Khi tiếng khóc chính
là lời tố cáo
© 2011 Trần Trung Đạo
Tang lễ của Mẹ Theresa năm 1997 tại Ấn Độ
Dù dưới một quan điểm tôn giáo nào, sự có mặt của con người trên thế
giới này chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Với tác
giả bài viết này và có lẽ với nhiều độc giả, tiếng sóng vỗ vào thành
ghe trong một đêm giông băo như vẫn c̣n vang vọng đâu đây nhưng đă
hơn 30 năm rồi. Một triết gia đă viết, mỗi bước
chân ta đi trong ngày là một bước gần hơn đến với ngôi mộ của ḿnh.
Con
người sinh ra đều trơ trụi giống nhau nhưng cuộc đời và cách chết đă
làm họ khác nhau. Có những người chết đi để lại nhiều lợi lạc cho
hậu thế, một cách sống đạo đức cho con cháu noi gương nhưng cũng có
những kẻ chết đi, dù được che đậy dưới lớp hào quang giả tạo rực rỡ
dường nào hay bức tường thành thông tin bưng bít dày đến bao nhiêu,
tội ác của họ cũng có một ngày được phanh phui để lộ nguyên h́nh
những ác nhân thời đại. Con khủng long chết 65 triệu năm trước vẫn
được t́m ra,
nói chi là con người. Lịch sử là lương tri và từ
sơ khai đến hiện đại lịch sử luôn phán xét công bằng, cho đến nay
chưa ai tránh thoát.
Một
buổi sáng tháng Chín 1997, trên đường phố Calcutta, hàng triệu dân
Ấn đứng dọc hai bên đường để tiễn đưa một nữ tu đă dâng hiến gần
trọn đời ḿnh cho lớp người cùng khổ. Con đường đó, từ 1929, nữ tu
gốc Albany thuộc ḍng Loreto Sisters đặt chân đến lần đầu khi mới 19
tuổi. Vỉa hè Calcutta là nơi nữ tu thường đến để ngồi
an ủi những người đang chết. Không có
ngay cả một viên thuốc, nữ tu chỉ biết cầm lấy bàn
tay đầy máu mủ của bịnh nhân và xua đuổi
đi bầy kiến đang bám lên vết thương đau nhức.
Nhiều bịnh nhân đă đáp lại bằng cách mỉm cười thay cho lời cám ơn
trước khi hắt ra hơi thở cuối cùng. Và những khu nhà ổ chuột
Calcutta này là nơi chiều chiều nữ tu một tay
cầm một chiếc khăn và tay kia cầm một cục xà pḥng đến tắm cho trẻ
em nghèo trong xóm. Nhiều năm sau, chính đám trẻ
này là những người đầu tiên gọi nữ tu là mẹ.
Mẹ Teresa như nhân loại biết hôm nay.
Ngày 5 tháng 9 năm 1997 mẹ không đến nữa v́ hôm
đó là ngày mẹ ra đi. Quan tài Mẹ Teresa
được phủ quốc kỳ Ấn Độ thay v́ Albania, nơi mẹ chưa một lần trở lại.
Ngày đi, mẹ vẫn mặc chiếc áo vải trắng viền xanh
Sari trị giá 1 rupee mẹ tự sắm cho ḿnh sau khi chính thức rời khỏi
ḍng tu Loreto Sisters. Đoạn đường từ
quảng trường Netaji, nơi tổ chức thánh lễ, đến Căn Nhà Của Mẹ, nơi
mẹ sẽ yên nghỉ, ch́m trong không khí tôn nghiêm trang trọng.
