Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Sống vì Nước -
Chết cho Dân

Tưởng Niệm Chí
sĩ Ngô Đình Diệm tại hải ngoại
NỖI LÒNG
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách, thuở nào trong ?
( Chí sĩ ) NGÔ ĐÌNH DIỆM 1953
Bài
đọc suy gẫm: Nhân
ngày 2 tháng 11 kỷ niệm hàng năm ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm
bị sát hại, nhóm chủ trương Blog hân hạnh đăng bài phát biểu
trong lễ giỗ Tổng Thống lần thứ 48 tại San Jose, Bắc
California. Bài này trả lời về những luận cứ xuyên tạc trước
đây, đồng thời đưa ra nhiều điểm son tốt của nền Đệ Nhất Cộng
Hòa đối với đồng bào và đất nước. Hình ảnh chỉ có tính minh
họa.
***
THANH HÙNG
Kính thưa Quý vị quan khách
Kính thưa toàn thể quý vị.
Thưa các bạn trẻ thân mến.
Trước hết tôi xin cám ơn ông
Nguyễn Ngọc Tiên, chủ tịch Ban Đại Diện CĐVNBC cũng như ban tổ
chức cho phép tôi được chia sẻ vài lời khiêm tốn trong buổi lễ
tưởng niệm cố Tổng Thống (T.Th.) Ngô Đình Diệm cùng toàn thể các
chiến sĩ đã bỏ mình vì lý tưởng dành độc lập và tự do cho dân
tộc Việt Nam chúng ta.
Kính thưa tòan thể quý vị.
Như quý vị
đã biết: Biến cố đau thương ngày 1-11-1963 đã được rất nhiều
sách báo, tài liệu, phim ảnh, nhất là trong khỏang thời gian hơn
20 năm qua, chính phủ Hoa Kỳ đã giải mật rất nhiều, nên chúng ta
đều đã biết rõ. Tuy nhiên có một điều hầu như chúng ta lãng quên
hay không để ý, đó là ngay sau khi Đại sứ Cabot Lodge trình Ủy
Nhiệm Thư lên T. Th. Ngô Đình Diệm, ông ta liền đến gặp khâm sứ
Tòa Thánh Vatican tại Saigòn, để nhờ vị khâm sứ này làm trung
gian nói với Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục bốn đề nghị của chính
quyền Kenedy như sau:
1.- T.Th. Ngô
Đình Diệm nhường hải cảng Cam-Ranh cho Hoa Kỳ 99 năm.
2.- T.Th. Ngô
Đình Diệm chấp thuận cho Hoa Kỳ đưa 200.000 quân bộ binh vào Nam
Việt-Nam.
3.- T.Th. Ngô
Đình Diệm đặt Bộ Quốc Phòng của VNCH dưới quyền chỉ huy của quân
đội Hoa Kỳ.
4.- T.Th. Ngô
Đình Diệm đưa ông cố vấn Ngô Đình Nhu đi nước ngoài.
Khi
nghe Ông Lodge đề nghị bốn điểm trên đây, vị khâm sứ mỉm cười và
thầm nghĩ: Không khi nào T.Th. Ngô Đình Diệm chấp nhận những đề
nghị này, nên vị khâm sứ liền thăm dò bằng cách nhờ Đức Giám Mục
(ĐGM) Hoàng Văn Đòan đang coi sóc giáo phận Qui-Nhơn, vị giám
mục này vừa thân với khâm sứ, lại thân với Đức Tổng Giám Mục (ĐTGM)
Ngô Đình Thục, đến để trình bày với ĐTGM Ngô-Đình-Thục xem sự
thể như thến nào. Sau khi nghe ĐGM Hoàng Văn Đoàn trình bày,
ĐTGM Ngô-Đình-Thục liền trả lời:
1.- Chính
Phủ VNCH do em tôi lãnh đạo, và ngay cả toàn dân Việt-Nam không
được phép bán một mẩu đất nào trên lãnh thổ Việt-Nam cho ngoại
bang. Vì đây là đất của TỔ QUỐC, là đất đã từng thấm nhuần mồ
hôi, nước mắt ngay cả máu xương của ông cha chúng ta cùng các
chiến sĩ đã từng đổ ra để chúng ta có được giang sơn gấm vóc như
ngày nay.
2.- Nếu
chúng ta chấp nhận cho Hoa Kỳ đem quân vào miền Nam Việt-Nam,
Việt Cộng có cớ để tuyên truyền là họ phải mở rộng chiến tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Như thế chúng ta sẽ mất chính nghĩa
rồi chúng ta sẽ thua, mà hiện nay chúng ta đang thắng.
3.- Đất
nước chúng ta, dân tộc chúng ta, chúng ta phải tự quyết định,
phải tự đương đầu với phương Bắc. Chúng ta không cúi đầu làm tay
sai cho một thế lực nào.
4.- Khi
Tổng Thống Kenedy bước vào nhà trắng, ông ta cũng tìm cách đưa
em ruột ông ta là Robert Kenedy vào nội các của ông ta qua chức
vụ Bộ Trưởng Tư Pháp.
Vịnh Cam Ranh,
hải cảng tiện lợi và quan trọng nhất cho tàu bè tại Đông Nam Á


Vịnh Cam Ranh
nhìn từ trời, hình dưới Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ , ông Leon
Panetta thăm cảng Cam Ranh trong năm 2012

Sau đó,
ĐGM Hoàng Văn Đoàn vào Sàigòn trình bày cho vị khâm sứ Tòa Thánh
Vatican biết sự thể. Dĩ nhiên vị khâm sứ thông báo cho ông Cabot
Lodge. Vì thế cuộc chính biến đau thương ngày 1-11-1963 đã xẩy
ra do vị Tổng Thống siêu cường bậc nhất thế giới là John Kenedy
Jr., nhưng ông ta thiếu bản lãnh, nhu nhược không dám quyết,
phải dùng trò ném đá giấu tay, là để cho người phụ tá của ông ta
là Harriman, (một người từng có sẵn ác cảm với T.Th. Ngô Đình
Diệm về chính sách Trung Lập ở Lào rất có lợi cho Việt Cộng) gửi
điện văn cho ông Lodge để quyết định số phận của Đệ I Cộng Hòa
VN nói chung, và số phận gia đình Ngô Đình nói riêng.
Đến đây,
chắc một vài bạn trẻ thắc mắc: Tại sao ông Lodge không nói thẳng
với T.Th. Ngô Đình Diệm mà lại nói với vị khâm sứ Tòa Thánh
Vatican . Rồi vị khâm sứ này sao không nói thẳng với T.Th. Ngô
Đình Diệm mà lại nói với ĐTGM Ngô-Đình-Thục làm gì?
Xin thưa:
- Nếu ông
Lodge nói thẳng bốn điều kiện trên với T.Th. Ngô Đình Diệm, Tổng
Thống sẽ bác hết ngay tức khắc.
- Khâm sứ
Tòa Thánh Vatican bấy giờ là trưởng ngoại giao đoàn tại Sàigòn.
Hơn nữa, uy tín và ảnh hưởng của Vatican rất lớn đối với T.Th.
Ngô Đình Diệm.
- Ông
Lodge biết rằng: TGM Ngô-Đình-Thục rất ảnh hưởng trên T.Th. Ngô
Đình Diệm.
