|
|

MẶT
TRẬN VĂN HÓA VÀ NHỮNG THỦ TIÊU ÁM SÁT TRÍ THỨC
MIỀN
NAM VN
Mới hôm nào, tay cắp sách...
Tay bom xăng, tay cầm gạch đá
Em kiêu hùng trên phố thị miền
Nam ...
Tôi còn nhớ những năm tháng ấy
của miền Nam Việt Nam. Thân yêu mà cũng buồn, bực dọc, bất
mãn, chán nản, tuyệt vọng.
Những năm tháng Sài Gòn
giành giật giữa quốc gia và cộng sản. Bằng đủ mọi âm
mưu và thủ đoạn giữa tiếng ồn ào của hoan hô, đả đảo với
khói lựu đạn cay. Chúng tôi sống một thời kỳ điên đảo bị
giật giây bởi người cộng sản bằng một sự ngây thơ không
tưởng, bằng những dằn vặt, giằng co giữa khát khao tự do,
dân chủ, công bằng của chúng tôi. Và hơn hết tất cả là khát
vọng hòa bình mong chiến tranh chóng chấm dứt.
Chúng tôi sống mất ngủ vì
những khát vọng không đạt được mà thực tế trước mắt là chiến
tranh, chém giết. Chúng tôi mong ước những trận mưa rào dập
tắt khói lửa, nguôi ngoai hận thù. Nhưng thực tế mỗi ngày là
những sự lừa phỉnh, dối gạt bằng
đủ loại
thuốc ngủ có tên phản chiến, nhạc phản chiến, văn chương
phản chiến.
Trong khi đó thì người cộng
sản với đủ loại “căn cứ lõm” trong thành phố giành giựt tim
óc, tâm tư của tuổi trẻ thành phố. Và nếu không giành giựt
được thì họ không ngần ngại thanh toán, ám sát giết hại.
Nhưng mỗi khi có một vụ ám sát
giết người như vụ ám sát giáo sư
Nguyễn Văn Bông, ám
sát sinh viên Lê Khắc Sinh
Nhật hay nhà báo Từ
Chung, nhà báo Chu
Tử thì vô số loại tin đồn được tung ra.
Người ta đổ cho Mỹ sát hại
cũng có, nhất là đổ cho chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng
Hòa. Đó là những dư luận dễ dãi nhất và vô căn cứ nhất.
Nhưng nhiều người vẫn tin. Và chính quyền miền Nam thì không
có cách gì để cải chính những tin đồn kiểu đó.
Nay thì đã có câu trả lời rõ
ràng ai là thủ phạm những vụ ám sát đó.
Không ai khác là cộng sản.
Đó là
Đoàn công tác của thành đoàn thanh niên sinh viên, học sinh
Sài Gòn, Chợ Lớn. Họ chiụ trách nhiệm về những việc ám sát
ấy. Họ là những ai? Trụ sở của họ ở đâu? Nay họ làm gì?
Trong khi đó, tổ chức hệ thống
mật vụ Việt Nam thời đệ nhị cộng hòa tỏ ra thiếu hữu hiệu
như thể bó tay. Tất cả những vụ
đốt xe
Mỹ, tất cả những vụ đưa người thâm nhập cơ sở, tất cả
những vụ
phá rối
trật tự,
phá hoại an ninh, những vụ
ám sát
các viên chức miền Nam, nhất là các trí thức miền Nam
thường không tìm ra dấu vết thủ phạm.
Cộng
Sản trà trộn khắp nơi, len lỏi vào trong nhiều tổ chức tôn
giáo, nhất là Phật giáo.
Các
tổ chức này như tấm bình phong che chắn cho CS. Có nhiều tấm
bình phong như thế có tên là giới sinh viên, giới trí thức,
giới Phật tử và giới báo chí. Chẳng hạn, biểu tình là do
sinh viên chống chính phủ. Nhưng ai thấy được CS ở đằng sau?
Cái đằng sau mới là quan
trọng. Không phải chính quyền cứ đàn áp sinh viên, bắt bớ,
giải tán bằng lựu đạn cay, rào kẽm gai là xong, là lấy lại
được an ninh trật tự. Nhiều khi chỉ tạo ra những phản ứng
ngược chiều, rất bất lợi. Những thành phần sinh viên thầm
lặng vô tình bị đẩy cũng đứng vế phía sinh viên xuống đường.
Vấn đề là bắt cho bằng được
những kẻ đầu não. Nào có khó khăn gì? Họ là những
Huỳnh
Tấn Mẫm,
Vũ
Hạnh,
Dương
Văn Đầy. Họ
đi khơi
khơi ngoài đường. Họ
biểu
tình, họp báo,
viết
báo như chỗ không người. Hãy nhốt họ lại. Đủ bằng cớ.
Đưa họ đi Côn sơn. Cách ly bọn họ, triệt tiêu tận gốc.
Chúng ta đã không làm, bắt
rồi thả do áp lực sinh viên, trí thức báo giới, nhà văn.
Có lẽ, tất cả chỉ vì
cái
khí thế chống Cộng thời đệ nhất cộng hòa không còn nữa?
Còn đâu những lời hiệu triệu của TT Ngô Đình Diệm những năm
đầu thể chế đệ nhất cộng hòa:
Quốc
dân đồng bào, ai áp bức bóc lột và chà đạp con người Việt
Nam ?
Thực
dân, phong kiến và cộng sản.
Vì vậy
mà chính phủ chủ trương kháng đế, bài phong, diệt Cộng...
Hỡi binh sĩ và cán bộ Quốc gia.
