Từ “Phạm Văn Đồng” tới “Thành Đô”,
hai công hàm bán nước
Về h́nh thức “công hàm Phạm
Văn Đồng” chẳng khác ǵ một công án thiền, chỉ 121 chữ với nội dung
đơn giản nhưng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, phân tích, bàn
thảo và làm ngưng chảy ḍng nhận thức của mọi người mỗi khi nhắc đến.
Huyền bí hơn nữa,
“công hàm” là một tài liệu có thật và là cây gai trong mắt của những
người quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhưng trong bao nhiêu lần “xác
định chủ quyền Việt Nam trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa” giới lănh
đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không hề nhắc đến, tưởng chừng như văn
bản đó không phải là của họ. Sự im lặng phải có lư do, bởi v́ nếu
chỉ là vấn đề biển đảo, lănh đạo đảng đă giải thích từ lâu rồi đâu
cần đợi ai nhắc nhở.
Trước khi bàn đến
“công hàm” mới, phải nhắc lại vài chuyện về “công hàm” cũ.
Ngày ngày 4 tháng 9
năm 1958, Quốc hội Trung Quốc ra tuyên bố hai điểm, điểm thứ nhất
có liên hệ trực tiếp đến lănh thổ Việt Nam gồm Tây Sa tức Hoàng Sa
và Nam Sa tức Trường Sa. Đáp lại lời tuyên bố này, ngày 14 tháng 9
năm 1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng CSVN đă gởi cho Thủ tướng Chu Ân
Lai một công hàm “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9
năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết
định về hải phận của Trung-quốc”.
Ngày 22 tháng Chín
năm 1958, công hàm đă được đăng trên báo Nhân dân để toàn Đảng, toàn
dân và toàn thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của
Trung Quốc. Những ai trước nay nghĩ rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của
Việt Nam v́ đọc Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quư Đôn hay Đại Nam
Thực Lục của triều Nguyễn v.v… không những là một sai lầm lịch sử mà
c̣n đi được lại quyết định của Đảng. Ngày 19 tháng Giêng năm 1974,
hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa. Sau những trận hải
chiến không cân sức, hải quân Việt Nam Cộng Ḥa triệt thoái khỏi
Hoàng Sa. Từ đó, quần đảo thân yêu này nằm trong tay giặc.
Khi quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc trở nên tồi tệ sau năm 1975 vấn đề chủ quyền
Hoàng Sa Trường Sa được đưa ra. Đặc biệt sau chiến tranh biên giới
lần thứ nhất năm 1979, Việt Nam ra bạch thư về chủ quyền Việt Nam
trên các quần đảo này với nhiều bằng chứng và tài liệu lịch sử Việt
Nam cũng như quốc tế. Phản ứng về phía Trung Quốc, ngoài việc dẫn
chứng các “tài liệu lịch sử” riêng của ḿnh, họ c̣n dựa vào công hàm
Phạm Văn Đồng để cho rằng Việt Nam chính thức thừa nhận hai quần đảo
là của Trung Quốc từ năm 1958. Trung Quốc c̣n cho biết ngay trong
các sách giáo khoa địa lư bậc trung học trước năm 1975 tại miền bắc
Việt Nam cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, và
ngoài ra, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm cũng lập lại
điều này khi tiếp tham vụ ṭa đại sứ Trung Quốc Li Zhimin.
Một làn sóng công
phẫn trong các tầng lớn nhân dân, trước năm 1975 chỉ phát xuất từ
miền nam, đă bắt đầu dấy lên trong vài ngoài nước. Nhưng cùng lúc
với những chê trách, giận dữ, kết án, nhiều quan điểm cũng được đưa
ra như một cách mách nước cho đảng để tháo gỡ chiếc ṿng kim cô đảng
tự đặt lên đầu từ năm 1958.
Cách gỡ rối thứ
nhất cho rằng công hàm không có giá trị pháp lư v́ một quyết định vô
cùng quan trọng như thế phải được quốc hội thông qua.
Cách gỡ rối thứ hai
cho rằng Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm v́ công hàm của
Phạm Văn Đồng không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Cách gỡ rối thứ ba
cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng “chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng
hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển
gần Đài Loan”.
