KHE SANH : ĐIỆN BIÊN PHỦ THỨ 2 TRONG CHIẾN TRANH VN
?
MƯỜNG GIANG
Trên tờ Washington Star ngày 9-6-1968 có đăng một bài
b́nh luận như sau ‘ Chắc chắn trận chiến tại Khe Sanh sẽ là một đề
tài lôi cuốn nhiều cuộc tranh luận kéo dài. Tuy nhiên dù ai có muốn
viết ǵ chăng nữa th́ cũng phải xác nhận rằng, chính nó mới là một
yếu tố quan trọng quyết định rút bỏ VN. Ngoài ra Khe Sanh c̣n nói
lên được tấm gương dũng căm phi thường của người chiến binh Mỹ và
đồng minh Nam VN tham chiến. Nên cuối cùng sớm muộn ǵ người dân Hoa
Kỳ cũng nhận ra chiến thắng đó
khi họ đă chạm với bộ mặt thật của CSVN ‘.
Và bốn mươi mốt năm sau, ngày 20-1-2009 tại Hoa Thịnh
Đốn, trong buổi lễ nhậm chức tân tổng thống Mỹ Barack Hussein Obama,
qua bài diễn văn có nhắc tới sự hy sinh dũng cảm của những người
lính Mỹ tại chiến trường Khe Sanh trong tỉnh Quảng Trị thuộc Vùng I
Chiến Thuật của VNCH, khi so sánh địa danh này với các trận đánh
lừng danh trong quân sử thế giới như Concord, Gettyburg và
Normandy..
Năm 1984 nhân dịp Lê Duẩn lúc đó
đang là tổng bí thư đảng VC có ghé trụ sở hội nhà văn quốc doanh gần
Hồ Tây, được Xuân Thiều (tạp chí văn nghệ quân đội) và Bùi B́nh Thi
(văn học) chất vấn về sự thất bại của VC trong trận Khe Sanh và Tết
Mậu Thân 1968. Cả hai đă được Duẩn trả lời như sau ‘ Trận Khe Sanh
và Tết Mậu Thân 1968 là những chiến thắng to lớn, có ư nghĩa buộc Mỹ
phải xuống thang chiến tranh. Hy sinh bao nhiêu cũng là xứng đáng
là cần thiết. Không có những chiến thắng này th́ không thể có toàn
thắng 30-4-1975.
Trong cuộc phỏng vấn của nử kư gia O. Fallaci với Vơ
Nguyên Giáp được J.Shepley chuyển ngữ và đăng trong Inteview with
History với đại ư của câu hỏi, là có phải Giáp đă tạo ra một Diện
Biên Phủ thứ 2 tại Khe Sanh để nhốt quân Mỹ hay không ? và Giáp đă
trả lời là chẳng bao giờ xăy ra điều này, v́ Khe Sanh lúc đó
chỉ quan trọng đối với mặt mũi của nước Mỹ mà thôi. Leo thang chiến
tranh tại Khe Sanh để gây thêm nổi chết chóc của cả hai phía, mới
thật sự thu hút dư luận Mỹ. Đó mới là chiến thắng sau cùng.
Thật sự đến bây giờ qua hàng ngàn tài liệu của nhiều
phía được giải mật có liên quan tới trận Khe Sanh (1967-1968) nhưng
cũng chưa có ai dám xác quyết về ư đồ của Hà Nội dùng trận đó
với âm mưu ‘ đánh
lạc hướng quân đội Mỹ để mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968
vào lảnh thổ VNCH ‘ hay lấy việc nướng quân trước bom đạn Mỹ tại Khe
Sanh để làm nản ḷng người Mỹ trước sự phụ họa của đám
phản chiến. Đồng thời Hà Nội gây áp lực với Tàu Đỏ viện trợ súng đạn
như lời thố lộ của Duẩn nói ḿnh đă mặc cả với Mao là sự hy sinh
nhiều hay ít của VC đều tùy thuộc vào nguồn quân viện của Trung Cộng
nhưng nhất định là phải thắng Mỹ dù có hy sinh thêm 2 hoặc 3 triệu
mạng người Việt.
Trong cuốn ‘ Chiến dịch đường 9 , Khe Sanh chung một
bóng cờ ‘ xuất bản tại Hà Nội năm 1993, VC có khoe thành tích chiến
thắng tại Khe Sanh với 17.000 tử thương trong đó
có 13.000 lính Mỹ và 4000 VNCH, 400 máy bay các loại bị bắn hạ, thu
được nhiều chiến lợi phẩm. Về phía Mỹ cho biết có 205 tử trận, bị
thương nặng nhẹ khoảng 1500 người. Riêng Tiểu Đoàn 21 và 37 Biệt
Động Quân/VNCH có 34 tử trận, VC bỏ xác tại chỗ hơn 2000 ngưới.
Nói chung qua 77 ngày tử chiến tại mặt trận Khe Sanh, trong cũng như
ngoài căn cứ kể luôn tai làng Vei, tính chung Mỹ và VNCH tử thương
khoảng 650 người, bị thương nặng nhẹ 2500 người. Về phía VC thương
vong từ 12000 ố 15000 người.
