đi
hành
hương,
dâng hoa,
rước
kiệu,
cung
nghinh
v.v...
Với bổn
phận
‘nhập
thể hóa’
Tin Mừng
và ‘Kitô
hóa’ môi
trường,
ḷng
sùng
kính Đức
Mẹ cũng
như ḷng
yêu mến
Chúa
thôi
thúc
chúng ta
t́m cuộc
sống
sung măn
cho tha
nhân.
Chính v́
thế,
chúng ta
không
thể chỉ
đến với
Mẹ qua
những
hành
động
thuần
túy tôn
giáo mà
không
noi
gương
đấng là
‘anawim’
của
Thiên
Chúa.
Maria là
người lữ
hành
trong
đức tin
và là nữ
t́ trung
tín của
triều
đại
chính
trực.
Ḷng
sùng
kính Mẹ
thách
thức
chúng ta
cũng
phải làm
đầy tớ
và là
chiến sĩ
của công
lư và sự
thật
trong
cuộc
chiến
muôn
thuở
chống
lại sự
dữ và tà
quyền.
Vào ngày
15 tháng
8 tới
đây,
theo như
tin tức
của Hội
Đồng
Giám Mục
Việt Nam
th́ sẽ
có nghi
lễ đặt
viên đá
đầu tiên
để xây
Vương
Cung
Thánh
Đường
tại La
Vang.
Đây là
một biến
cố quan
trọng
thể hiện
ḷng
sùng
kính Mẹ
và là
một biểu
hiện đặc
thù của
đức tin
Công
Giáo
Việt
Nam.
Nhưng
tôi nghĩ
rằng
chúng ta
không
dừng lại
ở một
h́nh
thức bên
ngoài và
nhất là
tạo nên
một biến
cố để
trang
điểm cho
chế độ.
Nếu Kitô
giáo mà
mất vai
tṛ ngôn
sứ th́
nó bị
thuần
hóa và
trở
thành
công cụ
của chế
độ. Lúc
đó,
chúng ta
không
c̣n là
tiếng
kêu
trong
hoang
địa nữa
mà sẽ là
tiếng
chũm
chọe kêu
inh ỏi
(1Cor
13:1);
lúc đó
chúng ta
sẽ như
muối
không
c̣n mặn
nữa mà
chỉ c̣n
chờ ném
ra ngoài
đường
cho
người ta
đạp lên
nó (Mat
5:13).
Nói tóm
lại,
ḷng
sùng
kính Đức
Mẹ La
Vang
không
thể tách
ĺa với
bổn phận
xây dựng
một xă
hội theo
giá trị
của Phúc
Âm. Sứ
mạng của
Đức Kitô
là đem
sự sống
sung măn
cho con
người.
Người
Kitô hữu
chúng ta
không
thể chỉ
dừng lại
trong
những
hành
động tôn
giáo mà
không
kiếm t́m
sự sung
măn của
đồng
loại và
nhất là
của đồng
bào. Như
Mẹ Maria
là nữ t́
trung
tín, xin
cho mọi
người
Công
Giáo
Việt Nam
trong và
ngoài
nước
cũng trở
nên đầy
tớ của
Tin
Mừng,
của công
lư, của
sự thật
trong
cuộc
chiến
chống
lại sự
dữ và tà
quyền.
Tôi xin
phỏng
theo lời
của Đức
Cố Giáo
Hoàng
Gioan
Phaolo
II để
kết thúc
buổi
chia sẻ
hôm nay:
Xin Mẹ
La Vang
toàn
thắng
nơi quê
hương
chúng
ta.
Xin Mẹ
toàn
thắng
ngay cả
qua
những
đau khổ
và
thất
bại
của
chúng
ta.
Xin Mẹ
cho
chúng
ta đừng
nản
lòng
tranh
đấu cho
công lý
và sự
thật,
cho tự
do và
nhân
phẩm
của con
người.
Xin Mẹ
đem lại
chiến
thắng
của ánh
sáng
trên tối
tăm, sự
lành
trên sự
dữ,
chí nhân
trên
cường
bạo và
đại
nghĩa
trên
hung
tàn.
Cùng
Mẹ La
Vang,
chúng ta
hăy tiến
bước về
tương
lai tươi
sáng cho
dân tộc
và cho
đất
nước.
+Vinh
sơn
Nguyễn
văn Long
OFMConv,
Giám mục
Hiệu ṭa
Tala và
Giám mục
Phụ tá
TGP
Melbourne,
Australia.