Vì ông
Lodge quá biết: T.Th. Ngô Đình Diệm là con chiên rất ngoan đạo.
Thêm vào đó, dù là tín hữu Công Giáo, nhưng T. Th. Ngô Đình Diệm
rất nặng về luân lý Khổng Mạnh. Cho nên Ông Lodge đến gặp khâm
sứ Tòa Thánh Vatican nhờ vị này nói với ĐTGM Ngô Đình Thục. Đó
là con đường ngoại giao ông ta cần thăm dò trước…
Kể từ năm
1962, Hoa Kỳ không còn ủng hộ T.Th. Ngô Đình Diệm nữa vì Tổng
Thống luôn nắm chủ quyền quốc gia trong tay, không chịu khuất
phục trước mọi áp lực của Hoa Kỳ, nên CIA cùng Việt Cộng phối
hợp với nhau mở chiến dịch tuyên truyền rằng: Chính phủ Ngô Đình
Diệm là chính phủ gia đình trị, độc tài, kỳ thị tôn giáo, đàn áp
Phật giáo. v. v.. !!?
I.- Gia ĐìnhTrị:
1.- Để
chứng tỏ T.Th. Ngô Đình Diệm gia đình trị hay không?
Chúng ta nghe ông Ngô Đình Nhu trả lời bọn sinh viên Việt Cộng
năm 1960 tại Paris như sau:
- Như ông
bạn anh vừa hỏi tôi: Chính phủ Ngô Đình Diệm là chính phủ gia
đình trị?
Giả thử
anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước năm 1954, khi thực dân
Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ
chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục nhiều phiến quân có
thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước
cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm
tiêu diệt anh, nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có
nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí
hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên
là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh
không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?…
Khi được
tin hai anh em T.Th. Ngô Đình Diệm bị thảm sát, Tổng Thống Trung
Hoa Quốc Gia Tưởng Giới Thạch đã thốt lên: ”Cả 100 năm nữa
Việt-Nam mới có Ngô Đình Diệm thứ hai. Biết đến bao giờ Việt-Nam
mới sản sinh ra được Ngô Đình Nhu thứ hai! Ông ta là Khổng Minh
của Việt-Nam”.
2.- Ông Bà Ngô
Đình Nhu lộng quyền:
Ngoài
những tuyên truyền vu khống, bọn CIA cùng Việt Cộng còn vu
khống: ”Vợ chồng Nhu lộng hành, hắn nắm toàn quyền, Ngô Đình
Diệm chỉ là bù nhìn”.
Chúng ta
nghe qua hai mẩu chuyện nhỏ sau đây:
a.- Ông Ngô Đình
Nhu
* Khoảng
gần cuối năm 1961, ông Ngô Đình Nhu mang hồ sơ vào trình Tổng
Thống việc gì đó, Tổng Thống mới đọc được chừng hai trang, Tổng
Thống nổi nóng quẳng tập hồ sơ xuống đất, quát:
-Làm ăn thế này à ?
Trung Úy Lê Châu Lộc nghe thấy vội quay lại, cúi xuống nhặt tập
hô sơ lên.
Tổng Thống gắt:
-Không phải việc của
mi. Để cho nó làm.
Ông Ngô Đình Nhu nhặt lên rồi chưa kịp bước ra. Tổng Thống quát
tiếp:
- Còn đứng đó làm gì.
Đem về làm lại.
* Trong cuộc hội luận giữa Giáo Sư Tôn Thất Thiện, cựu Bộ Trưởng
Nội Vụ Lâm Lễ Trinh và cựu Nghị Sĩ Lê Châu Lộc trên đài SBTN.
Giáo Sư Tôn Thất Thiện nói:
- Nhiều lúc ông Nhu bực ông Cụ (Tổng Thống) lắm, nhưng không dám
nói. Nhiều lần ông Nhu nói với tôi: “Các ông đối lập đi!
Tôi sẽ đứng về phía các ông.Tôi bực chính phủ này lắm rồi”.
b.- Bà
Ngô Đình Nhu:
* Có lần bà Ngô Đình Nhu vào trình Tổng Thống việc gì đó. Vì
thấy cửa phòng của Tổng Thống đang mở sẵn, bà ta bước vào. Tổng
Thống ném cái gạt tàn thuốc vào bà ta rồi quát:
-Mụ vào sao không báo
trước. Đi ra !
Bà Nhu vừa bước ra vừa khóc.
* Năm 1962, phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ do Phó Tổng Thống Lyndon
B. Johnson đại diện Tổng Thống John Kenedy, cầm đầu sang thăm
Việt-Nam. Phái đoàn đến dinh Gia Long chào thăm Tổng Thống VNCH
Ngô Đình Diệm.
Đến chiều, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ thăm
đáp lễ phái đoàn. Theo sau là bà Ngô Đình Nhu cũng được đi.
Trong khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đàm luận,
bà Nhu tiếp chuyện bà Lyndon Johnson và các bà khác.
Khi ra về, xe của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đi trước, bà Nhu liền
theo sau. Sĩ quan nghi lễ phủ Tổng Thống chặn xe của bà Nhu lại
nói:
- Xin bà Cố Vấn chậm lại vài phút.
Bà Nhu cự nự:
- Tại sao không cho tôi về. Tôi được phép tháp tùng Tổng Thống
mà.
Sĩ quan nghi lễ giải thích:
- Thưa bà Cố Vấn, chúng tôi biết, nhưng bà không phải vợ của
Tổng Thống, nên theo nghi lễ, bà Cố Vấn phải về sau Tổng Thống
ít nhất là 5 phút. Chúng tôi chỉ thi hành theo nghi lễ.
Khi về đến dinh Gia Long, bà Nhu oà lên khóc và mách chồng. Ông
Nhu rất thương vợ, nhưng lại rất sợ ông anh (Tổng Thống) vừa khó
tính vừa nóng như lửa, nên chẳng biết làm gì an ủi vợ chỉ nói:
”Bỏ qua cho vui vẻ” rồi mồi thuốc hút. Thấy vậy bà Nhu càng tức
thêm liền sang trình Tổng Thống, vừa khóc vừa nói:
- Lúc ra về, sĩ quan nghi lễ của Tổng Thống làm nhục em.
Tổng Thống liền cho gọi sĩ quan tùy viên và nghi lễ lên hỏi. Sau
khi được họ trình bày mạch lạc, Tổng Thống nói:
- Chuyện có đáng gì
đâu. Thôi! Thím về nghỉ.
Đến tối, Tổng Thống sang phòng ông bà Ngô Đình Nhu cười nói:
- Chúng nó nói đúng.
Thôi! Bỏ qua.
Bà Nhu và con gái Ngô
Đình Lệ Thủy.


*Về phần bà Ngô
Đình Nhu: Đệ Nhất Phu Nhân KHÔNG ngai!!??
Như chúng
ta đã biết: Trong suốt chín năm dưới thời Đệ I Cộng Hòa, bà Nhu
đã làm được việc gì giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại Cộng
Sản và xây dựng miền Nam Việt-Nam.Bà đã nhận được đặc ân nào do
Tổng Thốg ban, ngoại trừ 6.000 đồng Việt Nam bà ta xin Tổng
Thống để mua nữ trang đeo khi bà phải tiếp phu nhân Phó TT
Lyndon Johnson vào năm 1962 hay ngoại giao đoàn khi bà đón tiếp.