Cuối cùng Khe Sanh đă đứng vững và được giải tỏa trước
ṿng vây từ 15000 ố 20.000 quân Bắc Việt nhưng rồi cũng phải phá bỏ
căn cứ này vào cuối tháng 6-1968 v́ áp lực của phong trào phản chiến
đang tàn phá nước Mỹ v́ chiến tranh VN. Hởi ôi cái giá máu mà người
lính Mỹ và VNCH đă đổ tại Khe Sanh suốt mấy chục ngày tắm trong bom
đạn của kẻ thù, rốt cục được đem ra đánh
đổi để làm xoa dịu vừa ḷng đám
loạn tặc phản chiến, sau khi tướng Abrams thay thế tướng West làm tư
lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và Đồng Minh tại VN. Từ đó
cho tới khi có cuộc hành quân Hạ Lào 719, Khe Sanh và hành lang biên
giới Lào Việt được khoán trắng cho Không Quân Chiến Thuật và Chiến
Lược Hoa Kỳ ngày đêm
dội hàng ngàn tấn bom xuống một vùng đất chết v́ số lượng thuốc nổ
đă sử dụng tại đây nhiều gấp năm lần quả bom nguyên tử đầu tiên của
Mỹ chế được, đă thả xuống thành phố Trường Kỳ (Nagasaky) của Nhật
trong những ngày cuối của Thế chiến II.
1- KHE SANH : ĐIỆN BIÊN PHỦ THỨ 2 TRONG CHIẾN TRANH VN ?
Từ đầu năm 1966 qua sự chấp thuận của đại sứ Mỹ tại Lào
là William Sullivan nên đoàn nghiên cứu quan sát (SOG) đă có thể sử
dụng trực thăng để thả hay bốc các toán viễn thám hoạt động dọc theo
biên giới Lào-Việt với quân số trên 20 toán và vài đại đội xung kích
thuộc các sắc tộc thiểu số tại cao nguyên Trung Phần.
Thời gian này đơn vị SOG đă được trang bị súng tiểu liên
ṇng ngắn báng xếp CAR-15, trong khi QLVNCH lúc đó
chưa được cấp phát súng M-16. Mùa hè 1966, SOG thêm nhiệm vụ mới là
kiểm chứng các trận dội bom (Bomb Damage Assessment) do B-52 vừa mới
thực hiện. Nhờ vậy SOG cũng như các phi vụ không ảnh đă nắm được sự
hoạt động của cộng sản Bắc Việt đang hoạt động trên đường ṃn HCM.
Cũng trong năm 1966 SOG đă mở chiến dịch Shining Brass
qua 48 lần xâm nhập vào các căn cứ CSVN tại vùng phi quân sự, đường
số 9 tới Tchepone trên đất Lào và căn cứ Khe Sanh. Nhờ đó
SOG mới khám phá được địa danh ‘ Khe Núi Xe Đạp ‘ là một thung lũng
hẹp nơi phát xuât của đoàn xe đạp thồ đủ mọi thứ kể cả súng đạn từ
Bắc xuôi Nam với trọng tải mỗi chiếc trên 200 kư do dân công phụ
trách.
Tại căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt ở Khe Sanh, các toán viễn
thám thuộc SOG được vận chuyển bởi phi đoàn 219 thuộc KQ/VNCH do hai
phi công VN tài ba mang biệt danh là Cowboy và Mustachio nhưng sau đó
Mustachio đă đền nợ nước trong một phi vụ răi toán viễn thám Nevada
bị bắn hạ tại Khâm Đức (Kontum) .
Mùa thu năm 1966 Trung Tướng Lewis W Walt tư lệnh Đệ Tam
Thủy Bộ qua cuộc hành quân Hastings, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đă
đầy lui quân Bắc Việt về bên kia vỹ tuyến và lập hai căn cứ chiến
lược Cồn Thiên và Rockpile. Giai đoạn này các toán viễn thám được
thả sâu vào lảnh thổ Lào để nghe lén hoạt động của quân Bắc Việt qua
các đường dây điện thoại, nhờ vậy mới phát hiện VC đang chuẩn bị tấn
công vào hai tỉnh cực Bắc của VNCH.
Ngày 28-6-1966 nhiều toán viễn thám lần lượt bị tiêu
diệt khi nhảy vào các vị trí gần Khe Sanh. Cuối cùng toán viễn thám
Colorado cũng đạt được kết quả khám phá các căn cứ của quân CS Bắc
Việt bao quanh vùng này nhờ gắn được máy nghe lén các cuộc điện đàm
của địch.
Từ những ngày đầu của thâp niên 60 thời đệ nhất cộng ḥa
Nam VN, các cố vấn Hoa Kỳ đă có kế hoạch trùng tu và xây dựng các
căn cứ pḥng thủ ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội Bắc Việt
vào lảnh thổ VNCH mà Khe Sanh là một vị trí trọng yếu nhất. Đây là
một căn cứ yểm trợ hỏa lực cho Đệ Tam Thủy Bộ Mỹ, nằm gần một sân
bay cũ của Pháp. Khe Sanh c̣n là hậu cứ trực tiếp yểm trợ cho các
đơn vị Dân Sự Chiến Đấu thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt VN do Mỹ
yểm trợ, huấn luyện và chỉ huy. Cuối năm 1966 căn cứ chiến lược Làng
Vei nằm sát biên giới Lào Việt về hướng cực tây tỉnh Quảng Trị được
xây dựng hoàn tất, nên Lực Lượng Đặc Biệt đă di chuyển về đó
và bàn giao Khe Sanh cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Cũng từ đó
cho tới khi bị phá bỏ vào tháng 6-1968, Khe Sanh được trùng tu, xây
dựng và mở rộng mà đặc biệt nhất là công tŕnh tái tạo phi trường dă
chiến Pháp thành một sân bay chiến lược tối tân dài trên 5 km, có
đầy đũ phương tiện yểm trợ tiếp vận cho đơn vị đang pḥng thủ. Để
không bị cô lập như căn cứ Điện Biên Phủ của Pháp tại Lai Châu truớc
năm 1954, Hoa Kỳ đă mở nhiều cuộc hành quân kiểm soát, phát quang
toàn vùng bao quanh căn cứ. Nhiều cuộc đụng độ với quân Bắc Việt tại
Đồi 861 nơi có rất nhiều hầm hố giao thông hào kiên cố của giặc,
chứng tỏ chúng đang chuẩn bị tấn chiếm Khe Sanh.