Cách gỡ rối thứ tư
cho rằng theo nội dung hội nghị Geneva, Hoàng Sa, Trường Sa đă thuộc
về phía Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia có chủ quyền, độc lập, toàn
vẹn lănh thổ trong khuôn khổ của hiệp định Geneva.
Cả bốn cách gỡ rối
đều không vững.
Vấn đề có thông qua
hay không thông qua, vi phạm hay không vi phạm hiến pháp Việt Nam là
vấn đề riêng của Việt Nam. Thực tế quốc hội chỉ là cơ quan đóng dấu
tại các quốc gia Cộng Sản đă được quốc tế thừa nhận. Tổng thống
Gerald Ford kư thông cáo chung về thỏa hiệp SALT với Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tại Vladivostok năm 1974 mặc
dù thời điểm đó Chủ tịch Sô Viết Tối Cao là Nikolai Podgorny. Ngày
29 tháng Giêng năm 1979 Tổng thống Jimmy Carter ky thỏa hiệp b́nh
thường hóa các quan hệ kỹ thuật, kinh tế, thương mại với Đặng Tiểu
B́nh mặc dù chức vụ của họ Đặng chỉ là một phó thủ tướng. Dưới chế
độ Cộng Sản, mọi văn bản quan trọng đều phải thông qua bộ chính trị,
cơ quan quyền lực tối cao. Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ chính tri, đóng
vai thủ tướng chính phủ nên phải kư công hàm. Thời điểm tháng 9 năm
1958, danh sách bộ chính trị được bầu ra trong Đại hội lần II năm
1951 cũng như được bổ túc trong những năm sau đó gồm Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí
Thanh, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng
Văn Hoan.
Lư luận cho rằng
Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm Phạm Văn Đồng v́ công hàm
không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa lại càng yếu hơn. Báo Đại
Đoàn Kết phát hành 20/07/2011 viết: “Trong Công hàm của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lănh thổ và
chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đă
nêu”. Căi như báo Đại Đoàn Kết là một cách tự kết án ḿnh v́ lời
tuyên bố của phía Trung Quốc ghi rơ: “Điều lệ này áp dụng cho toàn
lănh thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung
Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt
khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận,
quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần
đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc” và
Việt Nam phấn khởi đáp ứng bằng cách “ghi nhận và tán thành” toàn
văn bản.
Lư luận cho rằng
Việt Nam chỉ bày tỏ “thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong
việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung
Quốc đă phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ
quyền của ḿnh ở Hoàng Sa và Trường Sa” do một nhóm 14 tác giả kư
trong kiến nghị gởi đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thuyết phục.
Việt Nam tự đưa cổ vào tṛng chứ không phải Trung Quốc đặt tṛng vào
cổ Việt Nam. Bản tuyên bố của phía Trung Quốc không chỉ nhằm xác
định chủ quyền trên các đảo Đài Loan mà cả các nhóm đảo khác trong
đó có Hoàng Sa (tên tiếng Tàu là Tây Sa) và Trường Sa (tên tiếng Tàu
là Nam Sa), và công hàm của Phạm Văn Đồng cũng không chỉ nhắm vào
Đài Loan mà ủng hộ toàn bộ lời quyết định về hải phận của Trung
Quốc. Không một quan ṭa quốc tế nào tŕnh độ sơ đẳng đến mức đánh
giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.
Lư luận khác nữa
dựa vào hiệp định Geneva, tuyên cáo của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa
công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao Việt
Nam Cộng Ḥa đầu năm 1975 để bác bỏ giá trị pháp lư của công hàm
Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những ǵ không
thuộc lănh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Đây là lư luận có cở
sở pháp lư nhất và có thể dùng để biện luận trong các hội nghị quốc
tế, rất tiếc Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n hiện diện, về mặt công pháp
quốc tế Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được xem như giữ quyền
tài phán.
Một người Việt Nam
nào có chút quan tâm về đất nước cũng có lần tự hỏi tại sao lănh đạo
đảng ngày đó sơ sót đến mức như vậy?