Nhưng CIA cùng Việt Cộng tuyên truyền bà Nhu tham nhũng và kinh
tài giàu nhất Nam Việt-Nam thời đó. Họ cũng không tiếc lời
nguyền rủa bà Nhu là con đàn bà lăng loàn. Độc ác thay! Họ còn
bịa chuyện Tổng Thống và bà Nhu ”ăn nằm” với nhau. Vì thế ngay
sau khi Tổng Thống bị thảm sát, những sĩ quan qùy viên của ngài
như: Đại Úy Lê Công Hoàn, Đại Úy Nguyễn Cửu Đắc… bị nhiều nhân
viên thân tín của Tướng Dương Văn Minh thẩm vấn gắt gao về
chuyện ”hoang tưởng’‘ này, đến nỗi những sĩ quan này phải
ký giấy xác nhận ”chuyện đó” hoàn toàn không có. Nói đến
đây chúng tôi sực nhớ lại lời một thượng sĩ quân cảnh (xin được
giấu tên, hiện đang sống tại Úc) nói: ”Khi xác Tổng Thống được
đem xuống căn phòng sau Bộ Tổng Tham Mưu, tôi thấy rất rõ: ‘‘Trung
Tướng Dương Văn Minh cởi… (không dám nói ra) để xem… của Tổng
Thống”.
Thế rồi
khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu [bị thiêu], bà
Nhu đã biết chắc chắn trước rằng: đây là hành động CIA cùng Việt
Cộng chủ động ”bi kịch” này, nên bà ta đã tuyên bố đây là hành
động ”nướng sư”. Sự việc này gây bất mãn rất nhiều người và gây
bất lợi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc đó. Nhưng lời tuyên bố
đó của bà Nhu đến nay đã thành sự thực.

Hình ảnh
bọn Cộng Sản thâm độc đứng đầu là Nguyễn Công Hoan, trước
khi tưới xăng đốt sống Hoà Thượng Thích Quảng Đức, bọn chúng có
thể đã tiêm thuốc làm tê cứng các gân cốt H.T., nên khi ngọn lửa
bốc lên bao trùm ông ta như ngọn hỏa diệm sơn, H.T. vẫn ngồi như
không có chuyện gì xẩy ra, cho đến lúc lửa gần tàn, H.T. ngả
người xuống trong tư thế ngồi như ban đầu. Tiếc thay, ít người
biết được khúc phim này trước kia đã bị CIA cắt bớt, nhưng nay
mới được giải mật đầy đủ. Hiện nay khúc phim này được đưa lên
nhiều websites.
Từ ngày
chế độ Đệ I Cộng Hòa sụp đổ cho đến ngày 24-4-2011, ngày bà Nhu
qua đời, bà ta đã sống như thế nào và cuộc sống của bà ta ra sao
chắc quý vị đều biết rõ, mặc dầu bà ta rất ảnh huởng Tây phương.
Nhiều
người mong chờ quyển hồi ký của bà Ngô Đình Nhu do LS Trương Phú
Thứ sẽ phát hành trong nay mai, sẽ tiết lộ nhiều điều bí ẩn và
khúc mắc dưới thời Đệ I Cộng Hòa. Nhưng có người lại lập luận
rằng: ”Những điều mong đợi đó sẽ không có trong quyển hồi ký của
bà Nhu đâu, vì sau 48 năm lưu vong với tràn đầy khổ lụy, nhưng
bà lại sống một cuộc sống can đảm chịu đựng, hy sinh như chúng
ta đã thấy, vì thế bà Nhu sẽ viết dưới một góc cạnh khác”. Chúng
ta hãy chờ xem.
3.- Ông Ngô Đình
Cẩn
Trường hợp
ông Ngô Đình Cẩn, chúng ta nên đọc qua mấy hàng sau đây:
”Trần Quốc Hương tự Mười Hương, người
chỉ huy Tình Báo Chiến Lược của Hà-Nội tại miền Nam và hai nước
Miên, Lào. Ông ta bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt của ông Ngô Đình Cẩn
bắt năm 1958. Sau khi chế độ Đệ I VNCH bị những tướng tá đánh
thuê cho Hoa Kỳ lật đổ, và do sự móc nối của Thiếu tá Việt Cộng
Dương Văn Nhật (em ruột Dương Văn Minh) móc nối, Mười Hương được
Hà-Nội qua trung gian tướng Mai Hữu Xuân và trả cho hai tướng
Minh – Xuân 50.000 dollars (theo tài liệu của VC là 5.000.000$
VN), nên Mười Hương được trả về Hà-Nội. Tiếp theo là các cán bộ
tình báo, điệp viên cao cấp của Việt Cộng đều được Hà-Nội bỏ
tiền ra chuộc, nhất là khi ông Hà Thúc Ký giữ chức Bộ Trưởng Nội
Vụ, ông thả hàng loạt các cán bộ trên. Sau khi được thả, người
được Hà-Nội gọi ra Bắc, người rút vào mật khu hoạt động tiếp.”
Trong loạt
bài viết về Mười Hương, dưới nhan đề ”Tướng Tình Báo Chiến Lược”
đăng trên tờ Thanh Niên, số 300 ra ngày 26-11-2002 đăng
lời ông Mười Hương nói về ông Ngô Đình Cẩn như sau: ”Những
năm 1960, tôi đã từng có cảm giác cô đơn lạnh lùng khi phong
trào đi xuống. Thế nhưng hồi ấy cũng không đen tối bằng những
năm 1957-1959 sau này… ”.
Ông bảo:“Chúng ta chê thằng Cẩn rằng nó đi guốc mộc, miệng
nhai trầu bỏm bẻm…chê như vậy không đúng đâu. Thằng Cẩn nó giỏi
lắm, cao trí lắm. Nó biết hết đường đi nước bước của chúng tả.
Theo sự
tiết lộ của ông Văn Tiến Dũng, đại tướng Việt Cộng trong
quyển Đại Thắng Mùa Xuân thì 95% nhân viên và cơ sở nằm vùng của
Việt Cộng tại miền Nam đã bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt của ông Ngô
Đình Cẩn bắt giữ. Chỉ từ tháng Bẩy năm 1955 đến tháng Hai năm
1956 Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã bắt giữ 93.362 đảng viên và cán
bộ nằm vùng để lại. Lê Duẫn phải bỏ chạy ra Bắc. Hai tên trùm
điệp báo và quân báo là Mười Hương và Lê Câu bị tóm gọn, các cơ
sở từ Quảng Trị đến Cà Mâu bị phá vỡ. v. v…
Theo như
cụ Quách Tòng Đức, cựu Đổng
Lý Văn Phòng cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm suốt chín năm, năm nay
cụ đã 94 tuổi cho biết: Mặc
dầu là cố vấn phủ Tổng Thống hay cố vấn chỉ đạo miền Trung, hai
vị này chẳng có một văn thư nào do Tổng Thống ký ban hành cả,
nhất là ông Ngô Đình Cẩn, không có lương, không có văn phòng
riêng. Hai ông hầu như không bao giờ tháp tùng Tổng Thống đi
kinh lý hay xuất hiện bên cạnh Tổng Thống trong những dịp lễ
lớn; hai ông rất ít xuất hiện trước công chúng hoặc huênh hoang
nơi này nơi khác. Riêng ông Ngô Đình Cẩn luôn mặc quần áo bà ba,
đầu đội khăn xếp. Thỉnh thoảng phải đi đâu xa, ông ta dùng xe
Jeep quân đội; không bao giờ dùng xe hơi sang trọng.