Để ứng phó kịp thời trước âm mưu của cộng sản Bắc Việt,
nên nhiều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Bộ
thay phiên nhau hành quân để giải tỏa áp lực của cộng sản tại các
ngọn đồi 861, 881.. Nhờ vậy mới phát hiện thêm quyết tâm của Hà Nội
là phải tiêu diệt căn cứ Khe Sanh v́ nó là vết dao trí mạng đâm vào
yết hầu con đường xâm nhập HCM. Đó là lư do Bắc Việt đă tập trung
một lực lượng chính quy đông đảo bao quanh căn cứ này gồm có các sư
đoàn 325, 304, 324 và 320 được trang bị toàn vũ khí tối tân của Liên
Xô, Tàu, Đông Đức, Đông Âu như đại pháo ṇng dài, súng phóng hỏa
tiển và lực lượng thiết giáp hùng hậu..
Ngược gịng Việt Sử ta biết Khe Sanh lúc đầu chỉ là một
làng nhỏ, được thực dân Pháp khai thác lập các đồn điền trồng cà phê
qua chủ nhân đầu tiên là Eugène Poilane vào năm 1926, mở đường cho
nhiều người Pháp khác tới đây làm ăn v́ đất đai vùng này rất tốt.
Năm 1954 Việt Minh tấn công và chiếm Khe Sanh, chi phối bộ tộc Bru
có nguồn gốc Môn-Khmer chừng 50.000 người sống trong vùng từ Quảng
B́nh, Lao Bảo, Lào vào tới Khe Sanh. Từ tháng 3-1964 linh mục
Ponchet thuộc ḍng Father of Foreign Mission (Pháp) tới giảng và
truyền đạo tại đây nhưng ông đă bị cộng sản sát hại tại Huế trong
trận Tết Mậu Thân 1968.
Căn cứ Khe Sanh nằm cách biên giới Lào Việt chừng 14 km
về hướng cực tây quận Hương Hóa tỉnh Quảng Trị (VNCH), tọa lạc trên
một vị trí cao thuộc ngọn Đông Tre hùng dũng nhất trong vùng có phụ
lưu của sông Thạch Hản là Rao-Quan chảy qua. Vùng này chẳng khác nào
một ḷng chảo được bao bọc bởi đồi 881hướng bắc, 861, 558 và 881phía
nam kiểm soát các trục lộ quan trọng tới căn cứ và sân bay Khe Sanh.
Tất cả các ngọn đồi trên mọc đầy cây cối và tre nứa. Đây là nơi
tranh giành đẵm máu giữa quân Mỹ và Bắc Việt gần như suốt thời gian
căn cứ bị bao vây. Có khoảng 4000 TQLC Hoa Kỳ trấn đóng
tại đây được yểm tợ bởi một đơn vị pháo binh từ hướng tây bắc. Doanh
trại của LLĐB Hoa Kỳ nằm về mạn tây nam Làng Vei trên QL9 kế trại tù
nổi tiếng Lao Bảo sát biên giới Lào. Tóm lại nhiệm vụ của căn cứ Khe
Sanh được coi như một bàn đạp để bộ binh và pháo binh Hoa Kỳ đánh
phá ngăn chận trục tiến quân của cộng sản Bắc Việt trên đường ṃn
HCM. Ngoài ra c̣n là một cứ điểm quân sự chiến lược của VC trong
trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Quảng Trị và Huế-Thừa Thiên.
Trước t́nh thế nguy ngập trên nên Tướng Westmoreland tư
lệnh lực lượng Đồng Minh và Hoa Kỳ đang tham chiến tại VN, đă quyết
định phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá dù biết ưu thế đang thuộc về Bắc
quân. Hơn nữa địa thế của căn cứ này vô cùng bất lợi về phương diện
pḥng thủ, cũng chẳng khác Điện Biên Phủ là mấy v́ nằm lọt thỏm giữa
một thung lũng bao quanh là các ngọn đồi cao gần như che hết tầm
quan sát từ bên trong. Ngoài ra cộng sản Bắc Việt c̣n đào
được hai hệ thống giao thông hào ở phía bắc khu phi quân sự và bên
kia biên giới Lào, thiết lập dàn điạ pháo mà khoảng cách chỉ có 14
km ,có thể tấn công căn cứ ngày đêm.
