Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Tổ Chức Liên
Hiệp Quốc
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, nhận định và chuyển dịch
Trước hết, về nguồn gốc của chính Tổ Chức Liên Hiệp Quốc (The
United Nations), cơ quan quốc tế này được thành lập ngày
24/10/1945 sau Thế Chiến Thứ Hai. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc này
được phỏng theo và tiếp nối tổ chức quốc tế đă được h́nh thành
sau Thế Chiến Thứ Nhất, đó là Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc (League
of Nations). Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc được các nước dự phần
vào cuộc chiến thắng Đại Chiến Thứ Nhất là Pháp, Đại Anh Quốc, Ư
, Nhật và Hoa Kỳ thành lập vào tháng Giêng năm 1920 với trụ sở
chính ở Geneva Thụy Sĩ. Tổng Thống Woodrow Wilson Hoa Kỳ là
người chủ chốt trong việc thành lập tổ chức quốc tế này, nhưng
đă thất bại trong việc chinh phục Hoa Kỳ tham gia vào tổ chức
này, một tổ chức bị giải tán vào tháng 6/1946, sau khi Tổ Chức
Liên Hiệp Quốc thành h́nh. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc cũng được đa
số các nước sáng lập Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc đứng ra thành
lập. Đại diện của các nước này đă gặp nhau ở San Francisco vào
tháng Tư năm 1945 để phác họa một dự án bảo vệ ḥa b́nh thế giới,
dự án được gọi là Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the
United Nations). Tháng 6/1945, đă có 50 nước kư nhận Bản Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc này và đă trở thành hội viên đầu tiên của
Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Cho tới nay, các nước hội viên Liên Hiệp
Quốc đă lên đến 159, trong đó có Việt Nam (gia nhập từ năm
1977). Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc được đặt tại Nữu Ước Hoa
Kỳ. Lá cờ của Liên Hiệp Quốc cũng cho thấy mục đích phục vụ ḥa
b́nh của tổ chức này, đó là h́nh ảnh thế giới được bao đỡ bởi
hai cành lá Olive tượng trưng cho ḥa b́nh.
Mục đích chính của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, đó là phục vụ Ḥa
B́nh Thế Giới và Nhân Phẩm Con Người. Mục đích phục vụ Ḥa B́nh
Thế Giới của Liên Hiệp Quốc đă được xác nhận trong Bản Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the United Nations), nhất
là ở ngay phần Lời Ngỏ Mở Đầu của bản văn kiện này, do Jan
Christiaan Smuts nước Nam Phi soạn thảo, và mục đích phục vụ
Nhân Phẩm Con Người cũng đă được thể hiện nơi Bản Tuyên Ngôn
Chung Về Nhân Quyền (the Universal Declaration of Human Rights).
Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc: Lời Ngỏ Mở Đầu
“Các dân tộc thuộc Tổ Chức Liên Hiệp Quốc chúng tôi quyết
định:
·
Cứu vớt các thế hệ sau này khỏi những cuộc hoạn
nạn chiến tranh đă hai lần mang lại trong thời đại của chúng tôi
t́nh trạng buồn đau khôn tả cho loài người,
·
Tái xác nhận niềm tin tưởng nơi các quyền lợi
căn bản của con người, nơi phẩm vị cũng như giá trị của loài
người, nơi quyền b́nh đẳng của con người nam nữ cũng như của các
quốc gia lớn nhỏ,
·
Thiết lập những điều kiện có thể bảo tŕ công
lư và việc tôn trọng cần phải tỏ ra đối với những đ̣i buộc của
các hiệp định cũng như của các nguồn khác thuộc công pháp quốc
tế,
·
Phát động t́nh trạng tiến bộ xă hội cùng với
những qui chuẩn sống trong tự do thoải mái tốt đẹp hơn.