Những em bé Ấn Độ tay cầm những bông hoa
nhỏ vẫy chào. Tất cả đều cúi đầu khi quan tài do một chiếc
xe kéo súng quân đội kéo ngang qua. Chính
phủ Ấn dành cho mẹ một vinh dự đặc biệt v́ chính chiếc
xe kéo pháo cũ kỹ này đă kéo quan tài của
Thánh Mahatma Ghandi ra nghĩa trang 1948. Nhân loại tiếc thương mẹ,
nhân dân Ấn Độ biết ơn mẹ và chính những người cùng khổ ở Calcutta
đang sắp hàng hai bên đường cám ơn mẹ, nhưng ngoài tiếng máy xe kéo
pháo nhịp đều, không có một sự ồn ào nào khác. Trên
xe, những nữ tu và người lính ngồi im
lặng. Không ai khóc lớn, không ai than van, không ai
lăn lộn, không ai kể lể.
Niềm thương tiếc chân thành thánh thiện đă cô
đọng thành ngọc bích và lắng sâu xuống tận đáy ḷng. Sự ra đi
của Mẹ Teresa và nhiều bậc vĩ nhân khác
đơn giản như họ một lần đă ghé thăm hành tinh chúng ta.
Bên
kia những cuộc chia tay đầy ắp t́nh nhân loại như thế là những cái
chết của các lănh tụ Cộng Sản đă diễn ra như những vở kịch được biên
tập tất cả đặc tính bi, hài, ṭ ṃ, chân thành, giả dối đến tận cùng.
Trước tang lễ có một không hai của Kim Nhật Thành, tang lễ Stalin
được xem như một tang lễ đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử tang lễ các
lănh tụ Cộng Sản. Ngày 9 tháng 3 1953, hàng triệu người tập hợp tại
Hồng trường để chào vĩnh biệt “đại nguyên soái” Joseph Stalin của họ.
Theo chi tiết ghi lại trong trang web của báo Pravada, cũng như
theo mô tả của Brenda Haugen trong tác
phẩm Joselp Stalin: Dictator of the Soviet Union, khoảng 500 người
chết chỉ v́ chen lấn nhau để đến gần khán đài. Tại Việt Nam v́ xa
xôi cách trở không tham dự được nhưng cũng “làng trên xóm dưới xôn
xao” khi nghe tin “Ông mất” và ít ra cũng có Tố Hữu đă khóc đến mức
“xé ruột, xé ḷng” trong bài thơ Đời đời nhớ ông bất hủ. Cảnh khóc
than thê thảm tương tự đă diễn ra tại Thiên An Môn 1976, Hà Nội 1969
với những cô công nhân mặt sưng húp v́ mấy ngày đêm khóc không c̣n
nước mắt. Nếu những tên đô tể Nicolae Ceausescu không bị xử bắn, Pol
Pot không chết trong rừng, Erich Honecker không chết trong lưu đày,
tang lễ của họ hẳn cũng ngập đầy nước mắt.
Và
mới đây, các cơ quan truyền h́nh trên thế giới đồng loạt đưa tin về
cái chết đột ngột của lănh tụ Bắc Hàn Kim Chính Nhật và lồng trong
các bản tin là cảnh hàng trăm ngàn người dân Bắc Hàn, từ cụ già đến
em bé, từ thiếu nữ đến thanh niên đều khóc thê thảm, khó lăn lộn,
khóc đến ngất xỉu. Theo tin chính thức của Bắc Hàn, đă có năm triệu
người, tức hơn hai mươi phần trăm dân số, bằng nhiều cách bày tỏ
ḷng thương tiếc dành cho lănh tụ kính yêu Kim Chính Nhật. Các cơ
quan truyền thông quốc tế dành nhiều thời gian để t́m hiểu về hiện
tượng khóc rất lạ đời này. Son Jeong Hun, trước đây vượt thoát từ
Bắc Hàn cho biết “Nếu bạn không khóc một cách công khai, bạn bị xem
là có thái độ sỉ nhục lănh tụ và có thể bị kết
án chống lại nhà nước”. Tuy nhiên, trong lúc rất nhiều người
phải khóc, khóc không ra nước mắt, cũng có rất nhiều người đă khóc
một cách chân thành chỉ v́ các vi trùng tôn thờ cá nhân ăn sâu vào
nhận thức và họ đă bị hoàn toàn tẩy năo.