Những tháng đầu năm 1967 quân số thuờng xuyen trấn giữ
căn cứ chừng một đại đội thuộc Trung đoàn 9 TQLC thay phiên hoán
đổi. Bên cạnh c̣n có một pháo đội cơ hửu của Tiểu đoàn 2/12 với 2
khẩu đại bác 155 ly và hai súng cối 4,2 yểm trợ. Nhưng sau khi một
đơn vị TQLC Hoa Kỳ trong lúc tuần tiểu ngoài căn cứ chừng 1 km đă
đụng độ nặng với quân Bắc Việt, đồng lúc trong đồn cũng bị pháo kích
liên tục. Do trên Khe Sanh được tăng cường thêm Đại Đội E thuộc
TD2/9 TQLC và đơn vị này đă chạm địch ngày 15-3-1967 tại đồi 861
khiến nhiều binh sĩ bị thương vong.
Nh?ng tới ngày 24/4/1967 mới chính thức mở màn các trận
chiến giữa hai bên trong giai đoạn 1, để tranh dành các ngọn đồi
chiến lược quanh căn cứ. Cũng từ đó
các đơn vị TQLC được tăng viện tới Khe Sanh gồm các tiểu đoàn 2 và
3/3 cùng với pháo đội B thuộc TD1/12 PB. Nhờ các cuộc oanh kích dữ
dội của B-52 nên các đơn vị TQLC Hoa Kỳ đă làm chủ hoàn toàn các
ngọn đồi 861, 881. Ngày 3 tháng 5, lần đầu tiên CS Bắc Việt tấn công
căn cứ LLDB tai Làng Vei nhưng chỉ gây tổn thất nhỏ cho quân trú
pḥng.
Để mở đầu cho cuộc tấn công vào Khe Sanh, quân Bắc Việt
đă gây áp lực mạnh tại căn cứ Cồn Thiên sát khu phi quân sự vào
những tháng cuối năm 1967 để phân tán các đơn vị TQLC tại Khe Sanh.
Một tuần trước khi xăy ra trận chiến thật sự, CS đă tấn chiếm đồn
biên giới Ban Houli Sane do 2000 quân Hoàng gia Lào trấn giữ. T́nh
h́nh căng thẳng thêm nên đă có 4 tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ (gồm 3 TD của
Trung đoàn 26 và TD 1/13) hiện diện tại Khe Sanh từ đầu tháng
1-1968. Nhiều đơn vị pháo binh và thiết giáp gồm chiến xa M-48 kể cả
thiết vận xa M-113 đă có mặt tại đây vào giữa tháng 1-68 cộng với sự
kiên cố của các ṿng pḥng thủ có đặt ḿn dầy đặc từ trong ra ngoài,
sẳn sàng đón
nhận sự tấn công của địch bất cứ lúc nào.
Đặc biệt trong căn cứ c̣n được thiết kế một hệ thống
giao thông hào chạy ṿng doanh trại, vừa giúp quân pḥng trú di
chuyển chiến đấu trong lửa đạn và nó cũng là sinh lộ khi đồn bị thất
thủ hay tràn ngập. Đồng lúc các tiền đồn trên những ngọn đồi chiến
lược được tăng cường thêm kiến cố, khiến cho quân Bắc Việt không dám
tới gần Khe Sanh v́ sợ bị phát hiện.
+ Ngày 21-1-1968 Mở Màn Cuộc Tổng Tấn Công Khe Sanh :
Đây là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Bắc Việt đă
tung vào chiến trường một lực lượng hơn 20.000 của sư đoàn 304 và
325, quân số đông gấp 3 lần Hoa Kỳ có mặt tại trận địa gồm 2 trung
đoàn TQLC Mỷ và tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân/VNCH (chừng 6000 người).
Chiến thuật cố hữu của Hà Nội sau trước vẫn là ‘ lấy thịt đè
người ‘ với địa pháo như mưa sau đó
biển người tràn ngập, bất chấp đạn bom ḿn bẩy và sinh mạng của cán
binh.
Tất cả như Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp đă nói ‘ không cần
chiến thắng v́ Khe Sanh không cần thiết với chúng, nó chỉ quan trọng
với thể diện của người Mỹ ‘ . V́ vậy Khe Sanh đă biến thành địa ngục
trần gian từ giây phút đầu với quyết tâm nướng người trên biển lửa
của các cấp lảnh đạo cộng sản. Những trận tấn công cảm tử khắp các
mặt trận và địa pháo liên tục ngày đêm
của Bắc Việt, được báo chí truyền thông phương tây và Mỹ đem về
tŕnh chiếu tại Hoa Kỳ, đă trở thành những dư luận tồi tệ và nổi
hoang mang cả nước về một trận Điện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh.
Sự chết chóc của quân đội Mỹ tại chiến trường đă được tường thuật
theo lũy thừa nhân qua đầu óc mao tôn cương của đám
kư giả da trắng da màu bản xứ bất lương, càng tác động thêm sự chán
ghét và chống đối chiến tranh, vô t́nh đem lại chiến thắng từ trên
trời rớt xuống, mà VC không bao giờ có thể đạt được tại chiến
trường.
Trong đợt công kích dữ dội này, pháo địch đă làm nổ tung
kho đạn dự trữ lớn nhất trong căn cứ, thiêu hủy nhiều trực thăng tại
băi đáp
kế cận. Dă man nhất là quân Bắc Việt đă tràn ngập bản thượng tại
Làng Vei, tàn sát đồng bào vô tội, khiến mọi người phải bỏ nhà cửa
chạy vào các căn cứ quân sự xin tị nạn. Trước sự đau khổ và chết
chóc của dân chúng, nhiều đơn vị TQLC đă chiến đấu với giặc Cộng cả
ngày 27-1 mới mở được con đường máu, đem tất cả dân làng về căn cứ
và di chuyển họ bằng phi cơ về lánh nạn tại Đà Nẳng.