Cụ Ngô Đình
Cẩn trước khi bị bắn có yêu cầu: Khỏi cần bịt mắt, để tôi được
nhìn quê hương lần chót.
Hình bên, ông đang cầu nguyện với 1
vị linh mục.

Riêng về
phần Tổng Thống, khi bị thảm sát, trong túi áo của Tổng Thống
chỉ còn nửa bao thuốc Basto và cỗ tràng hạt. Suốt chín năm
lãnh đạo miền Nam VN, Tổng Thống dành dụm được 2.800.000$
Việt-Nam. Tổng Thống gửi linh mục Nguyễn Văn Toán dòng Chúa
Cứu Thế. Ước nguyện của Tổng Thống vào những năm tháng cuối đời,
Tổng Thống sẽ vào ẩn mình trong tu viện này để dọn mình chết.
Khi biết
chính xác Tổng Thống không còn nữa, linh mục Nguyễn Văn Toán vội
vàng đem 2.800.000$ VN nộp cho Dương Văn Minh ngay. Ngoài số
tiền trên, Tổng Thống không có mái nhà riêng, dù chỉ một túp lều
hoặc một chiếc xe đạp cũ.
Còn ông
Ngô Đình Nhu, vào những năm sau này, các bạn thân của ông ta
như: ông Cao Xuân Vỹ và các bạn hồi còn ở Pháp gom tiền mua tặng
ông bà Ngô Đình Nhu một căn nhà nhỏ hai tầng ở Đà-Lạt. Vì là
nhà cũ nên cần sửa chữa. Đang sửa lại hết tiền nên phải ngừng
lại. Thế rồi biến cố 1-11-1963 ập đến căn nhà đó thuộc
đám tướng tá đánh thuêcho Hoa Kỳ.

Nhà Thờ Cha
Tam trong Chợ Lớn, chiếc ghế nơi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Bào
Đệ Ngô Đình Nhu quì tham dự Thánh Lễ cuối cùng trước khi tự nộp
mình. Hình bởi PV. Guy Dalmazzo.

4.- Kỹ sư Ngô
Đinh Luyện.
Ông Luyện
từng là bạn học rất thân và rất lâu với cựu Hoàng Bảo Đại tại
Pháp. Ông Luyện du học và sống ở Pháp rất lâu, nên ông ta quen
biết rất nhiều các chính khách bên Châu Âu. Ông Luyện lại có
năng khiếu về ngoại giao. Dưới thời Đệ I Cộng Hòa ông Luyện là
Đại Sứ VNCH tại Luân Đôn.
Khoảng
tháng 8 năm 1963, ông Luyện được T. Th. Ngô Đình Diệm cử sang
Vatican yết kiến Đức Giáo Hoàng Phao Lô VI để trình bày sự thật
về biến cố Phật giáo. Nhưng tiếc thay! Tòa Thánh Vatican lúc ấy
phần cũng bị báo cáo thiếu trung thực, phần lại bị chính quyền
Kenedy qua tay Cabot Lodge mưu lược rào cản, nên ông Luyện không
được GH Phao Lô VI tiếp kiến. Thế rồi khi biến cố 1-11-1963 xẩy
ra, lúc ấy Vatican rất hối tiếc nhưng đã quá muộn.
Còn về
cuộc sống của ông Luyện và gia đình ông ta như thế nào sau ngày
1-11-1963, chắc quý vị đã biết rõ, nhất là những vị nào đã đọc
quyển: ”Nhớ Lại Những Ngày Ở Bên Cạnh Tổng Thống Ngô Đình
Diệm” của Cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ.
Với những
người như thế, tại sao T. Th. Ngô Đình Diệm lại không dùng?
II.- Chế độ độc
tài:
Khi chấp
nhận lời mời của Quốc Trưởng Bảo Đại về nước lập chính phủ, Ông
Ngô Đình Diệm đã mời một số chính khách hay bạn rất thân vào nội
các, điển hình như Bác sĩ H. vào chức Bộ Trưởng Nội Vụ. Nhưng BS
này đòi chức Tổng Trưởng Quốc Phòng. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
không thể thỏa mãn đòi hỏi này, nên BS H. bất mãn quay ra chống
đối. Như quý vị quá biết, vào thời gian đầu về nước lập chính
phủ, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm gặp quá nhiều khó khăn, nên ngoài
cương vị Thủ Tướng, Ông Ngô Đình Diệm phải kiêm luôn chức Tổng
Trưởng Quốc Phòng và Bộ Trưởng Nội Vụ mới đương đầu với tình thế
lúc đó.
Sau ngày
1-11-1963, BS H. đã được cất nhắc lên chức Đệ I Phó Thủ Tướng.
Nhưng chỉ vài tháng sau BS Đệ I Phó Thủ Tướng này cũng chạy có
cờ.
Ngoài ra,
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cũng mời rất nhiều người nữa như: KS.
S., BS. Đ., LS. Th., ngay cả thầy giáo H. v.v. vào nội các.
Nhưng những vị này thấy thực dân Pháp lúc đó còn tiếp tục khuyến
khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm
trợ, xúi giục nhiều phiến quân có thành tích bất hảo như thổ phỉ
đánh phá quân đội quốc gia, nhất là phiến loạn Bình Xuyên hăm
dọa, nên các vị này sợ quá xin từ chức, mặc dầu Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm tốn biết bao thời giờ công sức để thuyết phục họ ở
lại, nhưng không kết quả.
Thế rồi
sau năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định tình thế và
thống nhất quân đội, các vị trên không được trọng dụng nữa nên
bất mãn.
Tưởng cũng
nên nhắc lại, sau ngày 1-11-1963, tất cả các vị này cùng các
tướng tá thay nhau trên chính trường miền Nam Việt-Nam, nhưng họ
đã làm được gì? Nhất là họ đã ngồi trên ghế được mấy tháng? Thậm
chí BS Q. một con bài rất được lòng Hoa Kỳ, họ đã từng ép T.T.
Ngô Đình Diệm phải trao cho BS. Q. chức Thủ Tướng, nhưng T.T.
Ngô Đình Diệm không chịu. Thế rồi vào khoảng giữa năm 1965, vị
BS. Q. này đã được giữ chức Thủ Tướng miền Nam Việt-Nam, nhưng
chỉ khoảng ba tháng sau, ông ta lại vội từ chức và trả lại cho
quân đội.
Tưởng cũng
nên nhắc lại, trong khoảng thời gian BS. Q. giữ chức Thủ Tướng,
Hoa Kỳ đã ngang nhiên đưa Thủy Quân Lục Chiến của họ vào miền
Nam Việt Nam mà không cần sự chấp thuận của chính quyền miền Nam
Việt-Nam.