Tại
Bắc Hàn, mỗi gia đ́nh đều có một bức ảnh của Kim Nhật Thành và Kim
Chính Nhật. Ban kiểm tra h́nh lănh tụ theo
định kỳ đến khám xét từng nhà. Gia chủ sẽ bị phạt nếu h́nh của cha
con họ Kim không được lau chùi đúng tiêu chuẩn.
Bịnh tôn thờ lănh tụ tại Bắc Hàn trầm trọng đến nỗi người dân có thể
chết chỉ để bảo vệ bức ảnh của “cha già dân tộc”. Theo hồ sơ
tội ác của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật do giáo sư Grace M. Kang
chuẩn bị để truy tố trước ṭa án quốc tế, ngày 4 tháng Sáu 1997 một
chiếc ghe đánh cá bị sóng đánh ch́m, thủy thủ trên ghe đă buộc chân
dung của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật vào phao cấp cứu để hai
bức ảnh khỏi ch́m trong lúc các thủy thủy đă chết đuối.
Khi hai bức ảnh được hải quân Bắc Hàn t́m được,
những thủy thủ bị chết đuối được tặng danh hiệu Anh Hùng Cộng Ḥa.
Ngoài ra, tạp chí Times cũng đă tường thuật một trường hợp hỏa hoạn
ở Bắc Hàn, chủ nhà đă lo cứu bức ảnh trước khi cứu con ḿnh. Tháng
4/2003, theo tạp chí Economist, một chiếc xe lửa ở Bắc Hàn không may
chạy trật đường rầy và đụng vào một toà nhà lớn, cả xe lửa lẫn toà
nhà đều bốc cháy, hàng trăm khách trong xe, người trong toà nhà vừa
chết vừa bị thương. Thế nhưng khi những người dân Bắc Hàn tới cứu,
họ đă cố t́m cách dập tắt ngọn lửa đang đốt cháy tấm chân dung lớn
của Kim Chính Nhật treo trên toà nhà trước khi cứu chữa những người
bị thương đang sắp chết cháy trong nhà.
Người dân Bắc Hàn không có cùng một ư niệm về
không gian và thời gian như phần c̣n lại của nhân loại.
Ngày tháng và nơi chốn đă bị đổi thay sau khi
Kim Nhật Thành xóa bỏ niên lịch AD và thay vào đó bằng lịch Juche,
lấy năm sinh của ông ta làm chuẩn. Ví dụ,
năm 2000 là năm cuối cùng của thiên niên kỷ đối với phần lớn thế
giới nhưng tại Bắc Hàn chỉ mới là năm Juche 99. Trong một bài
b́nh luận của Rodong Sinmun, cơ quan thông tin chính thức của Đảng
Công nhân Triều Tiên phát hành ngày 31 tháng 8 năm 1997, viết về Kim
Chính Nhật: “Nhân dân Triều Tiên
tuyệt đối tôn kính, tin tưởng và theo chân Tướng Quân như Thượng Đế.
Tư tưởng quư giá này căn cứ vào sự kiện rằng họ đă cảm nhận một cách
sâu sắc sự vĩ đại của Tướng Quân từ đáy ḷng họ. Tướng Quân là thầy
giáo vĩ đại dạy nhân dân Triều Tiên ư nghĩa thật sự của cuộc sống,
là người cha đă ban cho họ đức tính liêm khiết chính trị quư giá và
là một ân nhân có trái tim nồng ấm dịu dàng, đă mang đến cho nhân
dân Triều Tiên niềm hạnh phúc trọn vẹn… Tướng
Quân là cây trụ tinh thần và là vầng thái dương vĩnh cửu của nhân
dân Triều Tiên“.