Đại tá Lownds , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 26 TQLC
cũng là chỉ huy trưởng của căn cứ Khe Sanh đă phải đối diện với
nhiều vấn đề nan giải như thay thế 1500 tấn đạn dược bị tiêu hủy,
sữa chữa phi đạo bị pháo kích làm hư hại khiến cho loại vận tải cơ
C-130 không đáp
được. Ngoài ra c̣n phải giải quyết hàng trăm người tị nạn và đơn vị
Địa Phương Quân/VNCH tại xă Khe Sanh đang tràn ngập trong căn cứ.
Ngày 22-1 các phi cơ nhỏ C-123 tiếp tế khẩn cấp 130 tấn
đạn các loại, đồng thời tiểu đoàn 1/9 cũng tới tăng viện đóng
quân tại hướng tây căn cứ. Công cuộc pḥng thủ được sắp xếp để thích
ứng với t́nh h́nh bằng cách dời xa thêm các vị tr1 tới chân đồi 950
băng ngang qua sông Rao-Quan và đồi 881 Nam. Ngày 27-1 Liên Đoàn
1 BDQ/VNCH tăng cường cho Khe Sanh với một đại đội thuộc tiểu đoàn
21 và toàn bộ tiểu đoàn 37/BDQ do thiếu tá Hoàng Phổ chỉ huy. Dù
được chỉ định pḥng thủ tuyến lửa xa nhất và nằm ngoài ṿng đai căn
cứ cuối phi đạo dài hơn 1500m. Tuy nhiên QLVNCH tại Khe Sanh đă giữ
vững được vị trí của ḿnh tới khi tàn cuộc chiến trước sự thán phục
và ngưỡng mộ của TQLC Hoa Kỳ. Đây là môt lưc lượng mạnh và đắc lực
nhất đă cứu văn hệ thống pḥng thủ yếu ớt tại vị trí đăm nhận.
Tuần lê cuối cùng của tháng 1-1968 dù Cộng quân không
ngớt pháo kích và tấn công nhưng phi đạo cũng được sửa sang hoàn tất
để các loại vận tải cơ hạng nặng lên xuống tiếp tế và tải thương,
chở người tị nạn về Đà Nẳng. Lợi dụng sương mù dày đặc gần như che
kín bầu trời phía tây Quảng Trị, ngày 23/1 VC đă mỡ màn trận địa
pháo bằng các khẩu 152 ly do Nga viện trợ, được đặt tại hai hệ thống
giao thông hào phía bắc vỹ tuyến 17 và bên kia biên giới Lào, tập
trung đổ vào Khe Sanh liên tục không ngừng. Các đơn vị chính qui của
Bắc Việt nhân cơ hội này cũng áp sát đến phi đạo, hai bên chỉ c̣n
cách nhau chừng 400m. Tại đây VC đào
hầm hố cá nhân và chuẩn bị một cuốc tấn công.
Nhưng ngày 24/1 trời Quảng Trị bổng quang đảng trở lại,
nên hơn 450 phi xuất của không lực Hoa Kỳ đều đổ xuống Khe Sanh cho
dù pháo binh pḥng không của VC rất dữ dội làm thiệt hại nhiều phi
cơ khi công tác. Bên ngoài các lực lượng khác của TQLC Mỹ vẫn bám
chặt chiến trường, mở lại quốc lộ số 9 để nhận tiếp liệu. Theo ước
lượng của của các nhà quân sự, vào lúc đó
Bắc Việt đă tập trung trong khu vực từ Cồn Thiên, Gio Linh , Làng
Vei tới Khe Sanh chừng 50.000 quân chủ lực, để chuẩn bị một trận đánh
lớn. Đặc biệt cả Mỹ lẫn VC đều tuyên bố không có hưu chiến vào
ngày tết nguyên đán
Mậu Thân (31-1-1968) tại 5 tỉnh cực bắc thuộc quân khu I VNCH.
+ Ngày 29-1-1968 : Đêm 30 Tết Mậu Thân, VC Tấn Công VNCH.
Trước t́nh h́nh quân sự đang nóng bỏng tại Khe Sanh nên
chính phủ VNCH đă ban lệnh hưu chiến vào những ngày đầu Tết Mậu Thân
từ 48 giờ, nay chỉ c̣n hiệu lực 36 tiếng, bắt đầu từ 18 giờ ngày
29-1 đến 6 giờ ngày 31-1-1968.
Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến có hiệu lực, Hà Nội
đă mở một cuộc tổng công kích trên toàn thể lảnh thổ VNCH , trong
giờ phút linh thiêng mọi người đang đón
mừng và cúng kính trong năm mới. Vào lúc giao thừa (29-1-1968) cũng
là đêm
30 tết, các thị xă Qui Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Nha Trang.. là
những mục tiêu bị VC tấn công đầu tiên. Có điều quân Bắc Việt không
hề tấn công vào bất cứ một vị trí nào của quân Mỹ và Đồng Minh trong
đợt này.
Nhưng t́nh h́nh tại Khe Sanh th́ khác v́ chiến cuộc đă
bắt đầu tàn khốc bằng những trận pháo kích dồn dập không dứt, những
trận đánh
đẳm máu quanh căn cứ và các tiền đồn trên đồi 861 và 881 Nam. Nhưng
hầu hết các cuộc tấn công đều bị bẽ gảy nhờ có không trợ và pháo yểm
rất chính xác. Tóm lại căn cứ rất an toàn nhờ hệ thống pḥng thủ
kiên cố nhất là sự hiện diện của Biệt Động Quân VNCH.