Chúng ta tố Cộng là để tranh thủ được lòng dân. Thông điệp
đầu năm Ngô Đình Diệm, 1959.
Cảnh sát thời ông Tổng Giám
Đốc cảnh sát Trang Sĩ Tấn dẹp biểu tình cũng không xong.
Càng tăng cường kiểm soát an ninh, giữ gìn trật tự bằng lựu
đạn cay, bằng hàng rào kẽm gai, dùi cui của Cảnh Sát Dã hiến.
Càng gây thêm sự phẫn nộ trong dân chúng. Dư luận cũng như
đông đảo quần chúng mất tin tưởng vào chính quyền.
Khi có phong trào thanh niên
đốt xe Mỹ, ông Trang Sĩ Tấn đã đưa ra những lời đe dọa vu vơ
như sau trong một buổi họp báo ngày 16 tháng chín, 1972: “Những
kẻ nào bị bắt quả tang đang phá hoại quân cụ, kể cả những xe
cộ, sẽ bị kết án tử hình”.
Ai cũng biết đó là những lời
đe dọa vu vơ.
Án tử hình đâu chưa thấy,
chỉ thấy thành phố Sài Gòn rơi vào tình trạng xáo trộn liên
tục.
Hình ảnh Sài Gòn với rất nhiều
xáo trộn chính trị đủ loại là hình ảnh một cuộc chiến tranh
đặc biệt, lạ lùng mà kỳ cục.
Có lựu đạn cay ngoài
đường, có những bộ áo rằn ri. Nhưng
cũng có những tà áo nữ
sinh, cầm túi chanh, te tác trên đường phố.
Có tiếng hát, tiếng hò
của đám sinh viên, học sinh vào một buổi tối, tại chùa Ấn
Quang. Ở đấy, hẳn không thiếu những tiếng cười. Không
thiếu niềm tự hào và hăng say. Trong khi đó, nhìn xuống lề
đường, ở mỗi gốc cây đều có bóng lính. Xe nhà binh, xe cảnh
sát chạy rần rần, pha đèn mở sáng.
Người ta chỉ thấy
một
hậu phương rối loạn.
Lính
tráng ngoài mặt trận làm sao yên tâm cầm súng chiến đấu
chống kẻ thù?
Bộ mặt thành phố Sài Gòn lộ
diện ra khi tôi lần dở lại tờ
báo Sóng Thần ra ngày 31
tháng 10 với những hàng tít lớn trên báo:
31/10
Ngày dài vô tận. Ngày dài vô tận là ngày
tranh
đấu,
xuống
đường,
khí
thế bừng bừng như một cuộc tranh đấu nội thù. Ở phần
đầu tờ báo Sóng Thần có đăng tâm thư của
LM Thanh Lãng viết
cho tờ báo Sóng Thần: Đập
các anh là đập tất cả chúng tôi. Ai đập ai giữa những
người Quốc Gia? Bên cạnh đó là các tên tuổi lớn hỗ trợ tờ
báo Sóng Thần như
Vũ
Hoàng Chương,
Nguyễn
Hiến Lê,
Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam,
Lam
Giang, Lê Ngộ Châu.
Và các nghệ sĩ như Năm Châu, Bích Thuận, Kim Chung, Khánh Ly
lên tiếng để chịu chung bản án với Sóng Thần. Rồi 32 nhà
văn, nhà thơ tên tuổi ký tên chung tuyên bố:
Phản đối đàn áp báo chí,
truy tố Sóng Thần. Cạnh đó hình ảnh diễn hành của một
số luật sư ra tòa biện hộ như các luật sư Bùi Tường Chiểu,
Hồ Tri Châu, Lý Văn Hiệp, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Lâm Sanh
tại một ngã tư . Ở một góc phòng với bị can Trùng Dương, chủ
nhiệm báo Sóng Thần, vây quanh có các luật sư
Đỗ Văn Võ, Đặng Thị Tám,
Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Tường Bá. Cũng cạnh đó, bà
luật sư Nguyễn Phước Đại thay vì cầm tập hồ sơ biện hộ thì
lại đang cắt chanh phòng hờ bị lựu đạn cay.
Và biết đâu ở một góc đường,
một anh thợ vá xe đang ghi nhận tất cả những hoạt cảnh đó
báo về “Trung ương” của anh. Đó là những hình ảnh hai mặt
của cuộc chiến trong thành phố, giữa lòng thủ đô Sài Gòn của
miền Nam .
Không ai ngày nay nghĩ rằng
những cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ đó là sai, nhưng điều
chắc chắn là đã vẽ đường cho hươu chạy và hơn hết mọi chuyện
là gián tiếp
bị CS
lợi dụng và giựt dây.
Tôi có liên lạc với nhà văn
Trùng Dương, chủ nhiệm báo Sóng Thần. Chị khẳng định và xác
nhận lại cuộc tranh đấu của báo chí qua vụ báo Sóng Thần là
đúng, không làm khác được.
Nhưng bên cạnh sinh hoạt đấu
tranh có vẻ dân chủ đó có một thứ
đấu
tranh một mất một còn giữa Cộng Sản và chính quyền miền Nam
thông qua những
thanh niên, sinh viên, học sinh.
Chính
những sinh viên, học sinh này đang đấu tranh, đang hô hào
phản đối chính quyền đã góp phần làm tiêu hao lực lượng cũng
như tinh thần của miền Nam Việt Nam.
Đó mới là bộ mặt thực của cuộc chiến tranh này. Bộ mặt được
dẫn dắt và chỉ đạo từ đảng Cộng Sản miền Bắc Việt Nam .