Dân chúng Bắc Hàn
khóc trước cái chết của Kim Chính Nhật
Một
số nhà phân tích tâm lư cho rằng, vấn đề không phải người dân Bắc
Hàn khóc thật hay khóc giả nhưng chỉ việc khóc một cách tự nhiên và
công khai trước ống kính truyền h́nh đă cho thấy khả năng của chế độ
kiểm soát hành vi của người dân chặt chẽ đến chừng nào. Bộ máy tuyên
truyền của đảng Cộng Sản Bắc Hàn đă biến toàn xă hội thành một đại
gia đ́nh trong đó Kim Nhật Thành là ông nội, Kim Chính Nhật là cha
già, và Kim Jong Un đang là đích tôn gia trưởng. Các bức h́nh trẻ em
vui mừng ngồi trên đùi Kim Nhật Thành hay những cặp vợ chồng mới
cưới thay v́ đến nhà thờ hay chùa, đă đến trước tượng Kim Nhật Thành
làm lễ ra mắt tổ tiên cho thấy mối quan hệ giữa quần chúng và lănh
tụ đă vượt qua mối quan hệ chính trị b́nh thường để trở thành mối
giây thiêng liêng bền bỉ rất thích hợp với văn hóa Á Đông.
Trong lúc, theo Katharina Zellweger, giám đốc cơ quan thiện nguyện
Thụy Sĩ có văn pḥng tại Nhưỡng Quang, mỗi người dân Bắc Hàn chỉ
được cấp tiêu chuẩn thực phẩm 150 gram mỗi ngày và rất đông người
quá đói phải ra đồng đào rễ, cắt cỏ và hái lá để ăn, gia đ́nh Kim
Chính Nhật sống như một đế vương. Theo hồi kư ” Tôi từng là đầu bếp
của Kim Chính Nhật” (I Was Kim Jong Il’s Cook) của đầu bếp Nhật Bản
từng phục vụ Kim Chính Nhật và kư dưới tên Kenji Fujimoto, món ăn
khoái khẩu của họ Kim là sushi với tôm tươi. Các thức ăn phục vụ Kim
được chọn lựa theo đặc sản của mỗi nước như thịt heo Đan Mạch, đồ
biển Nhật, bia Tiệp Khắc, chuối Thái Lan, đu đủ Mă Lai…
Kim Chính Nhật là kẻ nghiện rượu vang.
Hầm rượu của y có khoảng 10,000 chai.
Theo hồ sơ của BBC trong thượng đỉnh năm 2000 tiếp cựu Tổng thống
Nam Hàn Kim Đại Trọng, Kim Chính Nhật đă uống 10 ly rượu vang. Pḥng
phim của Kim Chính Nhật chứa khoảng 20,000 phim, trong đó Rambo và
Jame Bond là những bộ phim y thích nhất. Gia đ́nh họ Kim không thiếu
một món giải trí nào từ sân bóng rổ đúng NBA tiêu chuẩn,
xe gắn máy trượt tuyết, giàn karaoke…
Cũng theo lời kể của đầu bếp Kenji
Fujimoto, Kim Chính Nhật nuôi chó đầy đủ hơn nuôi dân. Trong nạn đói,
những nhân viên coi chó cho y đă phải ăn
trộm thức ăn của chó để ăn. Bị bắt được, toán
trưởng bị đày hai năm trong trại tập trung và các đội viên mỗi người
bị đày một năm.