Ngày 7-2-1968 với sự yểm trợ của 10 chiến xa PT-76 do
Liên Sô chế tạo, quân Bắc Việt đă tấn công và tràn ngập Trại Lực
Lượng Đặc Biệt Làng Vei nằm sát biên giới Lào. Cộng Sản đă tàn sát
tất cả 9 cố vấn Mỹ và hơn 300 dân sự chiến đấu. Một số chiến xa bị
LL đặc biệt bắn cháy nhưng số c̣n lại đă truy giết những quân nhân
Biệt Kích và Địa Phương Quân VNCH c̣n sống sót , cùng đồng bào Làng
Vei chạy về căn cứ Khe Sanh đang bị vây hăm, trong số này có nhiều
đặc công VC trà trộn theo. Nhưng sau đó
đều bị LLDB tiêu diệt.
Tuy vậy, tướng Westmoreland vẫn quyết định giữ vững Khe
Sanh như một thách đố để chứng tỏ với thế giới và bọn chóp bu Hà
Nội, về khả năng vô địch của không quân Mỹ nhất là các pháo đài
bay B-52 sẽ không bao giờ cho phép cộng sản Bắc Việt mơ tưởng việc
tái diễn cái gọi là Điện Biên Phủ thứ 2 tại đây.
Ngày 9-2 tiểu đoàn 1/9 TQLC đă tái chiếm lại tiền đồn
Hầm Đá ngoài căn cứ sau một đêm
lọt vào tay cộng quân. Các tuần lễ liên tiếp vào những ngày thời
tiết tốt, hàng ngàn phi vụ của Hải, Không quân và TQLC thi nhau trút
bom đạn vào những hầm hố giao thông hào như mạng nhện của VC đào
cố thủ quanh căn cứ, B-52 đă biến các đồi núi nằm ngoài chu vi an
toàn thành cơi hoang vu không có sự sống, qua chiến dịch không tập ‘
Niagara ‘ kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh VN.
Nhưng như Duẩn, Giáp đă tuyên bố ‘ phải chiến thắng Mỹ
dù có phải đột rụi Trường Sơn hay hy sinh thêm vài triệu cán binh bộ
đội miền Bắc, th́ cũng đáng
‘.Do đó
măc cho bom đạn trút xuống như mưa, cộng sản Bắc Việt vẫn bám trụ
trong hầm hố giao thông hào , nhắm bắn các máy bay vận tải C-130 lên
xuống tiếp tế và tải thương cho căn cứ. V́ có nhiều máy bay loại này
bị bắn hạ nên Hoa Kỳ quyết định dùng C-123 thay thế v́ loại này cất
cánh nhanh và có thể đáp
xuống phi đạo ngắn.
Ngày 28-2, quân Bắc Việt thuộc sư đoàn 304 mở ba cuộc
tấn công vào tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 37 BDQ/VNCH nhưng bị đẩy
lui. Đây là đợt tấn công cuối cùng vào Khe Sanh v́ suốt tháng 3-1968
cộng sản chỉ c̣n pháo kích mà thôi. Để giải toả áp lực cho căn cứ,
từ 1 tới 12-4-68 tướng West quyết định tổ chức các cuộc hành quân
Pegasus Hoa Kỳ và hành quân Lam Sơn 207A của QLVNCH do thiếu tướng
J.J Tolson chỉ huy tổng quát. Quân số tham dự khoảng 10.000 người
của 3 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 kỵ binh không vận cộng với Trung doàn
1 và 26 TQLC Hoa Kỳ. Phía VNCH có Chiến đoàn 3 Dù (TD 3,6 và 8) do
Đại tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy.
Trước một ngày, sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ và sư đoàn 1 VNCH
mở cuộc hành quân nghi binh tại Cồn Thiên và Gio Linh, kết thúc ngày
1-5-68 qua các cuộc chạm súng không đáng
kể. Trong khi đó,
cuộc hành quân giải toả Khe Sanh được thực hiện bằng hai gọng kềm,
một mặt các tiểu đoàn TQLC từ Cà Lu theo quốc lộ 9 tiến về căn cứ,
c̣n các đơn vị kỵ binh không vận được trực thăng đổ xuống các băi đáp
cách Khe Sanh chừng 5 dặm để mở các cuộc hành quân theo hướng đồn
Pháp cũ tiến về căn cứ. Ngày 6-4 các đơn vị kỵ binh không vận đă bắt
tạy được với TQLC Khe Sanh tại đồi 471,552,558, 689.
Riêng 3 tiểu đoàn thuộc chiến đoàn 3 Dù/VNCH được trực
thăng vận về hướng tây nam Khe Sanh ngày 7-4-68 đă dụng độ và sau
nữa giờ giao tranh, cộng quân đă chém vè để lại nhiều xác chết. Ngày
8-4 lúc 8 giờ sáng, lực lượng ky binh không vận vào Khe Sanh. 10-4
KBKV tái chiếm trại lực lượng làng Vei. Ngày 14-4 tiểu đoàn 3/26 tái
chiếm đồi 881 Bắc. Ngày 15-4 chấm dứt hai cuộc hành quân Pegasus và
Lam Sơn 207A giải tỏa Khe Sanh, Chiến đoàn 3 Dù về Huế c̣n 2 lử đoàn
của Sư đoàn 1 KBKV ở lai Khe Sanh thay thế cho 4 tiểu đoàn TQLC đă
trấn thủ căn cứ, để tiếp tục càn quét tàn quân Bắc Việt trong các
khu vực phụ cận.