Phải chăng v́ thời
điểm đó “t́nh hữu nghị Việt – Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn
toàn tin cậy lẫn nhau” như ông Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu?
Phải chăng v́ thời
điểm đó, đảng phải tập trung vào chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” như
chính tác giả Phạm Văn Đồng phân trần?
Không, họ chẳng
những không sơ sót, không chọn lựa khó khăn nhưng hành động bằng cả
nhiệt t́nh. Trong quan điểm của đảng, công hàm Phạm Văn Đồng phản
ảnh mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đảng CSVN. Việc chọn
lựa đảng trên đảo, đặt lư tưởng Cộng Sản trên quyền lợi dân tộc là
một chọn lựa tự nhiên, khách quan, hoàn toàn phù hợp với hướng phát
triển cách mạng xă hội chủ nghĩa. Sự nô lệ vào tư tưởng Cộng Sản bao
trùm lên mọi lănh vực đời sống của xă hội miền bắc.
Tưởng cũng cần nhắc
lại, thời điểm năm 1958 c̣n là thời điểm nóng bỏng giữa Trung Quốc
và Mỹ về vấn đề Đài Loan. Mỗi ngày, pháo binh Trung Quốc bắn hàng
trăm viên đại bác vào hai đảo Kim Môn và Mă Tổ. Như Mao tiết lộ với
Khrushchev sau này, y không có ư định “giải phóng” Đài Loan. Việc
bắn phá Đài Loan chỉ là thái độ của kẻ “ăn không được phá cho hôi”
để thỏa ḷng căm hận. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Quốc, tuy
nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung
Quốc đă biết pḥng xa. Việt Nam th́ không. Việt Nam cũng có nhiều
cách để làm hả dạ đàn anh Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền đất
nước và cách dễ nhất là viết, gạch đít, đóng khung, tô màu hai chữ
Đài Loan trong văn bản. Giới lănh đạo đảng đă không làm điều đó.
Nửa thế kỷ trước,
cả bộ chính trị lẫn trung ương đảng CSVN viễn du trong giấc mộng về
một thiên đường quốc tế vô sản, trong đó con người mang quốc tịch
Trung Hoa hay Việt Nam cũng không mấy khác nhau. Trung Quốc có chiếm
Hoàng Sa cũng chẳng qua là giữ giùm cho Việt Nam, tốt hơn là để cho
Mỹ chiếm. Nói ra như một chuyện cười nhưng đó là sự thật. Đảng Cộng
Sản Việt Nam mang ơn đảng Cộng Sản Trung Quốc sâu đậm. Như hầu hết
tài liệu quốc tế và cả tài liệu chinh thức của đảng, trong thập niên
năm 1950, Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc không những súng đạn,
lương thực, chỉ huy, hậu cần, lănh đạo mà cả tư tưởng và tinh thần.
Điện văn của đảng Lao động Việt Nam gởi đảng Cộng Sản Trung Quốc sau
hội nghị đảng lần thứ hai tháng 3 năm 1951 như Hoàng Văn Hoan nhắc
lại trong hồi kư Giọt nước và biển cả: “Đảng Lao động Việt Nam
nguyện noi gương anh dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng
Mao Trạch Đông, tư tưởng lănh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc
Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ”.
Lịch sử chống ngoại
xâm đầy hy sinh xương máu của tổ tiên ta để có một nắm đất xây lên
đó một mái nhà tranh che nắng che mưa gọi là Việt Nam đối với lănh
đạo đảng là sản phẩm của tư duy phong kiến. Theo lư luận duy vật
lịch sử, mỗi h́nh thái sản xuất có một thượng tầng kiến trúc chính
trị, văn hóa, xă hội, nhân văn thích hợp, những ǵ của quá khứ đă
thuộc về quá khứ. Trong quan điểm của đảng, các nỗ lực của tổ tiên
ta nhằm ngăn chặn âm mưu đồng hóa của các triều đại Hán, Tấn, Tề,
Lương, Tùy, Đường, Tống, Minh v.v. đều mang tính lịch sử, tính giai
cấp chứ không phải tính văn hóa, tính truyền thống, xă hội xă hội
chủ nghĩa sẽ tươi đẹp hơn, con người xă hội chủ nghĩa văn minh hơn
và Trung Quốc sẽ đối xử với các nước nhỏ láng giềng b́nh đẳng trong
tinh thần quốc tế vô sản chứ không phải bằng tinh thần đại Hán.