Qua những
sự kiện như trên, chúng ta có thể kết luận T.Th. Ngô Đình Diệm
là nhà độc tài không? Hay nói theo sử gia Hoàng Ngọc Thành:
”Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền mạnh… hay chính quyền
chuyên chế độc tài nửa vời”.
III.- Kỳ thị tôn
giáo.
1.-
Phật giáo
a- Chùa
Xá Lợi
Hình
chùa Xá Lợi
Ngay từ
những năm đầu của chế độ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã áp dụng
một chính sách đặc biệt đối với Phật giáo. Tại Sàigòn Tổng Thống
thường giúp đỡ tài chánh khích lệ Hội Phật học do cư sĩ Mai Thọ
Truyền làm Hội Trưởng, đặc biệt là xây chùa Xá Lợi với mục đích
duy nhất là dùng làm nơi nghiên cứu, học hỏi giáo lý, mở rộng
kiến thức, củng cố niềm tin nơi tín đồ Phật giáo. Chùa Xá Lợi
được xây cất năm 1958 với kinh phí 2.000.000$ Việt-Nam được
trích ra từ quỹ Xã Hội của Phủ Tổng Thống và trao cho ông Mai
Thọ Truyền chủ trì việc xây cất với mục đích phát triển và
kiện toàn tổ chức Phật giáo.
b. Chuà
VĨNH NGHIÊM
Khoảng
năm 1959-1960, Thượng tọa Thích
Tâm Giác và bà Đức Âm xin mua đất xây Chùa. Khu đất này thuộc Bộ
tài chánh, nhưng Bộ tài chánh không dám quyết định. Khi trình
lên Tổng Thống, Tổng Thống nói: ”Làm chùa thì cho ngay đi!”.
Sau đó họ
mua được khu đất hơn một mẫu tây sát đầu cầu Công Lý với giá
tượng trưng 1$ Việt-Nam. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị
thảm sát, ngôi chùa này được xây mang tên Vĩnh Nghiêm.

Chùa
Vĩnh Nghiêm và chùa Từ Đàm -Huế (dưới)

c- Chùa
Từ Đàm
Riêng chùa
Từ Đàm do Thích Trí Quang trụ trì, ông Ngô Đình Cẩn giúp đỡ đặc
biệt, nhất là phương diện tài chính, vật liệu, dụng cụ cần thiết
do chính tay ông Cẩn hay qua các ông Đại Biểu Chính Phủ hoặc các
Tỉnh Trưởng sở tại. Ngoài ra, khi nhà thầu củi Thăng Long trên
đường Phan Bội Châu, Huế, đã trúng thầu khai thác củi trong kế
hoạch khai hoang mật khu Hoa Mỹ của Việt Cộng, thuộc quận Phong
Điền tỉnh Thừa Thiên, ông Cẩn còn đặt điều kiện với nhà thầu củi
Thăng Long phải cung cấp cho chùa Từ Đàm mỗi tháng 30.000$. Vì
thế chùa Từ Đàm càng ngày càng phát triển về mọi mặt.
Một điều
rất đặc biệt, để có vật liệu đúc chuông cho một số chùa mới xây,
ông Cẩn yêu cầu Đại Đội Quân Cụ Quân Khu II bằng mọi cách, cung
cấp vỏ đạn cho Th.T. Trí Quang. Công việc này thật khó, vì lúc
ấy Hoa Kỳ chỉ mới cung cấp súng đạn cho quân đội Việt-Nam trong
công tác huấn luyện nhưng rất hạn chế, kèm theo nhiều thể thức
kiểm soát hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, hai người đứng đầu công
tác này là Trung Úy Ngô Văn Điều và Thượng Sĩ Nguyễn Hiệp (đều
là nggười Công Giáo) đã tìm mọi cách thực hiện lời yêu cầu của
ông Ngô Đình Cẩn.
Được chính
quyền tích cực giúp đỡ, Phật giáo miền Trung phát triển mạnh;
xây thêm nhiều cơ sở, chùa miếu mới. Thêm vào đó, sự qua lại
giữa ông Cẩn và Th.T. Trí Quang rất thường, nhất là vào những
dịp LỄ, TÊT. Nên từ đó, uy tín tăng sĩ chùa Từ Đàm, đặc biệt là
Th.T. Trí Quang, càng ngày càng nổi bật trong giới Phật giáo. Vì
thế ông ta mặc nhiên được coi như đại diện chính thức cho cả
khối Phật giáo miền Trung với chính quyền. Uy tín của ông ta
vượt trội hẳn trên các tăng sĩ khác.
Ngoài ra
còn khoảng 4.000 ngôi chùa khác được xây thêm dưới chế độ Đệ
I Cộng Hòa.
Ngoài
những ưu đãi như trên, Tổng Thống còn có kế hoạch lâu dài,
khuyến khích Phật tử đi du học. Nhất là Tổng Thống giúp đỡ và
phê chuẩn thành lập ”Hội Phật Giáo Thống Nhất” toàn quốc.
Sau khi
Phật giáo đã có tổ chức thống nhất, Tổng Thống Ngô Đình Diệm
lại khuyến khích, cung cấp tài chánh cho các tăng sĩ đi du học,
hầu nâng cao trình độ cho hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo Việt-Nam.
Vào khoảng
cuối tháng 8 năm 1963, Tổng Thống đến thăm ngôi chùa nữ tại Phú
Lâm do sư bà Diệu Huệ chủ trì. Trong khi đàm đạo, nhiều sư nữ đã
oà lên khóc, vì họ biết từ trước đến giờ, Tổng Thống đã từng
nâng đỡ Phật giáo rất nhiều, nay nhiều kẻ lại quay lưng lại.
Cuộc nói chuyện vừa dứt, một tăng sĩ tiến tới chào Tổng Thống.
Tổng
Thống hỏi:
-
Thầy về khi mô?
-
Thưa Tổng Thống, con về được gần ba tháng. Hôm về anh em chúng
con (không nói rõ bao nhiêu người) đã đến trình diện Tổng Thống.
-
Học có được không?
- Dạ
thưa, được. Nhờ lòng ưu ái của Tổng Thống cho đi du học, chúng
con đã cố gắng theo kịp các bạn cùng khóa.
-
Tiền bạc có đủ không?
-
Dạ, cám ơn Tổng Thống. Nhờ lòng ưu ái của Tổng Thống thương cho
quá đầy đủ.
-
Học về rồi phải đem những kiến thức đã học được áp dụng vô tổ
chức của mình, từ tổ chức đến việc đào tạo cán bộ. Tôi nghĩ bên
Phật giáo nên chủ trương như bên Công Giáo, nghĩa là phải đi tu
từ 9, 10 tuổi đến 30 tuổi mới thành linh mục. Có như thế mới
chọn lựa kỹ càng cả về đạo đức và học vấn. Bên Công Giáo lúc sau
ni có thâu nhận thanh niên vào học lên linh mục sau khi đã đậu
tú tài. Nhưng cách đó xem ra chọn lựa không được kỹ càng bằng
lớp bắt đầu đi tu từ nhỏ.
Nói
đến đây Tổng Thống bảo vị tăng sĩ:
-Thôi! Cố gắng làm việc tử tế.