Có một
cuộc chiến tranh ngoài Sài Gòn bằng bom, bằng đạn, bằng trực
thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng hầm chông, bằng xe tăng.
Bằng xác người phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch. Bằng đô la và
xác người.
Nhưng
cũng có một cuộc chiến tranh
thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực,
xuống đường, bằng hô hào, đả đảo, bằng lựu đạn cay, bằng
hàng rào kẽm gai...
Cuộc chiến tranh cân não này
ít được ai nói tới, vì không mấy khi có người chết. Mà chỉ
có nước mắt của lựu đạn cay.
Nhưng
nó cũng đủ làm lung lay bất cứ chế độ nào. Nó xói mòn
tin tưởng, nó làm lung lay ý chí. Bởi vì bản chất của nó là
một
cuộc chiến tranh cân não làm hao mòn ý chí phấn đấu, làm suy
sụp tinh thần kẻ địch. Biên giới cuộc chiến tranh này
không rõ rệt, trộn lẫn ta và địch, địch cũng là ta.
Cuộc chiến tranh trên đường
phố Sài gòn diễn ra ở hai mặt: Mặt nổi là những cuộc biểu
dương lực lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình,
xuống đường, đòi cái này, cái nọ, đòi thả người này người
kia, ngay cả đòi thả những
cán bộ cộng sản như
Vũ Hạnh,
sinh viên
Huỳnh
Tấn Mẫm,
Dương
Văn Đầy. Lý Chánh Trung trong bài viết: Rồi Hoà Bình
sẽ đến ghi như sau:
Tôi đã đến đây tham dự buổi
tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu học tại tòa
Viện trưởng Viện Đại học Sài gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền
trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh
Huỳnh
Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua
và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòa. Trong lúc
mấy em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn
xuống...
(trích trong Một thời bom đạn,
một thời Hòa Bình, Lý Chánh Trung, trang 62).
Thế nào là trái phép? Bắt giam một cán bộ CS nằm vùng là
trái phép? Không ai đặt ra câu hỏi đó cả.
Bên cạnh Lý Chánh Trung còn có
một số phụ nữ Đòi quyền sống, còn có các ông
Nguyễn Long,
Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Văn
Cước, các Thượng tọa Mãn Giác, Nhật Thường.
Thêm vào đám đông đòi đó, còn
có một Thích Nhất Hạnh
vu cáo về một cuộc tàn sát chỉ có trong tưởng tượng của ông
ấy:
Làng tôi hôm qua vì có 6 người
Cộng sản về
Nên đã bị dội bom hoàn toàn
tan nát
Cả làng tôi hoàn toàn chết
sạch
Đáng nhẽ ông ấy phải viết rõ
như thế này: Chỉ còn sống
có mình tôi, để viết những điều vu cáo này. Có thật như thế
không? Ngôn ngữ của sự gian dối?
Một nhà sư nói gian dối thì phải gọi ông ta là gì?
Và để tường thưởng cho vị
thiền sư, cộng sản đã có những lời lẽ trân trọng như sau:
“Người
Sài gòn, tuổi trẻ Sài Gòn biết ơn những bậc tu hành chân
chính đã quên mình vì nghĩa lớn, những phật tử hy sinh trong
bão lửa đấu tranh làm suy yếu kẻ thù, làm rối loạn hậu
phương của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho Sài Gòn, tuổi
trẻ Sài Gòn bung ra ào ạt giành một thế đứng công khai phất
cao cờ cách mạng sau bao nhiêu năm xúc tích lực lượng chuẩn
bị thời cơ”.
Đó là những lời lẽ trân
trọng mà người cộng sản đã dành cho Thích Nhất Hạnh.
(trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 349).
Phần Trần Bạch Đằng, chúng ta
cần đọc mấy dòng thư này của ông ta để chúng ta nhận ra
Huỳnh
Tấn Mẫm là ai? Ông Trần Bạch Đằng còn giữ lại một
mảnh giấy gửi cho ông ta của sinh viên
Huỳnh
Tấn Mẫm ghi lại như sau:
Xin đoàn thể yên tâm,
quyết làm tròn nhiệm vụ. L71.
L.71 là mật hiệu của Huỳnh
Tấn Mẫm. Mẫm viết thư này tại nhà Quốc khách, nơi
được dành làm trụ sở Tổng Hội Sinh Viên. Trớ trêu thay,
trụ
sở này do ông Nguyễn Cao Kỳ dành cho Tổng Hội sinh viên của
Huỳnh Tấn Mẫm chỉ vì mâu thuẫn, muốn chơi ông Thiệu.
Mời đọc thêm đoạn hồi ký bị
cấm xuất bản ở trong nước của cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc
Nhuận để nắm cho rõ câu truyện này. Ông Hồ Ngọc Nhuận viết
như sau về vụ này:
‘Nguyễn
Cao Kỳ “xớt” Huỳnh Tấn Mẫm’. Đó là nhan đề bài viết.
Huỳnh Tấn Mẫm một lần nữa bị bao vây, truy bắt. Trung tâm
sinh viên Phật tử một lần nữa dậy sóng. Một chiếc jeep nhà
binh, ngay sau khi tôi “điệu” hết cảnh sát về Tân Sơn Nhứt,
chúng tôi đã ập vào trung tâm Quảng Đức, bốc Huỳnh Tấn Mẫm
chạy thẳng về dinh Quốc khách ở góc đường Công Lý và Hiền
Vương, nay là Trung tâm văn hoá thiếu nhi, góc đường Nam Kỳ
khởi nghĩa-Võ Thị Sáu. Chiếc jeep ập vào bốc Mẫm là của Phó
tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và dinh quốc khách lúc bấy giờ cũng
thuộc quyền Phó tổng thống”.