Mục đích căn bản
của Ban nghiên cứu Lịch sử và địa lư Việt Nam được thành lập ngày 2
tháng 12 năm 1953 không phải nhằm tổng hợp các tài liệu lịch sử, địa
lư Việt Nam mà để “Góp phần vào việc bồi dưỡng lư luận về chủ nghĩa
Mác-Lênin và đường lối cách mạng của Đảng. Góp phần nâng cao tinh
thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân ta. Phê phán
những quan điểm, tư tưởng phản động sai lầm. Phát triển giao lưu văn
hóa, khoa học với các nước.” Với các mục đích phản ảnh tinh thần
vong thân nô lệ như thế, không lạ ǵ từ trung ương đảng cho đến các
chi bộ hạ tầng, từ các đại học cho đến các trường trung học phổ
thông, từ các nhà văn cho đến nhà thơ, không một tài liệu nào cho
thấy có một tiếng nói khác gióng lên hay một nhà nghiên cứu nào nêu
lên thắc mắc. Việc Trung Quốc quả quyết sách giáo khoa địa lư tại
miền bắc cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc
không phải là không có căn cứ.
Trong Tuyển tập Mao
Trạch Đông, họ Mao từng nhấn mạnh một cách hănh diện chín chục phần
trăm người Trung Hoa là gốc Hán, tuy nhiên, trong mắt lănh đạo đảng
CSVN, đám Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai không liên hệ
huyết thống ǵ với đám Tô Định, Mă Viện, Lưu Long thời Tây Hán, một
triều đại đă thực hiện các chính sách đồng hóa tổ tiên Việt Nam một
cách tàn bạo đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu phải thốt lên trong Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư, bản gỗ khắc năm Chính Ḥa 1697: “Xin trời v́ nước
Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà.”
Khai quật “công hàm
Phạm Văn Đồng” không phải là đề xác nhận giá trị pháp lư của mảnh
giấy lộn đó. Không một người, tổ chức, đảng phái nào có quyền sang
nhượng lănh thổ Việt Nam, nơi máu xương của bao nhiêu thế hệ đă thắm
lên từng nắm đất. Quyết tâm bảo vệ đất nước qua lời thề Lũng Nhai,
lời nguyền sông Hóa vẫn c̣n vang vọng. Thậm chí cho dù cái gọi là
quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ngày đó có thừa nhận Hoàng Sa
Trường Sa là của Trung Quốc đi nữa cũng chỉ là sự thừa nhận của một
nhóm người, của một đảng độc tài cai trị dân tộc bằng nhà tù sân bắn
chứ không phải đại diện cho tiếng nói của nhân dân Việt Nam.
Khai quật “công hàm
Phạm Văn Đồng” để thế hệ trẻ Việt Nam thấy bộ mặt thật phía sau
chiêu bài “giải phóng dân tộc” của các tầng lớp lănh đạo Cộng Sản
Việt Nam. Đảng im lặng không phải v́ đảng chưa nghĩ đến bốn cách gỡ
rối nêu trên mà chỉ v́ công hàm Phạm Văn Đồng là biểu tượng cho ư
thức vong bản của một thế hệ lănh đạo Cộng Sản đang được thần tượng
hóa tại Việt Nam. Đám mây đen Cộng Sản đă che khuất lương tri và
nhân tính Việt Nam trong con người họ. Giới lănh đạo đảng không dám
công khai tuyên bố hủy bỏ công hàm bởi v́ làm như thế là thừa nhận
sự u mê, bản chất phản quốc, phản dân tộc của đảng. Họ không đủ can
đảm để nguyền rùa chính ḿnh và ly khai với quá khứ của ḿnh.