Ngày 6-7-1968 người lính Mỹ cuối cùng rời căn cứ Khe
Sanh, thay vào đó
là các cuộc hành quân lưu động của quân đoàn III thủy bộ Hoa Kỳ và
các cuộc dội bom của không quân chiến thuật Mỹ v́ đây là vùng oanh
kích tự do, cho tới khi QLVNCH mở cuộc hành quân Hạ Lào 719 năm
1971, căn cứ Khe Sanh mới được sử dụng lại.
2-TIỂU ĐOÀN 37 BĐQ THAM CHIẾN TẠI KHE SANH :
Binh chủng Biệt Động Quân ra đời ngày 1-7-1960 qua sự chấp thuận của
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Những đại đội biệt lập đầu tiên, được huấn
luyện chiến thuật phản du kích, chống xâm nhập của cán binh bộ đội
Bắc Việt. Cũng từ đó
cho tới ngày 30-4-1975 Miền Nam sụp đổ, người lính BDQ là những
chiến sĩ dũng cảm can trường trên khắp các mặt trận, không thua kém
bất cứ một quân binh chủng nào của QLVNCH. Từ năm 1970 các trại dân
sự chiến đấu do Hoa Kỳ và VN thành lập, dọc theo biên giới
Việt-Lào-Miên được sáp nhập vào binh chủng thành các tiểu đoàn Biệt
Động Quân Biên Pḥng, nâng tổng số BDQ lên tới 40.000 người. Ngày
10-4-1975 Sư đoàn 106 BDQ ra đời với nhiệm vụ đăm trách pḥng thủ
ṿng đai Sài G̣n-Chợ Lớn cho tới khi được lệnh ră ngũ.
Nhiều tiểu đoàn BDQ được tuyên dương trước quân đội cũng
như được nhận huy chương cao quí của tổng thống Hoa Kỳ, trong đó
có TD44BDQ của Thiếu tá Lê Văn Dần, tiểu đoàn 52 BDQ , tiểu đoàn 42
BDQ của Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt và Tiểu đoàn 37 BDQ của Thiếu tá
Hoàng Phổ, đơn vị VN duy nhất tham dự trận Khe Sanh.
Vào những ngày cuối tháng 1-1968 t́nh h́nh quân sự tại
Khe Sanh đă trở nên nguy ngập trước áp lực thí quân biển người của
Bắc Việt. Do đó
Trung tướng Robert E.Cushman Jr, tư lệnh Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ quyết
định tăng cường thêm cho căn cứ này Tiểu đoàn 1/9 TQLC Mỹ và Tiểu
đoàn 37 BDQ/VNCH + một Đại đội của Tiểu đoàn 21 BDQ vào ngày
27-1-1968 nâng tổng số quân pḥng thủ lên tới 6000 người.
Vừa mới tham dự trận Thạch Trụ (Quảng Ngăi) chưa được về
hậu cứ để dưỡng quân và thay đổi quân trang cũng như lảnh lương, th́
có lệnh của Liên Đoàn 1 BDQ tăng phái cho TQLC Hoa Kỳ tại Khe Sanh.
Không ai biết chỉ huy trưởng căn cứ lúc đó
là Đại tá Lownds đă nghĩ ǵ, hoặc là không tin tưởng vào QLVNCH hay
muốn thử sự can trường dũng mảnh của hai con cọp khét tiếng miền địa
đầu giới tuyến, nên đă chỉ định BDQ/VNCH pḥng thủ một vị trí dài
1500m, nằm ngoài ṿng đai căn cứ về phía đông cuối phi đạo, đối diện
thường trực từng phút, đạn pháo của VC nhắm vào các loại phi cơ lên
xuống Khe Sanh.
Thân phận bèo bọt của đời lính trận VNCH là thế đó,
đem máu và mạng sống để tô đậm thêm màu cờ sắc áo quân đôi, giữ vững
từng tất đất quê hương để các thế hệ Miền Nam vui sống an lành tại
hậu phương. Một số may mắn tới được bờ đất hứa, nay thành danh thành
người nhưng họ đă quên hết những ân t́nh trời biển của người lính
trận, vẫn ngạo khinh chối bỏ sự hy sinh cao quí của cha anh ngày
trước, mà vong nguồn rộng miệng và trên hết thay đổi tính người để
trở thành những con thú người hai chân, quay cuồng múa máy lập dị
khật khùng, khiến cho cha anh của họ phải trùm đầu bôi mặt khi phải
đối diện với đồng đội đồng bào.