Nhân
dân Bắc Hàn không biết đời sống xa hoa và tánh t́nh bịnh hoạn của
Kim Chính Nhật. Với đa số người dân Bắc Hàn, Kim Chính Nhật từ khi
c̣n sống cho đến lúc qua đời là thần thoại diệu kỳ. Cơ quan truyền
h́nh chính thức của Bắc Hàn KCNA cho biết trước giờ họ Kim chết,
đỉnh núi thánh Bạch Đầu Sơn (Paektu) được bao phủ bằng một ánh sáng
màu đỏ rực đầy huyền bí. Cũng theo KCNA,
không chỉ nhân dân Triều Tiên hay loài người mà cả trời đất cũng
tiếc thương trước cái chết của lănh tụ kính yêu. Nói
theo kiểu Tố Hữu của Việt Nam là “Đời
tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Mobutu Sese Seko trước đây được là
người có những danh xưng rất độc đáo như “Nhà cứu rỗi dân tộc”, “Cha
già dân tộc” v.v… nhưng so với cha con họ Kim, Mobutu chỉ đáng là
học tṛ. Tại Bắc Hàn, Kim Chính Nhật ngoài các danh dự được gọi hàng
ngày như “Lănh tụ kính yêu”, “Đồng chí vĩ đại”, “Tư lịnh tối cao”
v.v… c̣n được gọi trong tiểu sử chính thức là “Con trời”, “Ngôi sao
sáng của đỉnh Bạch Đầu Sơn”.
Với
các bằng chứng tẩy năo tinh vi như vậy,
việc dân Bắc Hàn khóc thật cũng chẳng phải là chuyện lạ.
Nhân
dịp bàn chuyện khóc lóc của người dân Bắc Hàn, thử phân tích một số
lư do tại sao chế độ Cộng Sản có thể tồn tại lâu dài hơn nhiều chế
độ độc tài khác trong lịch sử nhân loại thời hiện đại. Một số lư do
trực tiếp liên hệ đến Bắc Hàn trong khi một số lư do khác là lư do
tổng quát chung cho cả phong trào Cộng
Sản.
Lư
do thứ nhất là bộ máy kiểm soát chính trị và xă hội. Đảng Cộng Sản
kiểm soát chặt chẽ toàn bộ cơ cấu xă hội một cách tinh
vi, từ các đơn vị nhỏ đến các ban ngành
lớn. Cơ quan tuyên truyền trung ương đảng kiểm
soát từng chi tiết các sinh hoạt tri thức, thông tin, truyền thanh,
truyền h́nh, báo chí. Hệ thống kiểm duyệt trong chế độ Cộng
Sản không chỉ ở trung ương mà theo nhiều
tầng lớp. Ngay cả khi tác giả viết bài cũng đă
thực thi tự kiểm duyệt v́ họ biết những ǵ nên viết và những ǵ
không được viết trước khi nạp bản thảo cho cơ quan kiểm duyệt nhà
nước. Bức tường bưng bít thông tin dày nhiều lớp như thế đă
che đậy tội ác ngập trời của các lănh tụ Cộng Sản. Giáo sư Brian
Reynolds Myers giảng dạy môn nghiên cứu quốc tế tại đại học Dongseo
University in Busan, South Korea cho biết ngoài một rất ít lén lút
mua được vài bộ phim Nam Hàn, máy truyền h́nh Trung Quốc, tuyệt đại
đa số sản phẩm văn hóa nghệ thuật là sản phẩm của tuyên truyền.
Các tác phẩm phim ảnh được duyệt nhiều lần để
bảo đảm khi đến người dân không có một t́nh tiết nào đi ngược với
đường lối của Đảng.
Lư
do thứ hai v́ họ chỉ giết chính nhân dân nước họ. Không giống chế độ
độc tài Đức Quốc Xă tàn sát dân Do Thái, lănh đạo Cộng sản các nước
thường giết chính đồng bào cùng máu mủ, cùng tổ tiên, cùng đất nước
với họ. Ngay từ sau 1975, dư luận thế giới đă
biết đến tội ác của chế độ Pol Pot. Tạp
chí Time c̣n đăng cả bức h́nh một tội nhân đang bị đánh vào đầu bằng
cuốc. Tuy nhiên, ngoài Việt Nam tấn công chế độ bằng một lư
do riêng vào tháng Giêng 1978, không một quốc gia nào kể Liên Hiệp
Quốc có hành động cụ thể để ngăn chặn tội ác của Pol Pot. Khi một
chế độ có toàn quyền sinh sát với nhân dân, họ cũng có điều kiện để
tồn tại lâu dài. Giống như Pol Pot, cha con Kim Nhật Thành và Kim
Chính Nhật đă can tội diệt chủng và chống lại nhân loại.
