Một bà mẹ Việt
Nam bán rau cải
trên đường phố ở
đất lạ quê người
Cabramatta,
một khu vực
ngoại ô thành
phố Sydney nước
Úc, nơi có số
đông người Việt
cùng nhiều
cộng-đồng người
châu Á sống tập
trung từ những
đầu năm 1980.
Vùng Cabramatta
thuộc thành phố
Fairfield, cách
Sydney chừng
30km về hướng
tây; (khoảng 50
phút đường lái
xe từ đây lên
dowm-town của
Sydney). Hiện
nay trên dưới
40.000 người
Việt cư trú tại
Cabramatta. Một
số báo chí Úc
c̣n gọi khu vực
này là
Saigonmatta.
Chúng ta hăy xem
lại bài viết của
tác-giả
Hồ-Lăng-Bạc như
sau:
Tại Úc: làn sóng
người Việt vượt
biên ồ ạt vào
các năm 1978-
1980: Số thuyền
nhân tỵ nạn đầu
tiên may mắn đến
Úc do sự quyết
định của Thủ
Tướng Malcolm
Fraser, họ
thường được
chuyển vào các
trung tâm tạm cư
(hostel-tiếng
dùng bên Úc, ư
chỉ hotel) tức
nơi ăn, chỗ ở
trong thời gian
từ ba đến sáu
tháng để từ từ
hội nhập vào
cuộc sống mới:
Làm các thủ tục
giấy tờ: thẻ
medicare, mở sổ
băng, bổ túc
giấy tờ, tái
khám sức khoẻ,
học Anh văn. Hồi
đó có bốn
hos¬tel tiếp
nhận người Á
Châu (Việt, Miên,
Lào): East Hill
gần vùng
Liv¬erpool, West
Cabramatta sau
trường trung học
Cabramatta,
Westbridge
Centre thuộc
vùng Villawood
và một trung tâm
xa hơn là
Endeavour vùng
Coogee. Cả bốn
trung tâm này
đều xa trung tâm
Sydney.
V́ vậy người
Việt thường rủ
nhau cùng đáp xe
lửa đến nơi nào
đó để t́m thực
phẩm như ḿ gói,
nước mắn, tương
chao chứ “ăn măi
thịt trừu, hem,
thịt gà của
hostel cung-cấp
th́ chịu sao
thấu”! Thêm vào
đó việc cần gặp
nhau để được
nghe và nói
tiếng Việt cũng
nên lắm chứ. Cho
nên dù được phân
phối vào nhiều
trung tâm khác
nhau, hầu như họ
lại hội tụ tại 2
trạm xe lửa
Cabra-matta và
Bankstown! Rồi
th́ người này
đổi trạm xe để
tiến đến vùng
Chinatown gần
Sydney hoặc
hướng về
Liverpool thăm
bà con xa, người
kia t́m vùng
Marickville v́
nghe nói hăng
may đang cần
người, chị nọ
hướng về Auburn
để gặp người vừa
quen.Thời điểm
này người Việt
định cư tại
Sydney chỉ có
khoảng gần 2.000
thôi.
Vào các năm
1979-1980: chỉ
có vài shop thực
phẩm Á Châu lèo
tèo trên đường
John, con đường
chính của
Cabramatta, như
đối diện trạm xe
lửa có một shop
cá, một shop
trái cây; đặc
biệt shop có tên
Ming bán bánh ḿ
trên đường Athur,
bây giờ là bưu
điện. Đa số chủ
nhân là người
Hoa, họ lấy hàng
hóa từ Chinatown
(sát trung tâm
Sydney, cách
Cabramatta
khoảng 40km) về
bày bán qua ngày…
Freedom
Plaza,
Cabramatta.
(Photo: J
Bar,
Wikimedia
Commons)
Khi hết hạn 3
hay 6 tháng sống
trong các trại
tạm cư, nhiều
đồng hương rủ
nhau t́m việc
làm và mướn
apartment hoặc
căn “flat” (tiếng
dùng bên Úc) để
sinh sống tại
vùng đất mới. Đa
số rủ nhau cùng
đến vùng
Cabramatta-
Fairfield v́ giá
thuê mướn pḥng
khá rẻ: Một căn
hộ có 2 pḥng
ngủ (bedroom),
nhà tắm, nhà bếp,
pḥng giặt…đủ cả
mà giá chỉ
khoảng 60 hay 65
Úc kim/tuần;
trong khi tiền
trợ cấp của
chính phủ cấp là
125Úc kim/tuần/người.