Khai quật “công hàm
Phạm Văn Đồng” để những ai nghĩ rằng giới lănh đạo CSVN đă nhận thấy
hiểm họa Trung Quốc và chọn lựa đứng về phía Liên Xô để đưa đất nước
tiến nhanh hơn trên đường công nghiệp hóa chưa hẳn là đúng. Theo
Giáo Sư đại học Harvard Ezra F. Vogel trong tác phẩm Đặng Tiểu B́nh
và sự biến đổi Trung Hoa (Deng Xiaoping and the Transformation of
China), việc Đặng Tiểu B́nh đánh Việt Nam chỉ là chuyện bất đắc dĩ.
Sự xáo trộn chính trị nội bộ của Trung Quốc trong thời gian ngắn
trước và sau khi Mao chết với các thành phần cực tả khuynh loát
quyền hành và bản thân y bị thanh trừng, đă đẩy Việt Nam về phía
Liên Xô. Họ Đặng tin rằng nếu y lănh đạo, với việc nắm vững chính
trị Việt Nam và là người đă làm việc với hầu hết cấp lănh đạo đảng
CSVN từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Việt Nam có thể vẫn c̣n trong ṿng
kiểm soát của Trung Quốc mà không cần súng đạn. Nếu quả đúng và đă
diễn ra như Đặng Tiểu B́nh phát biểu, Việt Nam hôm nay dù chưa thành
một khu tự trị, cũng có thể đă là một nước nhỏ trong ṿng một nước
lớn Trung Hoa.
Khai quật “công hàm
Phạm Văn Đồng” để thấy cuộc chiến Việt Nam đă chấm dứt, đế quốc Mỹ
ra đi, đế quốc Liên Xô sụp đổ nhưng nợ máu xương giữa hai đảng Cộng
Sản Trung Quốc và Việt Nam phải trả bằng thân xác của những người
dân vô tội vẫn c̣n kéo dài cho đến ngày nay. Cuộc chiến biên giới
năm 1979 là một thất bại quân sự nhục nhă cho Đặng Tiểu B́nh. Trung
Quốc che giấu thất bại quân sự chua cay này bằng cách im lặng và
ngăn chặn việc phổ biến dưới mọi h́nh thức các tài liệu có liên quan
đến cuộc chiến. Zhou Xu Ke, một cựu chiến binh biên giới và tác giả
của cuốc sách do ông tự in lấy Cuộc chiến cuối cùng trả lời hăng tin
AFP: “Tại Trung Quốc, chính phủ tôn trọng lịch sử chẳng khác ǵ tôn
trọng chó.” Về phía Việt Nam cũng chẳng tốt lành hơn. Máu của thanh
niên Việt Nam đổ xuống để bảo vệ Lạng Sơn, Cao Bằng v.v… phát xuất
từ ḷng yêu nước trong sáng và xứng đáng được kính trọng nhưng khi
cuộc cờ tàn, chẳng c̣n ai nhắc nhở đến máu xương đó nữa. Sau cuộc
chiến tranh biên giới, Đặng Tiểu B́nh đă thay đổi cấp lănh đạo,
phương hướng phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng đến các nước tư
bản tự do; trong lúc đó giới lănh đạo Cộng Sản Việt Nam tự cô lập
trong chuyên chính vô sản, lạc hậu trong thời bao cấp, tem phiếu,
thu mua để rồi đưa đất nước đến thảm trạng nghèo đói tận cùng suốt
thập niên năm 1980.
Sau khi Liên Xô sụp
đổ, không c̣n ai che chỡ, giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại
lần nữa t́m về nương náu dưới chiếc bóng của đàn anh Trung Quốc. Hội
nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên
trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm
Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang
Trạch Dân và Lư Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm Phạm
Văn Đồng” khác. Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phân tích
một cách chi tiết các diễn tiến dẫn tới sự kiện Thành Đô trong hồi
kư của ông ta. Không ai, ngoài Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười và Nguyễn Văn
Linh, biết chính xác nội dung hội nghị bí mật Thành Đô nhưng qua
thái độ nhu nhược và phản ứng yếu hèn của giới lănh đạo CSVN trước
các hành động chiếm đảo, bắn tàu, cắt dây cáp, giết người tàn nhẫn
của hải quân Trung Quốc và mới đây bắt bớ hàng loạt người Việt gióng
lên tiếng nói bất b́nh, cho thấy nội dung bán nước trong “công hàm
Thành Đô” hẳn c̣n trầm trọng và chi tiết hơn cả “công hàm Phạm Văn
Đồng”.