Tổng
Thống Diệm và giấc ngủ trưa dân dã khi đi kinh lý ngoài Trung.
Năm 1959,
sau khi đắc cử nhiệm kỳ II mới được ba ngày, Tổng Thống âm thầm
đến thăm các chùa tại Saìgòn và những vùng phụ cận để cám ơn các
thầy đã ủng hộ ngài thắng cử. Tại một ngôi chùa nọ, khi đón tiếp
Tổng Thống, thượng tọa trụ trì vui đùa trách Tổng Thống:
- Tổng
Thống có chuyện vui không cho anh em chúng tôi biết để cùng
chung vui với Tổng Thống.
Tổng Thống
trả lời:
- Có
chuyện chi vui mà tôi dấu các thầy mô?
- Dạ, thưa
Tổng Thống, qua tăng đoàn Tích Lan, chúng tôi được biết, Tổng
Thống đã tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma một số tiền lớn.
Nghe vậy,
Tổng Thống hơi đỏ mặt, ngồi lặng thinh một lúc rồi nói:
- Vì là
một việc tế nhị, tôi không muốn cho ai biết, chứ không phải có ý
dấu các thầy. Tôi nhận được giải thưởng Leadership Magsaysay
10.000 đô la. Tôi không có nhu cầu chi. Gặp lúc Đức Đạt Lai Lạt
Ma, vị lãnh đạo và là biểu tượng của tinh thần tranh đấu bất
khuất để bảo vệ niềm tin, bảo vệ tôn giáo, bảo vệ dân tộc ngài,
đang gặp hoạn nạn, phải sống lưu vong, cần nhiều sự giúp đỡ. Tôi
thấy mình có bổn phận phải giúp ngài. Tôi nhờ Thủ Tướng Nerhu
chuyển số tiền này cho ngài, nhưng ông ta khước từ, có lẽ ông
ngại mất lòng Trung Cộng, nên tôi phải tìm đường khác để chuyển
số tiền này cho ngài.
Các thầy
cũng biết, mình đang phải chiến đấu chống lại chủ nghĩa vô thần
rất tàn bạo. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới đủ sức mạnh chống lại
được chủ nghĩa tai hại này. Vì thế, đối với việc phát huy, củng
cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, bất câu là tôn giáo nào, mình cũng
có bổn phận khuyến khích và giúp đỡ.
Sau đó
Tổng Thống đi bắt tay các thầy, ngài thấy Đại Đức Thích Quảng
Liên, liền hỏi:
- Thầy
về khi mô?
- Dạ,
thưa con mới về, chưa kịp vào chào Tổng Thống.
- Không
sao. Khi mô thầy muốn vô, nói sĩ quan tùy viên sắp xếp cho vô.
2.- Công Giáo.
Kể từ ngày
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về chấp chánh đến nay, chẳng thấy bằng
chứng nào TT Ngô Đình Diệm cho Công giáo một miếng đất, một
số tiền nào để xây Nhà Thờ hay dòng tu. Nhất là chưa thấy
một tu sĩ Công Giáo nào được Tổng Thống cho đi du học với học
bổng được cung cấp đầy đủ. Ngược lại, có vài va chạm giữa Công
Giáo với Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà chúng tôi không đủ thời giờ
để nêu lên. Tuy nhiên chúng tôi cố gắng tóm lược vài trường hợp
sau:
a.- Tổng
Thống Ngô Đình Diệm còn lấy lại khu vườn cao su Phú Thọ mà trước
đây thực dân Pháp đã tặng địa phận Sàigòn, để làm tài sản cho
quốc gia. Tổng Thống lập luận rằng: ‘‘Khu đất đó là đất của
nước Việt-Nam, chứ không phải của thực dân Pháp; họ không được
phép lấy đất của mình cho bất cứ tổ chức nào hay cá nhân nào.”
Sự việc
trên làm TGM Sàigòn rất khó chịu. Vì thế linh mục Nguyễn Văn
Vàng đã chỉ trích chính phủ trên tòa giảng trong nhà thờ Đức Bà,
Sàigòn.
b- Dưới
thời Pháp thuộc và qua các chính phủ dưới thời Quốc Trưởng Bảo
Đại, Giáo Hội Công Giáo được mở các chủng viện để đào tạo linh
mục, tu sĩ. Chương trình giảng dạy không phải chịu sự kiểm soát
của chính phủ.
Đến thời
Đệ I Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Đạo Dụ số 54/7,
xóa bỏ quy chế này. Đạo Dụ ấn định: ”Không ai được mở trường
tư mà không có giấy phép của chính phủ. Các trường được phép mở
phải chịu sự kiểm soát của chình phủ về nhân viên, chương trình
giảng dạy.”
Việc ban
hành Đạo Dụ này đã gây nên làn sóng phản đối dữ dội trong giới
Công Giáo. Đầu năm 1957 Hội Đồng Giám Mục VN, trong đó có cả ĐGM
Ngô Đình Thục, họp ra thông cáo chiếu điều 17 Hiến Pháp, lên án
Đạo Dụ 54/7 là vi phạm tự do tín ngưỡng và yêu cầu xóa bỏ tất cả
những điều khoản liên quan đến chủng viện.
Vì thế một
số linh mục đến nhờ Ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang
Trình dẫn vào gặp Tổng Thống. Trước khi vào, nhiều linh mục
huyênh hoang rằng: ”Lần này tôi sẽ nói toẹt ra hết. Tôi không
nể nữa đâu”. Nhưng khi vào, các vị đều cúi mặt hoặc quay đi
không dám nhìn Tổng Thống.
Khi được
Tổng Thống giải thích, các linh mục nhìn ra mục đích của Đạo Dụ
là tạo sự hòa đồng các tôn giáo, gây tình đoàn kết toàn dân,
nhằm bẳo vệ quyền lợi tối thượng của đất nước.
Thế rồi,
Tổng Thống quay sang trách khéo Ông Bộ Trưởng Nguyễn Quang
Trình:
- Họ không
hiểu, ông Bộ Trưởng phải giải thích cho họ. Có vậy cũng đòi vào
gặp tổng thống.
Rồi Tổng
Thống đứng dậy đi vào.
Sau đó Đạo
Dụ được giới Công giáo nghiêm chỉnh thi hành.
3.- Cao Đài.
Trong một
lần Tổng Thống tiếp phái đoàn Cao Đài đến thăm xã giao, ngài
nói: ”Tôi kính trọng quý ngài. Một số linh mục Công Giáo đến
gặp tôi xin phép được xổ số Tômbola để có tiền xây nhà thờ. Tôi
nói: Cao Đài họ có Tombola đâu, sao tôi thấy họ cất thêm
thánh thất mới đều đều”. Rồi ngài chua chát kết
luận: ”Cứ Tombola! Tombola mới xây được nhà thờ!”
IV.- Đàn áp Phật
giáo.