Và v́ những mục tiêu sau đây:
·
Thể hiện việc dung nhượng và chung sống ḥa
b́nh với nhau như là những cận nhân tốt lành,
·
Hiệp nhất sức mạnh của chúng ta để bảo tŕ ḥa
b́nh và an ninh quốc tế,
·
Bảo đảm lực lượng quân sự không được sử dụng
nữa th́ góp phần vào việc sinh lợi ích chung, bằng việc chấp
nhận những nguyên tắc cũng như bằng việc thiết lập những phương
pháp, và
·
Sử dụng guồng máy quốc tế để đẩy mạnh t́nh
trạng tiến bộ về kinh tế cũng như xă hội cho tất cả mọi dân tộc,
Chúng tôi đă quyết tâm hợp lực để hoàn thành những mục đích
ấy. Bởi thế, những Chính Quyền hiện hành chúng tôi, qua các vị
đại diện họp nhau ở thành phố San Francisco, những người có đầy
đủ quyền hạn hiệu năng và xứng hợp, đă ưng thuận với Bản Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc này, để thiết lập một tổ chức quốc tế được
gọi là Liên Hiệp Quốc này”.
Thực tế cho thấy, từ ngày thành lập đến nay, Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc đă phục vụ Ḥa B́nh Thế Giới qua những trường hợp điển h́nh
sau đây:
Năm 1947, giải quyết Chiến Tranh Trung Đông giữa Dân Do Thái
và Khối Palestine, bằng việc chia đất Palestine thành hai
quốc gia, Do Thái và Ả Rập, nhưng Thành Giêrusalem trực thuộc
Liên Hiệp Quốc. Khối Ả Rập chống lại dự án này, và ngay sau ngày
khi quốc gia Do Thái h́nh thành, 14/5/1948, tới nay, giữa năm
2002, Chiến Tranh Trung Đông vẫn kéo dài, với những cuộc mắt đền
mắt, răng đền răng, Palestine khủng bố tấn công, Do Thái tấn
công khủng bố, hầu như không ai có thể can thiệp nổi.
Năm 1947, giải quyết cuộc Tranh Giành quyền trị giữa Cộng Ḥa
Nam Dương với Ḥa Lan, nước muốn tái đô hộ Nam Dương nói
chung và miền Đông Tân Giunê nói riêng sau Thế Chiến II, cuộc
Tranh Giành đă được hoàn toàn ổn định vào năm 1963 và 1969.
Năm 1948, can thiệp vào cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan
xẩy ra từ năm 1947 về miền đất Kashmir, cuộc xung đột nhờ Liên
Bang Nga đă tạm ổn vào năm 1966. Nhưng cho tới nay, giữa năm
2002, hai nước này vẫn chưa nguôi xung đột như giữa Dân Do Thái
và Khối Palestine ở Trung Đông.
Năm 1948, nhúng tay vào Chiến Tranh Đại Hàn, bằng việc
công nhận Cộng Ḥa Nam Hàn và coi chính phủ Nam Hàn là chính phủ
chính thức duy nhất của Đại Hàn; thế nhưng, Bắc Hàn đă tấn công
Nam Hàn từ ngày 25/6/1950, và Liên Hiệp Quốc đă giúp Nam Hàn
chống cộng từ ngày 7/7/1950, thế rồi vào tháng 10 cùng năm,
Trung Cộng đă nhẩy vào ṿng chiến cho tới ngày 27/7/1953. Tuy
nhiên, cho tới nay Đại Hàn vẫn chưa hoàn toàn thống nhất.
Năm 1954, can thiệp vào Cuộc Xung Đột ở Cyprus, một nước
bấy giờ đang thuộc quyền đô hộ của Anh và bao gồm hai sắc dân,
Hy Lạp chiếm 80% muốn đảo Cyprus sát nhập vào Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ chiếm đa số trong 20% c̣n lại. Cuộc xung đột dữ dội vào tháng
2/1957 đă thúc LHQ yêu cầu ba nước Anh Quốc, Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ giải quyết vấn đề và nhờ đó đă giúp Cyprus trở thành một Nước
Cộng Ḥa ngày 16/8/1960. Tuy nhiên, sau đó, Cộng Ḥa Cyprus vẫn
tiếp tục là nơi xung đột giữa hai Nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, một
lần vào tháng 12/1963, đến nỗi LHQ đă phải gửi quân tới để giữ
an ninh cho đảo này, và một lần vào tháng 7/1974, kết quả là vào
năm 1983, sau khi xâm chiếm Cyprus, Thổ Nhĩ Kỳ đă tuyên bố Cộng
Ḥa Thổ Nhĩ Kỳ Miền Bắc Cyprus, nhưng công bố này đă bị LHQ lên
án.