Theo ước lượng của báo chí ít nhất một triệu
người đă chết trong các trại tù Bắc Hàn từ ngày đ́nh chiến đến nay.
Bộ Ngoại Giao Mỹ cho biết khoảng 150 ngàn đến
200 ngàn người vẫn c̣n đang bị ở tù.
Ngoài ra, khoảng 2.5 triệu người dân Bắc Hàn đă chết trong các nạn
đói từ 1990.
Lư
do thứ ba, cũng khác với các lănh tụ Đức Quốc Xă thường bị truy tố
ngay sau chiến tranh, tội ác của các lănh tụ Cộng sản c̣n được che
dấu một cách tinh vi, có hệ thống dưới các nhăn hiệu vô cùng tốt đẹp
như “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Vai tṛ của Kim Nhật Thành trong
chiến tranh chống Phát Xít Nhật, Hồ Chí Minh trong chiến tranh chống
Pháp, Fidel Castro trong chiến tranh chống độc tài Batista, Stalin
trong chiến tranh chống Đức, Mao Trạch Đông trong chiến tranh chống
Nhật được đề cao đến độ nếu không có họ có thể toàn dân tộc đă bị
xóa tên khỏi lịch sử loài người. H́nh ảnh Mao Trạch Đông chính thức
tuyên bố thành lập nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, h́nh ảnh Hồ Chí
Minh đọc “tuyên ngôn độc lập” đă được đánh bóng sáng đến mức mọi tội
tác tày trời khác đă trở thành trộm vặt. Chỉ trong ṿng vài năm sau
ngày tuyên bố “Nhân dân Trung Hoa đă đứng lên” 30 triệu “nhân dân”
đă bị giết trong hàng loạt các chiến dịch chống hữu khuynh, trăm hoa
đua nở, bước tiến nhảy vọt, công xă nhân dân, cách mạng văn hóa. Tội
ác của Mao chống lại nhân dân Trung Hoa nói riêng và loài người nói
chung vượt qua con số do Hitler, Stalin
và Leopold II cộng lại. Tương tự tại Hà Nội chỉ vài năm sau ngày
“tôi nói đồng bào nghe rơ không”, nhiều vạn “đồng bào” đă không c̣n
cơ hội nghe rơ nữa v́ họ đă chết một cách oan ức trong các cuộc đấu
tố vô cùng tàn ác.
Lư
do thứ tư, ngoại trừ trường hợp Khrushchev, ít khi nào một lănh đạo
Cộng sản đứng lên thẳng thắn vạch trần tội lỗi của lớp lănh đạo
trước, bởi v́ làm như thế là tạo chỗ hở cho kẻ thù
chung tấn công vào chế độ.
Trường hợp Đặng Tiểu B́nh đối với Mao Trạch Đông
là một ví dụ điển h́nh. Đặng Tiểu B́nh là một trong những
người chịu đựng sự hành hạ và mất mát lớn lao
về nhân mạng trong thời Cách mạng văn hóa. Bản thân Đặng Tiểu B́nh
bị chính Mao thanh trừng nhiều lần và con trai của Đặng Tiểu B́nh đă
chết một cách thê thảm khi bị ném từ cửa sổ xuống đường. Chuyện đời
tư của Mao, từ bản chất độc tài, nghi kỵ cho đến cá tính trăng hoa
dâm dật, Đặng Tiểu B́nh biết hơn ai hết, nhưng khi lên nắm quyền
hành, họ Đặng vẫn tiếp tục sơn son thiếp vàng lên một h́nh tượng mà
cá nhân y vô cùng căm hận. Trên đồng nhân dân tệ từ đơn vị một đồng
cho đến một trăm đồng vẫn in khuôn mặt mỉm cười của kẻ từng điều
khiển bộ máy giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại.