Tiểu đoàn 37 BDQ + 1 Đại đội tăng phái của TD 21 nhận
lănh vị trí của TQLC nên nơi này đă có sẳn hầm hố và giao thông hào
từ trước. Trong lúc người lính Hoa Kỳ tại căn cứ đều đặn được nhận
lảnh lương bổng, tiếp tế thực phẩm thay đổi quân trang thuốc men,
th́ người lính BDQ/VNCH ở Khe Sanh không có lương nhiều tháng, không
được tăng viện để thay thế sự tổn thất thương vong qua các cuộc đụng
độ và pháo kích của cộng quân. Rồi ai nấy đều lo lắng cho số phận
của gia đ́nh
ḿnh trong cơn loạn lạc máu lửa khi cộng sản phát động trận Tết Mậu
Thân khắp Miền Nam từ đêm
30 Tết Mậu Thân (27-1-1968).
Ken Pipes, một sĩ quan TQLC tại Khe Sanh tự hỏi nếu là
người lính Hoa Kỳ trong hoàn cảnh như vậy, liệu họ có c̣n tinh thần
để tiếp tục chiến đấu hay không ? Vây mà binh sĩ dưới quyền của
Thiếu Tá Hoàng Phổ vẫn pḥng thủ vững vàng vị trí trong đêm,
ban ngày th́ tung quân đột kích thẳng vào pḥng tuyến của giặc, lấy
được nhiều chiến lợi phẩm trong đó có đại bác không giật tối tân mới
được Nga chế tạo. Tóm lại như lời kết luận của Pipes ‘ Họ rất hănh
diện được chiến đấu chung với sĩ quan và binh sĩ của TD37 BDQ/VNCH,
một đơn vị đồng minh nổi tiếng rất xứng đáng
được Hoa Kỳ xưng tụng ‘.
Từ ngày 29-1-1968, TD 37 BDQ đă đụng độ với VC khi tung
quân hoạt động bên ngoài. Ngày 21-2-68, quân Bắc Việt mở một cuộc
pháo kích dữ đội bằng đạn đại bác và hỏa tiển nhắm vào vị trí pḥng
thủ của TD37 BDQ. Xế trưa cùng ngày, một tiểu đoàn VC mở cuộc tấn
công BDQ nhưng đă bị đẩy lui bỏ lại nhiều xác chết. Ngày 23-2 VC
pháo kích vào vị trí BDQ 1307 đạn pháo kích đủ loại. Ngày 29-2-68
vào lúc 10 giờ 15 phút tối, VC mở ba cuộc tấn công vào các vị trí
pḥng thủ của TD37BDQ, cuộc giao tranh kéo dài tới 4 giờ 30 sáng th́
giặc chém ve, bỏ lại tại trận địa 78 xác chết và nhiều vũ khí cá
nhân cũng như cộng đồng. Tóm lại trận chiến Khe Sanh 1968, TD37 và
một đại đội tăng phái của TD21BDQ tham chiến tại Khe Sanh, đă làm
rạng rỡ màu cờ sắc áo của binh chủng BDQ Mũ Nâu, đồng thời đem lại
sự kính phục cảm t́nh của quân đội Hoa Kỳ trước sự chiến đấu can
trường và nhất là
tinh thần trách nhiệm, kỷ luật của người lính VNCH.
Có một câu chuyện thật cảm động và thắm thiết t́nh huynh
đệ chi binh liên quan tới sự tham chiến của Tiểu đoan 37 BDQ tại Khe
Sanh. Đó là việc Đại Tá Trần Văn Hai lúc đó
là Chỉ Huy Trưởng/ BDQ/VNCH đă bất chấp nguy hiểm tới tính mạng, khi
ông đă cùng Thiếu tá Ngô Minh Hồng (trưởng pḥng 3) và Đại úy Trần
Đ́nh Đàng (trưởng pḥng 1) từ Sài G̣n ra Đà Nẳng, theo các chuyến
bay tiếp tế và tải thương C-130 hay C-123 tới tận địa ngục Khe Sanh
để thăm viếng ủy lạo cũng như chia sớt bớt phần nào nổi tân khổ chạm
đáy
kiếp đời của người lính BDQ/VNCH thuộc TD21 và 37 đang tăng phái
chiến đấu tại đây.
Ngoài ra c̣n có Nhiếp Ảnh Gia Chiến Trường số 1 Miền Nam
là Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Hạnh và Phóng viên Quân đội Hữu Nhơn cũng đă
lặn lội tới đây để ḥa ḿnh với người lính trận BDQ. Hai ông đă
nhiều lần bị thương khi theo các toán cảm tử BDQ trong các cuộc đột
kích vào pḥng tuyến địch. Nhờ vậy đă chụp được nhiều h́nh ảnh xác
thực và giá trị nói lên sự hy sinh cao cả của lính chiến VNCH. Riêng
phóng viên Hữu Nhơn đă viết những bài tường thuật thật cảm động về
sự can trường anh dũng của TD37 BDQ, khiến cho ai đọc tới cũng không
cầm nổi nước mắt trước nổi cực khổ và chết chóc có một không hai của
đời lính bất hạnh Miền Nam và thân phận nhược tiểu của Người VN cả
nước trong tṛ hề biển lận nghĩa nhân của bọn đế quốc tư bản và cộng
sản quốc tế.
Trưa 30-4-1975 khi có lệnh đầu hàng buông súng, Chuẩn
Tướng Trần Văn Hai lúc đó là Tư lệnh Sư đoàn 7 BB kiêm Chỉ huy
trưởng căn cứ Đồng Tâm, cựu Chỉ Huy Trưởng BDQ/VNCH đă quyên sinh
tại bản doanh đơn vị, quyết không để cho giặc làm nhục. Ông đă cùng
với các tướng lănh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê
Nguyên Vỹ.. làm rạng danh muôn đời QLVNCH về tấm gương hào hùng,
oanh liệt và xứng đáng
để cho các thế hệ VN noi gương cho dù họ có thương ghét, ca tụng hay
chối bỏ.
Từ Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 2-2012
Mường Giang