Năm 1960, nhúng tay vào t́nh h́nh Congo, một nước đă được
độc lập ngày 30/6/1960 sau 55 năm bị Bỉ đô hộ. Thế nhưng, sau
khi Bỉ rút lui, nước này đă bùng nổ nội chiến. Quân Bỉ đă phải
trở lại để giữ an ninh. Quân Congo yêu cầu LHQ giúp đỡ, một lực
lượng đă phục hồi an ninh cho nước này và rút khỏi nước này ngày
30/6/1964. Thế nhưng, chi phí cho cuộc văn hồi này lên đến 450
triệu Mỹ kim, một chi phí LHQ phải một ḿnh gánh chịu v́ Nga,
Pháp và một số nước không đồng ư chung lưng gánh chịu.
Năm 1962, can thiệp vụ đầu đạn nguyên tử ở Vịnh Cuba.
Ngày 22/10, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy loan báo cho thế giới biết
rằng Nga Sô đang thiết lập những căn cứ đầu đạn nguyên tử bí mật
ở Cuba, nơi có thể tấn công Hoa Kỳ qua ngả Florida với khoảng
cách độ 90 dặm. Ngày 24/10 LHQ đă yêu cầu hai cường quốc đệ nhất
hoàn cầu giải quyết vấn đề với nhau. Ngày 28/10, hai bên đă giải
quyết vấn đề ổn thỏa.
Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc
Văn kiện lịch sử hết sức quan trọng nàycó hai phần rơ rệt, phần
Ư Thức và phần Xác Quyết. Phần Ư Thức cho thấy 7 lư do thúc đẩy
Liên Hiệp Quốc phác họa Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền. Phần
Xác Quyết gồm 30 khoản gồm tóm tất cả mọi quyền lợi bẩm sinh bất
khả vi phạm của con người, xứng với phẩm giá làm người của họ,
bao gồm đủ mọi lănh vực về con người, như sự sống (khoản 3),
phẩm vị (khoản 4, 12, 25), phát triển (khoản 22, 28, 29), kiện
cáo (khoản 5-11), hôn nhân (khoản 16), giáo dục (khoản 26), di
chuyển (khoản 13, 14, 15), sinh sống (khoản 22, 23, 24), sở hữu
(khoản 17, 27), hành đạo (khoản 18), chính trị (khoản 21). Sau
đây là toàn bản văn kiện Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền:
·
Xét rằng, việc nh́n nhận phẩm vị bẩm sinh và
những quyền lợi b́nh đẳng bất khả vi phạm của tất cả mọi phần tử
thuộc gia đ́nh nhân loại là nến tảng của tự do, công lư và ḥa
b́nh trên thế giới,
·
Xét rằng, việc coi thường và khinh thị nhân
quyền đă gây nên những hành động man rợ làm cho lương tâm con
người uất hận, mà việc thăng tiến của một thế giới làm cho nhân
loại được hoan hưởng quyền tự do phát biểu và tin tưởng, tự do
an vui và thoải mái, đă được công nhận là một ước vọng cao nhất
của chung con người,
·
Xét rằng, nếu con người không bị bắt buộc phải
sử dụng đến việc nổi loạn như là phương tiện bất đắc dĩ để chống
lại với bạo quyền và đàn áp, th́ nhân quyền thực sự cần phải
được qui luật pháp lư bênh vực,
·
Xét rằng cần phải đẩy mạnh việc phát triển các
mối liên hệ thân hữu giữa các dân nước,
·
Xét rằng các dân tộc thuộc Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc đă tái xác nhận trong Bản Hiến Chương của ḿnh về niềm tin
của họ nơi các nhân quyền căn bản, nơi phẩm vị và giá trị của
con người cũng như nơi quyền b́nh đẳng nam nữ, và đă quyết tâm
phát động t́nh trạng tiến bộ về xă hội cùng với những qui chuẩn