Bởi v́, là một trong số rất ít lănh đạo Cộng sản lăo thành c̣n sót
lại từ thời Vạn lư trường chinh và cũng quá thuộc sử Tàu, Đặng Tiểu
B́nh biết, giống như các triều đại phong kiến Trung Hoa, đặc tính kế
thừa của một quyền lực trung tâm là một yếu tố sinh tử không thể phủ
định của chế độ Cộng Sản. Điểm trung tâm vỡ toàn bộ hệ thống cai trị
sẽ vỡ theo.
Lư
do thứ năm, các lănh đạo Cộng Sản thường tận dụng vị trí của kẻ thù
đă chết. Những lănh tụ Cộng Sản thường tận diệt
kẻ thù c̣n sống nhưng ca tụng kẻ thù đă chết.
Stalin ca tụng Lenin, Fidel Castro ca tụng
Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu B́nh ca tụng Mao Trạch Đông.
Lấy trường hợp Che làm ví dụ. Nếu Ernesto
“Che” Guevara không làm cách mạng phiêu lưu Nam Mỹ mà tiếp tục ở lại
Cu Ba, thất khó tưởng tượng ông ta có thể sống sót dưới bàn
tay của Fidel Castro. Một rừng không có
hai cọp, một nước không có hai vua, đừng nói chi là quan hệ giữa Che
và Fidel Castro rạn nứt trước khi Che tạm biệt vợ con lần cuối và
lên đường đi Bolivia cuối năm 1966. Che chủ
trương kỹ nghệ hóa đất nước, Fidel Castro chủ trương củng cố quyền
lực trung ương. Sự khác biệt của Che và
Fidel Castro khá giống trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông.
Nhưng hôm nay, nếu ai đến Havana, sẽ gặp h́nh
ảnh Che trên khắp ngả đường. Xác chết không nghe được lời ca
tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự
có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới
thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực.
Lư
do thứ sáu, che đậy tội ác của nhau. Thật vậy, nếu không chính từ
cửa miệng Khrushchev nói ra trong diễn văn dài 4 giờ đồng hồ giữa
khuya ngày 2 tháng 5/1956 trước đại hội lần thứ 20 đảng Cộng sản
Liên Xô, có thể sau khi chế độ Xô Viết sụp đổ, nhân loại mới biết
Stalin là “một người luôn ngờ vực một cách bịnh hoạn…
Sự hoài nghi bịnh hoạn đó làm cho Stalin không
tin tưởng ngay cả những lănh đạo cao cấp đă từng làm việc với y
nhiều năm. Nh́n đâu Stalin cũng thấy
những “kẻ thù”, “những người hai ḷng dạ”, “gián điệp””. Theo
Khrushchev, Stalin đă dùng “tất cả các phương tiện lừa dối, xây dựng
vinh quang cho chính bản thân y”. Khrushchev kể, năm 1948, tác phẩm
“Tiểu Sử Ngắn” của Stalin được tŕnh lên cho y coi lại trước khi in
“Stalin không có một sự tự trọng tối thiểu nào khi tự sửa đổi bản
thảo để gọi chính ḿnh là lănh tụ vĩ đại, nhà chiến lược siêu phàm
của mọi thời đại và sửa bất cứ đoạn nào ca ngợi y không đủ”.
Ở Việt Nam cũng có chuyện lănh tụ tối cao tự ca
ngợi đời ḿnh như thế.