Trong lễ kư kết
thỏa hiệp chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ
Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân không quên nhắc nhở đến các
cam kết cũ và xác định phương pháp mới trong quan hệ Việt Trung như
c̣n ghi lại trong Diễn Đàn Kinh Tế Việt Trung: “Hoan nghênh các đồng
chí Việt Nam sang Trung Quốc hội đàm với chúng tôi. Các đồng chí là
những người thuộc thế hệ lănh đạo lăo thành của Việt Nam, cũng là
những người bạn lăo thành quen biết của những người thuộc thế hệ
lănh đạo lăo thành của Trung Quốc; điều đáng tiếc là đă mười mấy năm
chưa được gặp nhau. Tôi và đồng chí Lư Bằng một hai năm gần đây tiếp
nhận công tác của bậc tiền bối lăo thành. Thật đúng là ‘trên sông
Trường Giang, ngọn sóng sau đẩy ngọn sóng trước, trên đời lớp người
mới thay lớp người cũ’. Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và
Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai
nước do những người lănh đạo thuộc thế hệ lăo thành xây dựng nên.”
Tại sao lănh đạo
Trung Quốc chấp nhận sự quy phục của lănh đạo CSVN? Bởi v́, (1) là
thế hệ chứng kiến sự tranh giành quyền lực giữa các lớp đàn anh,
Giang Trạch Dân biết tham vọng quyền lực đă ḥa trong mạch sống, hơi
thở, máu thịt của Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và giới
lănh đạo CSVN, (2) không giống như thời Liên Xô chưa sụp đổ, lần này
đảng CSVN không c̣n một con đường thoát nào khác, nhưng ba điểm sau
quan trong hơn, (3) Việt Nam là hành lang chiến lược trong vùng Nam
Á, (4) vào thời điểm 1990. đối tượng cạnh tranh của Trung Quốc không
c̣n là Việt Nam mà là Mỹ, Đức, Nhật và (5) mục tiêu bành trướng của
Trung Quốc cũng không phải chỉ là Hoàng Sa Trường Sa mà là cả vùng
Thái B́nh Dương.
Đọc hồi kư của Trần
Quang Cơ để thấy mặc dù nhân loại sắp bước vào một thiên niên kỷ
mới, nhận thức về chính trị và bang giao quốc tế của các lănh đạo
Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n ngây thơ đến tội nghiệp làm sao. Năm 1990,
khi Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu như những cánh bèo tan tác
ngoài cửa biển mà các lănh đạo Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n nghĩ đến
việc liên kết với Trung Quốc chống đế quốc Mỹ: “Các đồng chí Nguyễn
Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên c̣n nhấn vào âm
mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu” và
“Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xă hội chủ nghĩa cùng chống âm
mưu đế quốc xoá bỏ chủ nghĩa xă hội, phải cùng chống đế quốc.”
Cũng vào thời điểm
này, Đặng Tiểu B́nh đă viếng thăm và kư các thỏa hiệp kinh tế chính
trị với các quốc gia tư bản như Mỹ (1979), Anh (1984) cũng như mở
rộng hợp tác kinh tế với Đức vừa thống nhất và cựu thù Nhật Bản
nhưng các lănh đạo CSVN c̣n mơ mộng Trung Quốc sẽ thay mặt Liên Xô
giương cao ngọn cờ quốc tế vô sản. Đặng Tiểu B́nh không có mặt trong
hội nghị bí mật Thành Đô dù phía Trung Quốc đă hứa một phần v́ y
chưa nguôi cơn giận chiến tranh biên giới nhưng phần khác cũng v́
Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh không xứng đáng là đối
tượng thảo luận trong tầm nh́n của y về tương lai Trung Quốc và thế
giới, nói chi là số phận Việt Nam. Sau “công hàm Thành Đô” và tái
lập quan hệ giữa hai đảng vào ngày 7 tháng 11 năm 1991, các lănh đạo
CSVN thay phiên nhau triều cống Trung Quốc. Lê Đức Anh sang Trung
Quốc 28 tháng Giêng năm 1991, Đỗ Mười và Vơ Văn Kiệt sang Trung Quốc
5 tháng 11 năm 1991 và gần như hàng năm các lănh đạo CSVN luân phiên
nhau sang Trung Quốc để lập lại lời hứa phục tùng.