sống tự do thoải mái hơn,
·
Xét rằng Các Quốc Gia Phần Tử đă tự hứa quyết
cộng tác với Tổ Chức Liên Hiệp Quốc trong việc đạt đến vấn đề cổ
vơ ḷng tôn trọng phổ quát cũng như vấn đề tuân giữ nhân quyền
và những quyền tự do căn bản,
·
Xét rằng việc hiểu biết chung về những quyền
lợi và tự do này có một vai tṛ hết sức quan trọng cho việc hoàn
toàn thể hiện lời đoan quyết này,
Bởi vậy, giờ đây, Đại Hội Đồng xin tuyên bố
Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, như là một qui chuẩn
chung đối với tất cả mọi dân tộc cũng như tất cả mọi đất nước,
để giúp cho hết mọi người và hết mọi cơ cấu xă hội, khi liên lỉ
ghi nhớ bản Tuyên Ngôn này, nỗ lực đạt đến mục đích ấy, bằng
cách dạy dỗ và giáo dục để cổ vơ ḷng tôn trọng những quyền lợi
và tự do này, cũng như bằng những biện pháp tân tiến, cả ở lănh
vực quốc gia lẫn quốc tế, để rơ ràng cho thấy họ thực sự nh́n
nhận và tuân giữ một cách phổ quát và có tác hiệu, cả nơi dân
tộc của Các Nước Phần Tử cũng như nơi dân tộc thuộc các lănh địa
thuộc phạm vi quyền hạn của họ.
1.
Tất cả mọi con người được sinh ra có tự do và b́nh đẳng
về phẩm giá cũng như quyền lợi. Họ được ban cho có trí khôn và
lương tâm, và phải tác hành hướng về nhau trong tinh thần huynh
đệ.
2.
Hết mọi người đều có quyền hưởng tất cả mọi quyền lợi và
tự do được Bản Tuyên Ngôn này phác họa, không phân biệt thứ
loại, như giống ṇi, mầu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tư
kiến chính trị ra sao, gốc gác quốc gia hay xă hội, của cải sản
vật, hoàn cảnh sinh vào đời thế nào. Ngoài ra, không được phân
biệt căn cứ vào vị thế chính trị, pháp vực hay quốc tế của xứ sở
hay lănh thổ con người thuộc về, cho dù độc lập, tùy thuộc,
không tự trị hay bị bất cứ một giới hạn về quyền trị nào.
3.
Hết mọi người đều có quyền sống, tự do và an ninh bản
thân.
4.
Không ai phải bị bắt làm nô lệ hay tôi mọi; tất cả mọi
h́nh thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.
5.
Không ai phải bị hành sử hay trừng phạt một cách tàn bạo
hay dă man, nhục nhă và đê hèn.
6.
Hết mọi người đều có quyền được nh́n nhận là một ngôi vị
trước luật pháp ở khắp mọi nơi.
7.
Tất cả mọi người đều b́nh đẳng trước pháp luật và được
luật pháp bảo vệ như nhau. Tất cả mọi người đều được bảo vệ như
nhau khỏi bất kỳ một kỳ thị nào phạm đến Bản Tuyên Ngôn này cũng
như khỏi bất cứ một xui giục nào đưa đến một kỳ thị như vậy.
8.
Hết mọi người đều có quyền được các pháp đ́nh quốc gia
thẩm quyền bênh chữa một cách hiệu lực đối với những hành động
vi phạm đến các quyền lợi của họ theo hiến định hay luật định.
9.
Không ai phải bị tù ngục, giam giữ hay đầy ải một cách
độc đoán.
10.
Hết mọi người đều được đầy đủ quyền lợi như nhau trong
việc khiếu nại một cách công bằng và công khai để ṭa án độc lập
và vô tư phán quyết về các quyền lợi và trách vụ của họ, cũng
như về tội trạng họ bị tố cáo.
11.