Dinh Quốc khách, trung tâm Quảng Đức. Chùa Phổ Hiền. Ấn
Quang. Những mái chùa. Tất cả những nơi ấy đã góp chung bàn
tay che chở bọn người cộng sản nằm vùng để làm sụp đổ miền
Nam Việt Nam .
Và
Hồ Ngọc
Nhuận đắc thắng viết tiếp:
Tiếp tay cho cộng sản, như vậy, không chỉ có mình tôi. Và
lần này vai chánh không là tôi, mà là tướng Nguyễn Cao Kỳ.
(trích hồi ký Đời, bản thảo,
Hồ Ngọc Nhuận, trang 142).
Cái đất
nước mình nó như thế đấy, cái lãnh đạo mình nó như thế đấy.
Và sau đây là danh sách 16
sinh viên bị chính quyền Việt Nam Cộng Hoà bắt. Bắt đúng
người, bắt đúng những kẻ đã tiếp tay với Cộng sản. Nhưng vẫn
bị sinh viên biểu tình đòi
tha họ. Sau này cho thấy
họ đều là những cán bộ CS trà trộn vào sinh viên như:
Huỳnh
Tấn Mẫm,
Dương
Văn Đầy,
Lê
Thành Yến,
Phùng Hữu Trân,
Trần
Khiêm,
Đỗ
Hữu Ứng,
Lê Anh,
Võ Ba,
Đỗ Hữu
Bút,
Hồ
Nghĩa,
Cao
Thị Quế Hương,
Trương
Hồng Liên,
Truơng
Thị Kim Liên,
Võ Thị
Tố Nga.
Chưa kể vụ án thành đoàn giải
phóng gồm 21 người, trong đó có một số lãnh đạo Thành Đoàn
như Ba Vạn, tức
Phan Chánh Tâm,
Năm
Nghị, tức Phạm Chánh Trực.
Sau
1975, họ đều là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở thành phố
Hồ Chí Minh.
Và danh sách những nhà văn,
nhà trí thức đòi thả bọn sinh viên cộng sản hãy còn đây.
Quốc gia chống Cộng mà lại có chính nhà văn, nhà trí thức
người quốc gia biểu tình, đòi thả bằng được những sinh viên
cộng sản nằm vùng? Nhiều tờ báo cách này cách khác trở thành
phương tiện cho cộng sản lợi dụng.
Bên cạnh đó, về
mặt chìm là những toán đặc
công cộng sản do thành đoàn tổ chức gài bom phá hoại các
công sở, các xe nhà binh Mỹ, các doanh trại Mỹ và cuối cùng
là giết hại, ám toán người quốc gia đã không theo họ.
Nữ
tướng đốt xe Mỹ thời 1960-1970 là
Võ Thị
Bạch Tuyết
lúc đó nay trở thành giám đốc nông trường Đỗ Hòa ở Duyên
Hải.
Đầu xuân 1966, Đảng ủy văn hóa
khu Sài gòn Gia Định giao cho Vũ Hạnh, một nhà văn nằm vùng
công tác đặc biệt là mở một mặt trận văn hóa tấn công miền
Nam trong vùng đô thị mà họ gọi là “vùng tạm chiếm”. Vũ Hạnh
ngụy trang dưới chiêu bài Bảo vệ Văn hóa, chống lại văn hóa
đồi trụy, chống lại văn hóa ngoại lai đầu độc thanh niên
miền Nam . Họ tổ chức và xin phép cho ra tờ
Tin
Văn. Tờ báo trực tiếp được chỉ đạo bởi các cán bộ
cộng sản. Đứng đầu là Trần
Bạch Đằng. Chủ nhiệm là
Nguyễn Mạnh Lương. Và
một số nhà văn cộng tác như
Lữ Phương, Hồng Cúc,
Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Những nhà văn này còn viết
cho tờ Hồn Trẻ với các cây viết như
Trần Cảnh Thu, Trần Triệu
Luật, Nguyên Hạo, Lê Uyên Nguyên, Tuyết Hữu, Cao Hoài Hà,
Thích Quảng Khanh, Anh Vũ, Lê Ngọc Lê, Đinh Khắc Nhu, Lê
Việt Nhân... Toà soạn
tờ báo được đặt trong một ngôi chùa. Chẳng hạn tờ Hồn
Trẻ do Mười Hải, bí thư khu uỷ văn hóa. Tòa soạn đặt ở ngôi
chùa số 29, đường Trần Quang Khải.
Một số
chùa chiền trở thành cơ sở
bí mật cho các hoạt động phá hoại của cộng sản
như
Ấn
Quang, lúc bấy giờ do TT Thích Thiện Hoa chủ trì,
trung
tâm Quảng Đức, Đại học Vạn Hạnh. Theo tài liệu của
Thành đoàn TNSVHS trong cuốn “Trui rèn trong lửa đỏ” đã viết
về Đại
học Vạn Hạnh như sau:
Viện
đại học Vạn Hạnh thành lập năm 1964 là một đại học của Phật
giáo. Trường ở đối diện chợ Trương Minh Giảng. Trước năm
1968, tổ chức cách mạng cũng có hoạt động ở đây. Đêm đón tết
Mậu thân, tổ chức cách mạng ngay tại trường với một cuộc tập
họp táo bạo, sinh động. Tuy nhiên lực lượng ta thời này chưa
mạnh. Tháng 10/68, tình hình tổ chức cách mạng ở trường sau
thời gian bị đánh phá, coi như trắng. Thành đoàn chỉ đạo
đồng chí Sáu Tỉnh, tức Đỗ Quang Tỉnh, nay là cán bộ ban Hợp
tác kinh tế của Uỷ ban nhân dân thành phố về xây dựng lại
bằng tổ chức Liên đoàn sinh viên Phật tử Vạn Hạnh... Và họ
đã kết luận: kể từ tháng 5/1972, một chi bộ chính thức của
Vạn Hạnh được thành lập.