Sau khi đặt đảng
CSVN trở lại trong ṿng kiểm soát, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ
viện Trung Quốc thông qua “Luật Lănh hải và vùng tiếp giáp” quy định
lănh hải rộng 12 hải lư, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông
trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba
tháng sau đó, ngày 8 tháng 5 năm 1992 Trung Quốc kư hợp đồng khai
thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone của Mỹ, cho phép công
ty này thăm ḍ khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam,
nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Trung Quốc cũng hứa với
công ty Creston sẽ bảo vệ bằng vơ lực nếu Việt Nam can thiệp vào
công việc của họ. Ngoài các hoạt động khai thác dầu khí trong thềm
lục địa Việt Nam, Trung Quốc c̣n ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá,
thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa,
và cho phép hải quân Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam vô tội
không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần. Các lănh đạo Việt Nam, lo
cho sự sống c̣n của đảng Cộng Sản, đáp lại bằng những lời than văn
gần như giống nhau sau những lần Trung Quốc xâm phạm chủ quyền.
Tại sao Trung Quốc
không ngang ngược với Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Brunei, những
quốc gia đang tranh chấp chủ quyền Trường Sa? Bởi v́ các quốc gia đó
thật sự có chủ quyền chính trị, chính phủ trong sạch được bầu lên
một cách hợp pháp, có nhân dân hậu thuẩn, có quốc tế kính trọng, có
nhân loại cảm t́nh. Một chiếc tàu đánh cá treo quốc kỳ Nhật, quốc kỳ
Phi làm hải quân Trung Quốc e dè, kiêng nễ trong lúc tàu đánh cá
treo cờ đỏ sao vàng lại trở thành mục tiêu tác xạ. Thật vậy, với một
bên quyết tâm trả thù cho “một trăm năm sỉ nhục” bằng chủ trương
bành trướng khắp thế giới và một bên chỉ mong được tiếp tục đè đầu
cởi cỗ chính đồng bào ḿnh, lănh đạo Trung Quốc rất yên tâm v́ họ
biết rơ, ngày nào đảng Cộng Sản c̣n cai trị nhân dân Việt Nam, ngày
đó Trung Quốc c̣n chi phối đượcViệt Nam.
Nicholas D. Kristof
và Sheryl Wudunn, đồng tác giả của Trung Hoa thức dậy (China Wakes:
The Struggle for the Soul of a Rising Power) nhận xét rằng xung đột
có khả năng cao nhất sẽ dẫn đến chiến tranh tại Á Châu là xung đột
về các quần đảo trong biển đông. V́ đặc điểm địa lư chính trị, chiến
lược quân sự và là quốc gia duy nhất trong số các quốc gia tranh
chấp đă trực tiếp hy sinh xương máu trên hai quần đảo Hoàng Sa
Trường Sa, lănh thổ Việt Nam được hầu hết các nhà phân tích nhận xét
sẽ là điểm xuất phát của một cuộc tàn sát chưa từng thấy ở Á Châu.