1) Hết mọi người bị cáo buộc phạm tội đáng bị trừng phạt
đều được giả thiết là vô tội cho đến khi chứng minh thấy họ có
tội theo luật pháp trước một phiên ṭa công khai để họ có tất cả
những bảo đảm cần thiết trong việc bênh chữa cho họ. 2) Không ai
sẽ bị coi là có tội về bất cứ vi phạm đáng phạt nào, nếu bất cứ
việc làm nào hay việc bỏ qua không làm nào vốn không phải là một
vi phạm đáng phạt theo luật quốc gia hay quốc tế vào lúc xẩy ra
vấp phạm đó. Cũng không được ra h́nh phạt nặng hơn h́nh phạt ở
vào lúc tội phạm xẩy ra.
12.
Không ai bị ngang nhiên xía vào đời tư, gia đ́nh, nhà cửa
hay thư tín của họ, cũng như bị tấn công đến danh dự và tiếng
tăm của họ. Hết mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ
khỏi những xía xỏ và tấn công này.
13.
1) Hết mọi người đều có quyền tự do di chuyển và cư trú
trong ranh giới của mỗi một quốc gia. 2) Hết mọi người đều có
quyền ĺa bỏ bất cứ xứ sở nào, bao gồm cả quê hương xứ sở của
ḿnh, cũng như có quyền trở về xứ sở của ḿnh.
14.
1) Hết mọi người đều có quyền t́m cách tị nạn và được
hưởng tị nạn ở những xứ sở khác để lánh nạn bắt bớ. 2) Không
được rút lại quyền này trong trường hợp những cuộc bắt bớ hoàn
toàn gây ra bởi những tội ác phi chính trị nhưng lại trái với
những mục đích và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
15.
1) Hết mọi người đều được hưởng quyền có một quốc tịch.
2) Không một ai sẽ bị tước đoạt một cách ngang xương quốc tịch
của họ hay bị từ chối không cho họ thay đổi quốc tịch.
16.
1) Những con người nam nữ thành nhân, bất kể ṇi giống,
quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đ́nh. Họ
có quyền ngang nhau trong việc kết hôn với nhau, trong việc sống
đời hôn nhân với nhau cũng như trong việc hủy bỏ hôn nhân. 2)
Việc hôn nhân phải được hai người muốn lấy nhau thực hiện một
cách tự do và hoàn toàn chấp nhận nhau. 3) Gia đ́nh là đơn vị
nhóm theo tự nhiên và căn bản của xă hội và được hưởng quyền bảo
vệ của xă hội và quốc gia.
17.
1) Hết mọi người đều có quyền sở hữu tài sản riêng của
ḿnh cũng như với những người khác. 2) Không một ai bị tước đoạt
một cách ngang xương tài sản của họ.
18.
Hết mọi người đều có quyền tự do suy nghĩ, tự do theo
lương tâm và tự do theo đạo; quyền này bao gồm quyền tự do thay
đổi tôn giáo hay niềm tin của ḿnh, cũng như quyền tự do biểu lộ
tôn giáo hay niềm tin của ḿnh qua giáo huấn, qua việc hành đạo,
qua việc phượng tự cũng như qua việc giữ luật đạo, theo cá nhân
hay với những người khác trong cộng đồng, một cách công khai hay
âm thầm.
19.
Hết mọi người đều được quyền tự do có ư kiến và phát biểu;
quyền này bao gồm quyền tự do giữ ư kiến của ḿnh mà không bị
gây khó dễ, cũng như quyền được tự do t́m kiếm, lănh nhận và
truyền đạt tín liệu cũng như tư tưởng bằng bất cứ phương tiện
truyền thông nào, bất kể giới tuyến.
20.
1) Hết mọi người đều được quyền tự do hội họp với nhau
một cách trật tự và gia nhập hiệp hội. 2) Không ai bị bắt buộc
phải thuộc về một hiệp hội nào.
21.
1) Hết mọi người đều có quyền tham gia vào việc cai trị
xứ sở của ḿnh, một cách trực tiếp hay qua những vị đại diện
được tự do tuyển chọn. 2) Hết mọi người đều có quyền ngang nhau
trong việc hưởng dịch vụ công cộng nơi xứ sở của ḿnh. 3) Ư của
dân chúng phải là nền tảng cho quyền bính của chính phủ; ư dân
này được thể hiện nơi những cuộc tuyển cử định kỳ và chuyên
chính, bằng cuộc đầu phiếu chung và b́nh đẳng, cũng như bằng
phiếu kín hay bằng những phương thức tự do bỏ phiếu tương đương.