Và một
câu đánh giá quan trọng như sau: Từ những ngày đó, Vạn Hạnh
trở thành một pháo đài xuất quân đốt xe Mỹ và chống bầu cử
(trích Trui rèn trong lửa đỏ,
trang 96).
Còn
Ấn Quang được ghi lại như sau:
Những
ngọn lửa bùng lên tuyệt đẹp trên đường phố. Các báo gọi
những chiến sĩ đốt xe Mỹ là du kích quân sinh viên học sinh.
Và chùa Ấn Quang trong những ngày ấy, là một chiến lũy của
họ. Những người mẹ, người chị vượt qua những hàng rào cảnh
sát, lựu đạn cay, vòi phun nước... đến với những đứa con
ngoan của thành phố... “Tụi bay cứ đốt, đốt hết những quân
chó đó đi...” Các mẹ, các chị căn dặn, nhắc nhủ với một lòng
căm thù như vậy.
(trích Trui rèn trong lửa đỏ,
trang 110).
Tuy nhiên, dưới mắt người Cộng
Sản, họ đã nhìn lại vai trò của Phật giáo như sau:
Viện Hoá Đạo, lá cờ đấu tranh
vang dội một thời đang ủ rũ và chia rẽ, phân hóa. Kẻ về Vĩnh
Nghiêm với lá cờ chống Cộng rách rưới. Kẻ về Vạn hạnh dò dẫm
một lối đi. Người về Ấn Quang gần gũi với quần chúng, với
thanh niên. Viện hóa đạo còn lại những chiến lược gia ủng hộ
Khánh- Hương đàn áp phong trào, bắn chết học sinh Phật tử Lê
Văn Ngọc.
Và kể từ nay:
“Ngọn cờ Phật giáo lãnh
đạo đấu tranh hạ xuống, ngay từ trong lòng Phật tử, nhường
chỗ cho lá cờ cách mạng phất cao lãnh đạo phong trào đấu
tranh của Sài Gòn, của tuổi trẻ thành phố.”
Năm 1964 đã kết thúc như vậy.
Tuổi trẻ thành phố kết thúc 10 năm sóng gió, để bước vào
cuộc chiến đấu mới 10 năm sục sôi kỳ lạ.
(trích Trui rèn trong lửa đỏ,
trang 350-351).
Tiếp nối một cách vô tình hay
bị mua chuộc có thêm các tờ báo sinh viên như Hoa Súng của
Dược Khoa, Văn Khoa với Hạ Đình Nguyên. Nhất là tờ Tin
Tưởng, tiếng nói của sinh viên Phật tử. Năm 1968, tờ Tin
Tưởng do Phạm Phi Long làm chủ nhiệm, Đặng Minh Chi làm thư
ký tòa soạn. Sang đến năm 1970, tờ Tin Tưởng sang tay cho
Nguyễn Xuân Lập làm chủ nhiệm, Trần Công Sơn chủ bút và
Trịnh Thị Xuân Hồng, thư ký tòa soạn. Sự tiếp tay của những
tờ báo như Tin Tưởng với nội dung các bài đòi ngưng bắn vĩnh
viễn, đòi Mỹ rút quân. Tất cả đều do bàn tay CS chỉ đạo.
Trong khi đó thì phía miền Nam
có Chu Tử, đứng mũi chịu sào trực tiếp tố cáo Vũ Hạnh là
Cộng Sản trong nhiều số báo liên tiếp kể từ tháng 10/1966
cho đến cuối năm 1966. Cái dở khóc dở cười của văn nghệ sĩ
miền Nam là đã nhiều lần hội Văn bút do Lm Thanh Lãng làm
chủ tịch đã công khai bênh vực Vũ Hạnh và cứu thoát y nhiều
lần khỏi cảnh tù tội.
Cộng sản đã dùng tờ Tin
Văn do Nguyễn Ngọc Lương làm chủ nhiệm, nhân danh bảo vệ và
phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động đồi
trụy. Trong tờ Tin Văn có những bài viết như:
Nhân một quyết định của bộ Văn
hóa giáo dục, về việc bài trừ sách báo đồi trụy. Tin Văn số
3, tháng 6-7/1966. Hiện tượng dâm ô đồi trụy trong Văn Học
hiện nay. Tin Văn số 9, 15/10/1966. Đọc tác phẩm của Chu Tử,
Lữ Phương, số 10, 30/10/1966.