Vào khoảng
cuối tháng Tám năm 1963, chính trường miền Nam Việt Nam rất sôi
động do nhóm ”Tông Phái” Thích Trí Quang xách động. Do lời đề
nghị của Giáo Sư Bửu Hội, Tổng Thống Ngô Đình Diệm mời Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc cử Phái Đoàn sang điều tra và còn hứa với
phái đoàn là chính phủ VNCH sẽ hợp tác chặt chẽ và tạo mọi điều
kiện dễ dàng trong khi Phái Đoàn thi hành nhiệm vụ. Ngoài ra
Phái Đòan hoàn tòan được tự do muốn đi nơi nào hoặc muốn gặp bất
cứ ai đều được thoải mái làm việc. Vì thế Trưởng Phái Đoàn Đặc
Nhiệm của VNCH tại Liên Hiệp Quốc đã gửi thư mời đề ngày
4.10.1963 có lời mời như sau:
”Tôi được
lệnh của Chính Phủ tôi, qua Ngài và ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp
Quốc, gửi lời mời các đại diện của một số các quốc gia hội viên
Liên Hiệp quốc đến viếng thăm Việt-Nam trong những ngày gần đây
để nhận xét tường tận thực trạng sự liên hệ giữa chính phủ và
Cộng Đồng Phật giáo Việt-Nam.
Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa cảm tạ Ngài nếu được Ngài tận tình giúp đỡ.”
Sau khi
nhận được thư mời trên, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã cử một
Phái Đoàn gồm quý vị đại diện các nước hội viên sau đây:
Afghanistan, Đại Sứ Abdul Rama Pazhwak; Brasil, Đại Sứ Sergio
Correa da Costa; Tích-Lan, Đại Sứ Sénérat Gunewardene; Costa
Rica, Đại Sứ Fernando Volio Jimenez; Dahomey, Đại Sứ Louis
Ignacio-Pinto; Ma-rốc, Đại Sứ Ahmed Taibi Bahima; Nepal, Đại Sứ
Matrika Prasad Koiralá. Ông Abdul Rama Pazhwak, Đại Sứ của
Afghanistan là Trưởng Phái Đoàn.
Phái Đoàn
đến Sàigòn vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 24-10-1963 và
được ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giao và các viên
chức khác trong bộ đón tiếp. Trước sự hiện diện của các phóng
viên báo chí trong và ngoài nước, ông Trưởng Phái Đoàn Abdul
Rama Pazhwak nhấn mạnh: ”Chúng tôi đến đây với ý chí muốn
biết rõ sự thật và tường trình các sự việc.”…
Sau khi
Phái Đoàn vừa hoàn tất nhiệm vụ thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị
thảm sát. Vì thế Bản Phúc Trình của Phái Đoàn đệ trình Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc ngày 9-12-1963 chịu ảnh hưởng của Chính
quyền Hoa Kỳ do sự chi phối của đảng Dân Chủ qua bàn tay phù
thủy của Cabot Lodge đã được dấu kín (chỉ rất giới hạn và rất
kín), coi như bị ém nhẹm. Đến nay bản Phúc Trình điều tra đã
được giải mật. Qua bản Phúc Trình này, Thượng Nghị Sĩ Thomas
J.Dodd, Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ, qua thư đề ngày 17
tháng Hai năm 1964 gửi Chủ Tịch Ủy Ban Nội Vụ Thượng Viện Hoa
Kỳ, đã đưa ra nhận xét:
“Đây là
Bản Phúc Trình bao gồm những lời khai và tài liệu, nhưng không
hề có những nhận xét hay kết luận của Phái Đoàn, tôi tin rằng
bất cứ ai sau khi đọc Bản Phúc Trình này cũng có thể đy7a ra kết
luận về lời cáo buộc “Phật giáo bị đàn áp”, “thật ra chỉ
là sự thổi phồng đầy ác ý, và tuyên truyền man trá”.
Còn Đại Sứ
Fernando Volio Jimenez của Costa Rica nhận định như sau:
”Cá nhân tôi nghĩ
rằng không hề có chính sách kỳ thị, đàn áp, ngược đãi đối với
Phật giáo trên căn bản tôn giáo. Lời khai về những sự việc này
thường chỉ là những tin đồn vô căn cứ hoặc được thổi phồng hay
phóng đại”.
Đại Sứ Fernando
Volio Jimenez nói tiếp:
”Nếu dựa trên
những tin tức đã xuất hiện trên báo chí thế giới, tôi đã sửa
soạn và sẵn sàng bỏ phiếu lên án chính quyền Ngô Đình Diệm…
Nhưng sau hai tuần
lễ tích cực điều tra tại Việt-Nam, tôi nghĩ rằng: với những bằng
chứng đã thu thập được đã chứng tỏ rằng không hề có vấn đề kỳ
thị tôn giáo hoặc xâm phạm quyền tự do tôn giáo…
Chính phủ Ngô Đình
Diệm đã cộng tác chặt chẽ với chúng tôi, cho phép chúng tôi đi
bất cứ nơi nào chúng tôi muốn đi, lấy lời khai bất cứ cá nhân
nào chúng tôi thấy cần thiết.
Tôi cũng nhận được
lời tuyên bố của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao rằng: ”Chính phủ có
thể không toàn hảo, cũng như các viên chức trong chính phủ không
phải là những ông thánh. Chúng tôi sẽ lắng nghe những ý kiến của
quý vị và sẽ cố gắng sửa đổi những khuyết điểm”.
Đại sứ Fernando
Volio Jimenez lại nói tiếp:
”Với lời mời và sự
hướng dẫn trong suốt cuộc điều tra, đã cho tôi cảm nghĩ rằng
chính phủ Ngô Đình Diệm sẵn sàng sửa đổi những sai lầm nếu có,
và tin tưởng vào sự thật sẽ được đưa ra ánh sáng.”
Dựa trên căn bản
của Bản Phúc Trình, Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Dodd đã đề cập đến
vấn đề tự thiêu như sau:
“Phúc trình của
Phái Đoàn đề cập đến lời khai của một tăng sĩ 19 tuổi khai với
Phái Đoàn rằng tăng sĩ này được tuyển mộ bởi một “tiểu đội hiến
thân tự thiêu”. Tăng sĩ này khai rằng “Đại Lão Hòa Thượng Giáo
Chủ Phật Giáo đã bị giết”, và rằng “hàng trăm tín đồ Phật giáo
đã cho đi “mò tôm” tại sông Sàigòn, và rằng “nhiều ni cô đã bị
mổ bụng giết chết”, và rằng “Chùa Xá Lợi đã bị đốt”. Tăng sĩ này
cũng khai rằng “đã được yêu cầu tự nguyện tự thiêu để bảo vệ
Phật Pháp”, và được bảo đảm rằng “trước khi tự thiêu sẽ được
uống những viên thuốc để không bị đauđớn khi tự thiêu, và ký vào
ba bức thư đã được soạn sẵn”. Tăng sĩ này đã bị cảnh sát bắt
trước khi hành động man rợ này xảy ra”.
“Phái đoàn cũng đã
phỏng vấn một số những nhà lãnh đạo Phật giáo về những lãnh đạo
thanh niên mà theo Bản Phúc Trình họ đã bị giết. Không thể tìm
thấy những bằng chứng hoặc kiểm chứng những bản tin của các báo
cáo nói rằng một số tu sĩ Phật giáo bị ném từ trên gác xuống
trong cuộc bố ráp chùa Xá Lợi.”
Phái Đoàn không đi
sâu vào động cơ chính trị dẫn đến sự khích động của ”tổ chức
Thích Trí Quang”. Nhưng câu trả lời của ông Thích Trí Quang với
cô ký giả Maguerite Higgins rằng: ”Chúng tôi chỉ có thể
dàn xếp với miền Bắc sau khi đã lật đổ Diệm và Nhu”.