Thật
vậy, nếu không phải do chính cửa miệng Nuon Chea, Anh Hai (Brother
Number Two) của Khờ Me Đỏ, sau Anh Cả Pol Pot thốt ra, thế giới
không biết lư do hàng triệu người dân Cambode bị giết chỉ v́ “họ là
kẻ thù của nhân dân”. Tên đao thủ phủ Nuon Chea khi trả lời không
hiện ra trên khuôn mặt một dấu hiệu xót thương, hối tiếc, dường như
ông ta vừa giết một con gà, con vịt chứ không phải 1,7 triệu người
trong một đất nước chỉ có 7 triệu dân. Chỉ trong thời gian 4 năm từ
1975 đến 1979, 21%, dân Cambode đă bị giết bằng các h́nh thức vô
cùng thảm khốc, kể cả cắt cổ, chặt đầu, gây thương thích và để chảy
máu cho đến chết. Những chi tiết trong hồ sơ ṭa án do Liên Hiệp
Quốc bảo trợ về nhà tù Tuol Sleng hay được gọi
theo mă số S-21sẽ măi măi ám ảnh trong lịch sử Cambode.
Phần lớn tù nhân tại S-21 bị giết sau thời gian
tra tấn bằng các thủ đoạn tàn độc như xẻ thịt, đổ rượu vào vết
thương. Trong số 17 ngàn tù nhân tại Tuol
Sleng chỉ có 7 người sống sót. Trong phiên ṭa hôm 8 tháng
12/2011, thậm chí Nuon Chea c̣n phản đối dư luận dám nói xấu đảng
Cộng sản: “Khờ Me Đỏ không phải là những người xấu đâu nhé”.
Nếu
không phải do chính ng̣i bút của Hoàng Tùng, nguyên bí thư Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong số rất ít người gần gũi
với Hồ Chí Minh nhiều năm viết ra có lẽ c̣n rất lâu người dân Việt
Nam mới biết Hồ Chí Minh không những biết trước mà c̣n là người bỏ
lá phiếu quyết định xử tử bà Nguyễn Thị Năm: “Sau cố vấn Trung Quốc
là La Quư Ba đề nghị măi, Bác nói :” Thôi tôi theo đa số, chứ tôi
vẫn cứ cho là không phải”. ”Nếu trong buổi họp đó, với tư cách Chủ
tịch Ban chấp hành Trung ương đảng và người có quyền lực tối thượng
bao trùm lên cả đám đệ tử “đa số” kia trong bộ chính trị, Hồ Chí
Minh quyết định khác đi, chẳng những số phận của người phụ nữ yêu
nước, cống hiến con cái của ḿnh, tài sản của ḿnh cho cuộc kháng
chiến chống Thực Dân Pháp đầy gian khổ của dân tộc không phải chết
một cách oan ức mà c̣n cứu mạng nhiều ngàn người dân vô tội khác
trong những lần đấu tố sau đó. Ṭa án
lịch sử dân tộc Việt Nam hôm nay và ngàn đời sau phán xét ông Hồ
không phải dựa vào việc ông ta “cho là phải” hay “cho là không phải”
khi giết bà Nguyễn Thị Năm nhưng ở chỗ ông ta đă quyết định bỏ phiếu
“theo đa số”. Lá phiếu của ông Hồ chính là viên
đạn bắn vào đầu bà Nguyễn Thị Năm.
Chủ nghĩa Cộng Sản đă tàn rụi ở châu Âu nhưng
trong năm nước c̣n sót lại sự khổ đau, chịu đựng vẫn c̣n đến hôm nay
và không biết đến bao giờ mới hết. Chiến
tranh lạnh đă tàn. Các nước tư bản tự do v́ lư do kinh tế đă
không c̣n giương cao ngọn cờ dân chủ như trước nữa.
Họ mặc nhiên chấp nhận chế độ Cộng Sản như là
một thực tế của mỗi quốc gia hơn là một phong trào quốc tế.
Nhân dân Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Trung Hoa là những dân tộc
chịu đựng trong cô đơn. Người dân Bắc Hàn khóc
v́ sợ hăi, giả dối, bắt buộc hay bị tẩy năo, đều đáng thương, đáng
được cảm thông hơn là đáng trách hay đáng cười khinh rẻ.
Những giọt nước mắt đó trước lương tâm nhân loại chính là những lời
tố cáo hùng hồn về một chế đô phi nhân đang tồn tại ở Á Châu.
© 2011 Trần Trung Đạo