Sau này, trong tài liệu của
Thành Đoàn, Vũ Hạnh đã có những nhận xét như sau về tờ Tin
Văn:
Tuần báo Tin Văn, với các bài
phê bình vạch mặt những tên xung kích chống phá cách mạng
qua các tác phẩm đồi trụy, phản động... Phong trào bảo vệ
phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động, đồi
trụy sớm trở thành phong trào quần chúng sôi nổi, sâu rộng ở
Sai gòn và các tỉnh miền Nam, khiến bọn tay sai văn nghệ co
lại, nguỵ quyền hoang mang và dĩ nhiên chúng tìm mọi cách để
phản kích lại. Sự ra đời những hoạt động văn hóa ngụy dân
tộc bị phong trào vạch mặt, chúng trắng trợn cho tên Chu Tử,
tay sai của sở công an và Trung ương tình báo ngụy, bắt đầu
một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là việt cộng nằm vùng
và liên tiếp trong nhiều số báo như vây, y đã vu khống tôi,
cốt làm cho những người đã tham gia phong trào sợ hãi. Lúc
nầy, Đảng uỷ văn hóa và thường vụ khu uỷ ở nội thành vẫn
hằng ngày theo dõi tôi, động viên, chăm sóc về tinh thần lẫn
vật chất cho tôi, thông qua vợ tôi, mở đường dây liên lạc
mới, tôi trực tiếp nhận sự
chỉ đạo của đảng.
(trích Từ toà án văn hóa đến
Hát cho đồng bào tôi nghe. Vũ Hạnh, Trui rèn trong lửa đỏ
trang 179).
Vũ Hạnh hay bút hiệu cô Phương
Thảo đã bị chính quyền miền Nam chính thức bắt giữ ngày
02/06/1967. Cứ mỗi lần bị bắt thì lại có những nhà văn, trí
thức, sinh viên và đặc biệt Hội Văn bút do Thanh Lãng vào tù
lôi ông ta ra.
Chính
Vũ
Hạnh đã thố lộ về việc bắt giữ ông ta như sau:
Mấy tháng sau đó, tôi bị công
an ngụy quyền bắt giữ là do hai cơ sở của ta làm lộ. Nhưng
sự kiện tôi bị bắt giam bấy giờ tạo thêm một cái cớ cho các
hoạt động đấu tranh hết sức nhiệt tình của giới sinh viên
học sinh. tất cả đều tung ra dư luận khắp nơi rằng tôi bị
giam giữ là do Chu Tử vu cáo, rằng chính quyền đã bất chấp
pháp luật, chà đạp lên quyền tự do cầm bút một cách hết sức
thô bạo. THSV bấy giờ một mặt vận động các giáo sư đại học
có lòng yêu nước lên tiếng để ủng hộ tôi, ủng hộ gia đình
tôi.
(trích Trui rèn trong lửa đỏ,
trang 181).
Đọc đoạn văn trên cho thấy
Vũ
Hạnh đã trắng trợn vu cáo cho Chu Tử dính vào việc
bắt giữ ông ta, đồng thời y đã vận động trong giới trí thức
để xin tha cho y. Đó là lối vừa đánh trống vừa ăn cướp.
Bên cạnh những tờ báo chính
thức như Tin Văn, CS còn tổ chức rất nhiều những báo chí
sinh viên hỗ trợ và tiếp tay cho Tin Văn.
Các báo sinh viên do những
sinh viên như
Trần
Thị Ngọc Hảo, quyền chủ tịch Tổng Hội sinh viên làm
“báo nói” tố cáo Mỹ Ngụy.
Dương Văn Đầy
(Ba Đầy biệt danh Bảy Không) làm bích báo sinh viên bên Y
khoa đòi chuyển ngữ ở Đại học y khoa..
Nguyễn
Trường Cổn, chủ bút báo sinh viên ca tụng quân giải
phóng trong dịp tết Mậu Thân, bị bắt và bị tòa án quân sự
kết tù 5 năm khổ sai.
Nguyễn Đăng Trừng đã trốn ra vùng giải phóng bị kết
án 10 năm biệt xứ.
Đại học Khoa học có tờ Lửa
Hồng, tờ Dấn Thân được ông giáo sư Trần Kim Thạch đỡ đầu.
Luật Khoa có tờ Đất mới do Lê Hiếu Đằng, Nguyên Hạo. Tờ Học
sinh do Lê Văn Triều làm chủ nhiệm, Nguyễn Thị Liên Hoa quản
lý, xuất bản 1000 số.
Nhưng quan trọng là tờ
Hồn Trẻ. Tờ Hồn
Trẻ đã mượn danh tính một số người viết tên tuổi ở miền Nam
lúc bấy giờ như tấm bình phong và giúp làm tăng uy tín cho
tờ Hồn trẻ. Đó là các tác giả có tên tuổi như Thiên Giang,
Bùi Chánh Thời, Nguyễn Văn Trung, Võ Quang Yến, Trụ Vũ, Tô
Nguyệt Đình, Thiếu Sơn, Lương Phương, Vân Trang, Hồng Cúc,
Song Thương, Ái Lan, Thảo Lam, Phương Khánh, Thu Quyên, Cao
Ngọc Phượng, Phong Sơn, Chinh Ba, Hữu Hoàng, Nguyễn Văn
Phụng, Phan Hữu Trình. Như đã nói ở trên, tòa soạn đăt trong
một ngôi chùa do một cư sĩ là ông Nguyễn Văn Hoanh đứng vai
chủ nhiệm. Mục xã luận là do chính những cán bộ cộng sản gộc
như
Phạm
Bá Trực,
Mười
Hải biên soạn.
Bên cạnh đó là những buổi sinh
hoạt văn nghệ, ca nhạc nhằm cổ vũ các phong trào svhs
phản chiến, đòi hòa bình.