Để đối phó với một
Trung Quốc đầy tham vọng, hầu hết các quốc gia có quyền lợi trong
vùng như Nam Dương, Mă Lai, Philippines đang làm mọi cách để phát
triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc pḥng hầu ngăn chận bàn chân
Trung Quốc. Các chính trị gia bảo thủ Nhật Bản kêu gọi sửa đổi hiến
pháp để cho phép nước Nhật tái trang bị. Sự thay đổi chính sách của
Miến Điện cụ thể qua việc ngưng công tŕnh đập do Trung Quốc hậu
thuẩn hồi tháng Chín năm 2010 và mở rộng hợp tác với Mỹ qua chuyến
thăm viếng của Ngoại trưởng Hillary Clinton lần đầu trong nửa thế kỷ
cho thấy một tập đoàn quân phiệt bị thế giới lên án cũng đă biết
“buông dao đồ tể”. Ngay cả Brunei, một quốc gia có dân số vỏn vẹn
400 ngàn cũng đang hiện đại hóa các phi đoàn trực thăng chiến đấu
bằng Blackhawk. Giới lănh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ biết nuốt
nhục để sống. Ngoài những lời tuyên bố về chủ quyền lấy lệ và những
thay đổi quốc pḥng giới hạn, họ không làm ǵ cụ thể hơn để đáp ứng
với hiểm hoạ chiến tranh lớn nhất trong lịch sử Á Châu sắp xảy ra
ngay trên lănh thổ Việt Nam.
Học sinh các lớp sử
thường đọc Mạc Đăng Dung đă cắt đất Vĩnh An, An Quảng gồm 6 động
dâng cho nhà Minh để thuộc vào Châu Khâm như đă ghi Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư. Sự kiện đó chưa hẳn đúng v́ Việt Sử Thông Giám Cương Mục
viết “Nay xét Khâm Châu chí của nhà Thanh, chỉ thấy chép đời Gia
Tĩnh (1522 – 1566 ), Đăng Dung nộp trả năm động Ti Phù, La Phù, Cổ
Sâm, Liễu Cát và Kim Lặc mà thôi, chứ không thấy nói đến động An
Lương. Lại tra cứu đến Quảng Yên sách th́ động An Lương hiện nay là
phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh nước ta.” Mạc Đăng Dung, trong hoàn
cảnh hai đầu đều có địch, buộc phải trả lại năm động vốn là đất của
Trung Hoa chứ chẳng dâng hiến phần đất nào thuộc lănh thổ Việt Nam
mà c̣n cứu được đất nước khỏi lâm vào ṿng lệ thuộc ngoại bang. Dù
sao, trong lúc “công hàm Mạc Đăng Dung” có thể có lư do tranh luận,
tội bán nước trong “công hàm Phạm Văn Đồng” quá hiển nhiên, rơ ràng
và chính tác giả khi c̣n sống cũng đă thừa nhận ḿnh đă kư.
Trước đây sử gia Lê
Văn Hưu đă thốt lên câu đứt ruột trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư: “Xin
trời v́ nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà”. Nếu
sử gia sống trong thời đại này, hẳn ngài sẽ đổi thành “Xin trời v́
nước Việt ta sớm đánh thức nhân dân để họ biết đứng lên, tự làm chủ
nước nhà.” Bởi v́ lịch sử đă chứng minh, không ai có thể cứu được
dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Vó ngựa quân Mông Cổ
sải từ Á sang Âu, chiếm gần 20 phần trăm trái đất, đốt cháy thành
than các thủ đô Kiev, Budapest, Baghdad, Bắc Kinh, vượt qua các sông
Hoàng Hà, Volga, Danube nhưng đă phải dừng lại bên sông Bạch Đằng,
Việt Nam. Kẻ thù thắng nhiều trận nhưng dân tộc Việt Nam luôn thắng
trận cuối cùng và quyết định. Hơn ai hết, giới lănh đạo Trung Quốc
phải thuộc bài học đó.
Như kẻ viết bài này
đă viết trước đây trong tiểu luận “Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa?” một
Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ
thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương tiện hữu hiệu nhất để
ngăn chận không những Trung Quốc mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào
muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ Việt Nam. Nếu
không làm được thế, không chỉ Hoàng Sa, Trường Sa, mà cả dân tộc lại
sẽ ch́m đắm trong họa đồng hóa của thời đại mới. Và khi đó, đừng đổ
thừa cho Trung Quốc mà chính sự khiếp nhược, ươn hèn, mê muội trong
mỗi chúng ta đă giết chết chính ḿnh và dân tộc ḿnh ●
© Trần Trung Đạo
* Tác giả gửi
trực tiếp cho Đàn Chim Việt