22.
Hết mọi người, với tư cách là phần tử của xă hội, đều có
quyền được hưởng an sinh xă hội, và được quyền hiện thực những
quyền lợi về kinh tế, xă hội và văn hóa bất khả thiếu đối với
phẩm vị của họ cũng như đối với việc phát triển nhân cách của
họ, nhờ việc nỗ lực của quốc gia cũng như việc hợp tác quốc tế,
hợp với việc tổ chức và các nguồn lợi của mỗi Quốc Gia.
23.
1) Hết mọi người đều có quyền làm việc, có quyền tự do
chọn công ăn việc làm, quyền chọn những điều kiện chính đáng và
thuận lợi để làm việc, và quyền được bảo vệ cho khỏi bị cảnh
thất nghiệp. 2) Hết mọi người không trừ ai đều được hưởng lương
bổng đồng đều cho việc làm như nhau. 3) Hết mọi người làm việc
đều có quyền được hưởng công thưởng chính đáng và bổng lợi hầu
bảo đảm cho họ cũng như cho gia đ́nh họ một cuộc sống xứng đáng
với phẩm vị con người, và, nếu cần, họ c̣n được xă hội trợ cấp
bằng những phương cách bảo vệ khác. 4) Hết mọi người đều có
quyền thành lập và tham gia những nghiệp đoàn để bảo vệ những
ích lợi của họ.
24.
Hết mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, bao gồm
cả việc ấn định hợp lư về giờ giấc làm việc cũng như về những
ngày nghỉ lễ vẫn có lương.
25.
1) Hết mọi người đều có quyền hưởng một tiêu chuẩn sống
đầy đủ, bao gồm thực phẩm, quần áo, nhà cửa, dịch vụ ư tế, và
những dịch vụ xă hội cần thiết, hợp với sức khỏe và t́nh trạng
an lành của chính họ cũng như của gia đ́nh họ, cũng như quyền
hưởng an sinh trong trường hợp bị thất nghiệp, bệnh nạn, tật
nguyền, góa bụa, giả cả, hay thiếu hụt khác của cuộc sống ở vào
những hoàn cảnh xẩy ra ngoài ư muốn của họ. 2) Vai tṛ làm mẹ và
làm con được quyền hưởng những chăm sóc và trợ giúp đặc biệt.
Tất cả mọi trẻ em, bất kể được sinh ra trong hôn nhân hay ngoại
hôn, đều phải được xă hội bảo vệ như nhau.
26.
1) Hết mọi người có quyền được học hành. Việc giáo dục
phải miễn phí, ít là ở những giai đoạn tiểu học và căn bản. Giáo
dục ở bậc tiểu học là việc bắt buộc. Việc giáo dục về kỹ thuật
và chuyên môn phải thuận lợi cho chung mọi người, và việc giáo
dục cao cấp phải dễ dàng theo đuổi như nhau đối với tất cả mọi
người có cùng một khả năng. 2) Việc giáo dục phải nhắm đến t́nh
trạng phát triển trọn vẹn nhân cách của con người và việc củng
cố ḷng tôn trọng đối với các quyền lợi của con người cùng với
các quyền tự do của họ. Nó phải cổ vơ việc hiểu biết, ḷng dung
nhượng và t́nh hữu nghị nơi tất cả mọi dân nước, mọi nhóm chủng
tộc hay tôn giáo, và phải làm phát triển những hoạt động của
Liên Hiệp Quốc trong việc bảo tŕ ḥa b́nh. 3) Phụ huynh có
quyền ưu tiên trong việc chọn lựa vấn đề giáo dục cho con em của
ḿnh.
27.
1) Hết mọi người đều có quyền tự do tham dự vào sinh hoạt
văn hóa của cộng đồng, hoan hưởng những nghệ thuật và tham phần
vào những tiến bộ về khoa học cùng với những tiện ích của nó. 2)
Hết mọi người có quyền được bảo toàn những ích lợi luân lư và
thể lư phát xuất từ những sản phẩm về khoa học, văn chương hay
nghệ thuật mà họ là tác giả.