Tờ sinh viên ra mắt độc giả ngày 15/5/1967 do sinh viên Hồ
Hữu Nhật làm chủ nhiệm. Tờ sinh viên được coi như biểu tượng
của sinh viên tranh đấu. Ở đây, tôi xin nêu danh tánh tất cả
những sinh viên thuộc các phân khoa đại họ đã hoạt động cách
này cách khác cho cộng sản. Họ đã gài người vào trong các tổ
chức sinh viên. Chẳng hạn như phong trào đòi Hòa Bình với
chương trình “Hát
Cho Đồng Bào tôi nghe,
Dậy mà đi,
Tiếng hát những người đi
tới, Đêm Văn nghệ
tết Quang Trung” với sự tham gia của các
sinh viên đi theo cộng sản
như:
Trần Thiện Tứ, bác sĩ
Trương
Thìn,
nhạc sĩ
Nguyễn Văn Sanh, nhạc sĩ Tôn
Thấp Lập, Võ Thành
Long, nhạc sĩ
Trần
Xuân Tiến,
Phạm
Phú Tâm,
Trương
Thị Hoàng và
Trương
Thị Anh,
Phùng
Hữu Trân,
Nguyễn
Ngọc Phương,
Võ Thị
Tố Nga, Lê Thành Yến.
Và sau đây là
danh sách sinh viên tranh
đấu đã tình nguyện vào căn cứ ở Bắc Lộ 7, Campuchia
gồm:
Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai, Tôn Thất Lập, Trần Long
Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh
Ngọc Hải, Dương Văn Đầy, Trần Thị Ngọc Hảo, Huỳnh Quang Thư,
Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương
Quốc Khoách.
Trong khi đó như tiếp sức cho
địch, các trí thức, dân biểu
nhà văn đua nhau ra các bản thông cáo đủ loại. Chúng
tôi cũng xin tóm tắt bản Tuyên ngôn của nhóm Quốc Gia, ngày
04/09/1974 về tình trạng đàn áp báo chí tại miền Nam do các
dân biểu sau đây đồng ký tên:
DB
Nguyễn Văn Binh,
DB
Nguyễn Tuấn Anh,
DB Đặng văn Tiếp,
DB
Nguyễn Văn Cử,
DB Dương Minh Kính,
DB
Nguyễn Trọng Nho,
DB
Nguyễn Văn Kim,
DB Nguyễn Đức Cung,
DB Vũ
Công Minh,
DB Đỗ
Sinh Tứ,
DB Nguyễn Hữu Hiệu.
Nội dung bản Tuyên bố phủ nhận
luật báo chí 007, bênh vực báo Hòa Bình bị bộ Thông tin
chiêu hồi đóng cửa, bênh vực các ký giả Nguyễn Thái Lân, Ngô
Đình Vận bị gọi lên cơ quan an ninh lấy lời khai. Những bản
tuyên cáo, những đòi hỏi như thế chắc là đúng, chắc là hợp
pháp, chắc là ngay thẳng vì các vị ấy đều là những người
quốc gia chân chính, người có lòng. Nhưng
cộng sản đã biết lợi dụng
những hoàn cảnh như thế để châm thêm ngòi nổ phá rối trật
tự, an ninh ở Sài gòn.
Trong nhiều tháng qua, Hội Văn
Bút của Thanh Lãng đã nhiều lần lên tiếng cảnh cáo về tình
trạng đàn áp báo chí và coi đó là một ngục tù tư tưởng quy
mô nhất.
Nhà văn Nhật Tiến cũng có đọc
một bản cáo trạng dài về tình trạng ngộp thở của văn nghệ sĩ
miền Nam cũng như của ngành xuất bản sách báo dưới lưỡi kéo
kiểm duyệt ác nghiệt.
Cạnh đó là
tuyên cáo chống đối chính
quyền một cách đương nhiên của khối dân biểu Dân tộc xã hội
gồm có:
DB Trần
Văn Tuyên,
Hồ Ngọc
Nhuận,
Nguyễn Ngọc Nghĩa,
Nguyễn Phúc Liên Bảo,
Nguyễn
Công Hoan,
Lý
Trương Trân,
Phan Thiệp, Huỳnh
Ngọc Diêu,
Trần
Văn Thung,
Trần Ngọc Giao,
Trần
Văn Sơn,
Trần Cao Đề,
Phan
Xuân Huy,
Tư Đồ
Minh,
Đinh Xuân Dũng,
Lê
Đình Duyên,
Lý Quý Chung,
Kiều Mộng Thu,
Nguyễn
Văn Hàm,
Nguyễn Văn Phước,
Nguyễn
Hữu Thời,
Nguyễn
Mậu,
Nguyễn
Phước Vĩnh Tùng,
Mai Ngọc Dược,
Hồ Văn
Minh,
Đoàn
Mai.
Riêng bản tuyên bố của nhóm
dân biểu Xã hội-Dân tộc mà luật sư Trần Văn Tuyên làm trưởng
khối thì chúng ta có quyền nghi ngờ nội dung bản tuyên cáo
đó. Vì trong số dân biểu này, có một số đã làm tay sai cho
cộng sản như dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng
Thu.
Luật sư Trần Văn Tuyên,
một trí thức miền Nam , một người quốc gia chân chính mà còn
có thể bị cộng sản giật giây thì còn ai khác nữa? Sau này
đánh giá công tội của luật sư
Trần Văn Tuyên, Hồ
Ngọc Nhuận đã viết trong hồi ký “Đời” của ông như sau:
Luật sư
Trần Văn Tuyên, có sách nào đó cho là lý thuyết gia của chủ
nghĩa quốc gia chống Cộng, vào quốc hội nhiệm kỳ 2, năm
1971. Nhưng suốt nhiệm kỳ, anh chỉ đi với đối lập và là
trưởng khối Xã hội-Dân tộc. Hôm gặp nhau khi đi trình diện
với quân quản ở trụ sở Hạ viện, anh còn lạc quan nói: ‘chế
độ mới không có luật sư, nhưng tôi hy vọng sẽ được làm bào
chữa viên nhân dân’. Về anh cũng như một số các anh như Phan
Thiệp, Nguyễn Mậu... thuộc cánh Quốc Dân Đảng miền trung,
thật cũng khó mà lấy vài ba năm tham gia chính trị đối lập ở
Sài Gòn để cân bằng đánh đổi mấy mươi năm chống Cộng. Nhưng
nếu thời gian tham gia tranh đấu chống Mỹ của họ kéo dài
thêm năm mười năm nữa thì sao? và đâu là những giọt nước nhỏ
nhoi muộn màng giờ chót, thay vì rơi đi nơi khác, lại góp
phần làm tràn cái ly?