Khi Bản Phúc Trình
của Phái Đoàn điều tra của LHQ được giải mật, nhiều người ”chạy
tội” tuyên truyền rằng: ”Bọn Diệm Nhu dùng mỹ nhân kế và đô la
mua chuộc Phái Đoàn điều tra của LHQ.” Họ có biết không, khi
Phái Đoàn điều tra của LHQ còn đang ở Saigòn, hai anh em Tổng
Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã bị giết rồi thì làm sao
còn mua chuộc được.
V.-
Chống Cộng:
1- Ngày 15 tháng 8
năm 1975, Thượng Tướng Việt Cộng Trần Văn Trà lúc đó là Chủ Tịch
Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sàigòn, ông ta lập mưu bắt TGM Nguyễn
Văn Thuận một cách êm thắm bằng cách ông ta gửi một thư mời đến
TGM Nguyễn Văn Bình và TGM Nguyễn Văn Thuận vào Dinh Độc Lập
họp. Khi hai vị sửa soạn ra đi, TGM Nguyễn Văn Thuận nói với TGM
Nguyễn Văn Bình rằng: ”Khi đi hai cha con mình cùng đi; nhưng
khi về chỉ một mình cha về thôi.”. Nghe thấy thế, TGM Nguyễn
Văn Bình nói: ‘‘Sao Đức Cha lại nói vậy”.

Hình vẽ Đức
Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận (ngài là cháu ruột của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm) đang dâng Thánh lễ và cầu nguyện trong
tù vc.
Thế rồi
hai vị vào Dinh Độc Lập họp. Trong khi đi qua hành lang để đến
phòng họp, TGM Bình đi trước, TGM Thuận đi sau. Ngay lúc đó, một
tên công an chận TGM Thuận và nói: ‘‘Anh đi lối này”, rồi hắn
lôi TGM Thuận đi mất luôn.
Sau khoảng
30 phút, TGM Bình chỉ thấy ông tướng Trà nói chuyện vu vơ, thấy
vậy TGM Bình hỏi:
- Thưa
Thượng Tướng, còn chuyện gì cần nữa không?
Tướng Trà
trả lời:
- Thôi! Cụ
ra về được rồi.
- Đức Cha
phó của tôi đâu mời ngài cùng về.
- Như
cụ thấy, chế độ này là Chế Độ Cộng Sản. Tên Thuận là dòng dõi
Ngô Đình Diệm, chúng nó chống Cách Mạng từ trong trứng chống ra,
nên không thể để nó ở đây được.
Tưởng cũng
nên nói them, vào khoảng giữa tháng Năm năm 1975, TGM Nguyễn Văn
Thuận đến thăm dòng Đồng Công tại Thủ Đức, sau khi dâng lễ, ngài
thân mật nói chuyện để khích lệ, an ủi các tu sĩ, và cũng như
một lời báo trước, ngài nói: “Chưa có giám mục Việt Nam nào vào
tù cộng sản. Tôi sẽ là người đầu tiên. Các cha và các thầy nhớ
cầu nguyện cho tôi.”
2- Đảng
CSVN vẫn còn cay cú về chuyện chế độ Ngô Đình Diệm đã quét sạch
gần như toàn bộ hệ thống nằm vùng và tình báo của họ. Do đó, các
văn công Việt Cộng đã được lệnh viết rất nhiều bài mô tả chế độ
Ngô Đình Diệm là ác ôn, gia đình trị, kỳ thị tôn giáo, đàn áp
Phật giáo… Nhóm tiếp tay cho họ dĩ nhiên được hoan nghênh và yểm
trợ tích cực.
Cuốn “Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của nhóm Đỗ Mậu và cuốn “Giáo
Sĩ Thừa Sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam” của
Cao Huy Thuần đã được nhà cầm quyền CSVN cho in lại và phổ biến
rộng rãi trong nước, một số được đưa ra hải ngoại. Mới
đây, các cơ quan truyền thông hải ngoại đã phát hiện: Bùi
Hồng Quang, một trong những người chủ trương tạp chí Giao
Điểm, đã được Cục An Ninh Xã Hội thuộc Tổng Cục An Ninh ở
trong nước cho phép in tạp chí Giao Điểm ở trong nước và cấp
Giấy phép mang số 1020/A41 (P4) ngày 20.12.2007 cho đưa ra
nước ngoài với mục đích được ghi rõ là “tuyên truyền vận
động đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta”.
Các báo
chí và websites ở trong nước cũng đã và đang phổ biến nhiều bài
của nhóm chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở trong nước cũng như
hải ngoại, chẳng hạn như các bài sau đây:Bất Ngờ, Sinh
Viên Huế 1963 - Hồi Ức của Nguyễn Đắc Xuân, Mùa Phật
Đản Đẫm Máu 63 của Vũ Ngự Chiêu, Cuộc Cách Mạng 1-11-1963 của
Hoành Linh Đỗ Mậu, Ngựa Non Háu Đá của Trần Đình Hoàng, Nhân
Dân Miền Nam Hân Hoan Chào Mừng Cách Mạng 1/11/63 của Chuyển
Luân, Kenedy là Người Đằng Sau Cái Chết Của Ngô Đình Diệm của
Nguyễn Văn, Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Năm 1963 của Lê
Cung, v.v.
Nhìn chung,
chúng ta thấy Đảng CSVN vẫn tiếp tục dùng nhóm ‘‘Tông Phái’’
Thích Trí Quang quá khích làm công cụ đánh phá như trước năm
1975.
Kính thưa
tòan thể quý vị.
Nói đến
đây, chúng tôi nhớ lại lời nhà triết học Aristote như sau: ‘‘Nếu
chúng ta không biết nguyên nhân gây nên, tức chúng ta không biết
được sự thật”.
Vậy,
nguyên nhân nào đã đưa đến cái chết tức tưởi cho anh em Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, liên lụy đến cả miền Nam Việt-Nam mà nhiều
người lầm tưởng rằng, Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Kỳ thị tôn giáo,
đàn áp Phật giáo; gia đình trị; độc tài. Hay chỉ vì Tổng Thổng
Ngô Đình Diệm luôn luôn nắm quyền tự quyết quốc dân Việt-Nam
trong tay và nâng cao chính nghĩa quốc gia trên hết. v.v. mà hệ
lụy như ông Ngô Đình Nhu đã tiên đoán từ năm1962 rằng: ”Nếu
chế độ này sụp đổ, Bắc Việt sẽ chiếm miền Nam, và khi Bắc Việt
đã chiếm được miền Nam rồi, Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt-Nam,
yếu tố còn lại chỉ thời gian”. Hoặc như ông Cabot Lodge
đã thuật lại trong công điện gởi cho Bộ Ngoại Giao lúc 2 giờ
chiều ngày 7.9.1963, ông ta kể lại lời ông Ngô Đình Nhu đã nói
với ông ta như sau: “Tôi báo động về những gì sẽ xẩy ra
trong Quân đội. Nếu tôi ra đi, Quân đội sẽ nắm chính quyền. Bọn
cóc nhái của CIA và USIS này sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh.”