28.
Hết mọi người đều được quyền hưởng trật tự xă hội và quốc
tế có thể giúp vào việc hoàn toàn thể hiện các quyền lợi và
quyền tự do được phác họa trong Bản Tuyên Ngôn này.
29.
1) Hết mọi người có nhiệm vụ đối với cộng đồng giúp họ có
thể hiện thực việc phát triển tự do và trọn vẹn nhân cách của
họ. 2) Trong việc hành sử các quyền lợi và quyền tự do của ḿnh,
hết mọi người chỉ phải tùy thuộc vào những giới hạn luật định để
bảo đảm việc nh́n nhận và tôn trọng những quyền lợi và quyền tự
do của người khác, cũng như để đáp ứng những đ̣i hỏi chính đáng
của luân lư, của phạm vi công quyền cũng như của t́nh trạng an
sinh chung trong một xă hội quân chủ. 3) Những quyền lợi và tự
do này không bao giờ được hành sử nghịch lại với những mục đích
và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
30.
Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được cắt
nghĩa như hàm ư giành cho một Quốc Gia nào, phái nhóm hay con
người nào, quyền lợi tham gia vào bất cứ hoạt động hay thi hành
bất cứ hành động nào nhắm vào việc hủy hoại bất cứ một quyền lợi
và tự do được phác họa ở đây.
Điển h́nh của những ǵ Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đă nỗ lực để phục
vụ Phẩm Giá Con Người liên quan đến Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân
Quyền, thế giới có thể thấy được, đó là Cuộc Họp Thượng Đỉnh
Thiên Kỷ của Liên Hiệp Quốc (United Nations Millennium Summit),
một cuộc họp thượng đỉnh đông đảo chưa bao giờ có, với sự góp
mặt của 150/159 đại diện các nước hội viên, diễn ra vào ngày
6-8/9/2000 tại Nữu Ước Hoa Kỳ, Tổng Hành Dinh của Liên Hiệp Quốc.
Trong cuộc họp thượng đỉnh này, các vị lănh đạo quốc gia tham dự
viên đă quyết định những điều liên quan đến việc phục vụ Phẩm
Giá Con Người như sau. Đó là, vào năm 2015, sẽ giảm một nửa số
dân chúng trên thế giới đang sống ở mức kiếm được dưới 1 Mỹ kim
một ngày; chặn đứng hay đảo ngược lại việc lan truyền khuẩn liệt
kháng HIV, khuẩn gây ra Chứng Liệt Kháng AIDS; và đưa hết mọi
trẻ em đến học đường.
(Tài liệu nghiên cứu và trích dịch
trong bài này được lấy từ Bộ Bách Khoa World Book)
Vấn đề ở đây là tại sao con người đă ư thức được nhân quyền của
ḿnh, qua hai văn kiện lịch sử là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776, nhất là Bản Tuyên Ngôn Chung Về
Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc năm 1948, mà con người vẫn
chưa thể sống trong công lư và ḥa b́nh, trái lại, như lịch sử
cho thấy, con người chẳng những càng ngày lại càng kỳ thị nhau
hơn và xung khắc với nhau hơn bao giờ hết, giữa các chủng tộc
với nhau, như ở Âu Châu sau Biến Cố Đông Âu 1989, nhất là ở cuộc
Chiến Tranh Trung Đông, giữa các tôn giáo với nhau, như giữa Hồi
Giáo và Kitô Giáo, giữa các chủ nghĩa với nhau, như giữa Tư Bản
và Cộng Sản, giữa tôn giáo và văn minh, như giữa Hồi Giáo và Âu
Mỹ, mà c̣n càng ngày càng biến loạn hơn bao giờ hết, với những
thứ quyền lợi và quyền hạn được pháp luật chính thức công nhận,
như quyền ly dị và phá thai, quyền đồng tính luyến ái và đồng
tính hôn nhân v.v. Tại sao? Phải chăng một khi lên đến tuyệt
đỉnh văn minh về nhân quyền, con người bắt đầu đi xuống?? Thế
nhưng, cái ǵ sẽ lên thay thế vị trí tuyệt đỉnh nhân quyền
này???