(trích hối ký Đời, bản thảo,
Hồ Ngọc Nhuận, trang 165).
Ra đến Hải ngoại, trong Văn
Học miền Nam, truyện 3, trang 1771 của Võ Phiến có trích dẫn
lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng có nêu 3 “tác phẩm tốt”
trong thời kỳ 1954-1975 là
Vũ Hạnh, Sơn Nam và Võ Hồng và không đề cập một chữ
đến vai
trò cán bộ CS của Vũ Hạnh. Việc nêu danh có ba tác
giả thân Cộng có tác phẩm tốt thật là khó chấp thuận được?
Và thế nào là tác phẩm tốt? Và như thế gạt bỏ tất cả những
nhà văn miền Nam còn lại trong đó có cả Võ Phiến? Tôi hy
vọng rằng nhà văn Võ Phiến chia sẻ những suy nghĩ của tôi
viết với sự trân trọng và công bình.
Cùng một tinh thần như Trần
Bạch Đằng, trong bài báo của Xuân Trang nhan đề: ‘Tuổi trẻ
Việt Nam làm báo’ có viết như sau về hiện trạng báo chí dành
cho giới trẻ miền Nam:
‘Một hôm tôi ở tòa soạn nhận
được bên anh em bên tạp chí Tin văn gởi biếu cho tờ Tin Văn
số 10, với lời dặn dò là tờ Hồn Trẻ rất khó chen chân với
các tờ báo nhảm nhí Tuổi hoa, Thiếu nhi, Tuổi ngọc... do bọn
Nhật Tiến, Duyên Anh, Bảo Sơn chủ trương. Có lần tôi, tôi
giao cho nhà phát hành Độc Lập, đường Trần Hưng Đạo 5 ngàn
số thì sau đó y trả về gần đủ... 5 ngàn số, nghĩa là không
bán được tờ nào cả’.
Báo do
cộng sản chủ trương không bán được vì không ai mua, nhưng
bọn họ vẫn gọi các báo Tuổi Hoa, Tuổi ngọc, Thiếu nhi là
những báo nhảm nhí. Đó là cái cung cách của người Cộng Sản.
Bên cạnh
những tờ báo chính thức như Tin Văn, người cộng sản đã phát
hành vô số báo vệ tinh như các tờ Xung kích, Suối thép, Lửa
thiêng, Trung Kiên từ căn cứ đưa vào nội thành. Nhưng những
báo này thực sự cũng ít được ai biết tới.
Nguyễn Đình Thi trong bài viết
Câu chuyện gởi tới các bạn tuổi trẻ sinh viên học sinh miền
Nam đã viết:
‘Mấy tháng nay, từng bước đấu
tranh của các bạn đã được toàn thể đồng bào miền Bắc, nhất
là các giới trí thức, đại học, các lứa tuổi trẻ, chăm chú
theo dõi với tình thương yêu đầy tự hào. Hai mươi năm lăn
lộn lửa đạn, và ngày nay đang tiếp tục chiến đấu, dân tộc ta
đồng thời đã không ngừng từ đất bùn mà nhào nặn lại cuộc
sống của mình, từng bước tiến lên xóa vỡ bao ngang trái bất
công và quét đi những rác rưởi của chế độ cũ’.
Và Lý Chánh Trung trong bài:
‘Làm và tin’ cũng đã viết:
‘Không có mũi nhọn xung kích
của thanh niên thì không thể tạo được những xáo trộn dữ dội
và kéo dài trong những năm 70, gây được tiếng vang ở nước
ngoài và làm cho địch rất lúng túng... Tôi đã nhảy vào cuộc
đấu tranh, phần lớn do sức lôi kéo của những người trẻ tuổi
nói trên và đó là những ngày đẹp nhất mà tôi đã sống, với
những lý tưởng đẹp, những tình cảm đẹp, những gương mặt đẹp
mãi mãi không quên’.
Hiện nay, tờ Tuổi trẻ cùng như
tờ Tuổi Trẻ chủ nhật,
Tuổi
trẻ cười tại thành phố Hồ Chí Minh là hậu duệ của những tờ
báo sinh viên, học sinh thời trước 1975. Một số bọn
họ được trui rèn từ những ngày tháng tranh đấu trong mặt
trận báo chí của Sài gòn trước 1975 nay đảm trách nhiệm vụ
mới.
Mặt trận báo chí ở đô thị trở thành mũi nhọn hàng đầu trong
tất cả các phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Tất cả những tờ
báo ấy trở thành
vũ khí tư tưởng theo lệnh của đảng
góp phần vào sự sụp đổ miền Nam vào năm 1975.
Viết lại những trang này như một bài học ôn lại cho những
người dân ở miền Nam trước 1975 nay đã sinh sống ở nước
ngoài. Như một bài học. Như một dĩ vãng cần được khơi lại để
cùng nhớ những năm tháng ấy.
|
|

|
|