Gia đ́nh có 5
đến 6 người,
hoặc 3, 4 chàng
độc thân cùng
mướn một “flat”
th́ lư tưởng quá
rồi.
Thời gian đầu,
chưa t́m được
việc làm, rất
khó thuê mướn v́
khi thuê phải
đóng tiền “bond”
(đặt cọc) trước
2 tuần, may mắn
là các hội từ
thiện như
Vincent De Paul,
Smith Family
đứng ra bảo
lănh. Do vậy,
các căn “flat”
hoặc nhà nhỏ 1,
2 pḥng gần trạm
xe lửa, gần shop
là có “đầu Đen”
hiện diện.
Chiều chiều,
người Việt hẹn
nhau gặp gỡ trên
cầu sắt tại trạm
xe lửa
Cabramatta để có
thêm tin tức bà
con mới đến và
trao đổi kinh
nghiệm trong
những ngày tháng
đầu tại xứ
Kangaroo này.
Thôi th́ đủ
chuyện: Tiền vào
sổ băng ra sao,
rút ra xài thế
nào, phỏng vấn
t́m việc sẽ trả
lời ra sao? Chủ
trả 3, 4 đô
/1giờ có nhận
không? Con cái
đi học bỡ ngỡ
th́ phải làm ǵ,
sổ mũi nhức đầu
đi bác sĩ và mua
thuốc ở đâu?
v.v...
May mà lúc đó ai
cũng “nhường
nhau từng bước,
nhịn nhau từng
lời..”, t́nh
đồng bào nghĩa
đồng hương sao
mà thắm thiết để
cùng d́u nhau
thích ứng với
các khó khăn
chất chồng!
Nhờ Trời và cũng
nhờ vào sự chịu
khó chịu khổ v́
siêng năng, cần
cù là bản chất
của đa số con
cháu vua Hùng mà
lớp người “khai
sơn phá thạch”
tạm thành công
trong bước đầu
tại vùng
quê-hương thứ
hai này.
Shop thực phẩm Á
châu đầu tiên
chính là Vĩnh
Sanh (bây giờ là
Hoà Sanh) và
Milton, 2 shop
này bán các mặt
hàng thông dụng
và đắt khách
như: nước tương,
ḿ gói, nước
mắm, gạo, muối,
bột ngọt ,bánh
ḿ ổ, v.v...
Người Việt rủ
nhau đến mua, dù
biết rằng các
mặt hàng này chủ
tiệm mua từ
Chinatown . Sau
đó có thêm siêu
thị Đồng-Khánh
bề thế hơn.
Các năm 1982-
1984: Bộ mặt
Ca¬bramatta đă
h́nh thành v́ số
người Việt lên
đến trên 5 ngàn,
chưa kể người
Lào và Cam Bốt
(Miên) kéo nhau
định cư ở khu
bên kia đường xe
lửa.Một số người
Việt gốc Hoa bắt
đầu sang nhượng
vài shop của
người Ư trên
đường John để mở
các cửa hàng bán
vải ồ ạt “từng
thùng”: từ vài
chục mét lên đến
hàng trăm mét để
cứu giúp gia
đ́nh c̣n kẹt lại
VN. Lư do là sau
hơn 5 năm “ngăn
sông, cấm chợ”
c̣n kèm thêm độc
chiêu “cắt liên
lạc” với toàn
thế giới Tây
phương, Cộng Sản
VN thực sự kiệt
quệ trong khi
“nhân dân” th́
đói khổ lầm
than, kêu Trời
không thấu!...
V́ vậy, từ đầu
năm 1985, chính
sách Đổi Mới của
Nguyễn Văn Linh
như chiếc đũa
thần hóa giải
tất cả, bà con
trong nước lẫn
ngoài nước vui
mừng hết cỡ: Cho
phép liên lạc và
nhận “quà” của
thân nhân gởi
về!
H́nh bà
cụ bán rau
trên đường
John,
Cabramatta.
Sydney.
Australia.
(do DBN
chụp)
Thế là khắp nơi
trên địa cầu,
người Việt ùn ùn
gởi từ cây kim,
ống chỉ, kem
đánh răng, thỏi
kẹo sô cô la,
thuốc cảm
Tylenol, gói trà,
dầu gió xanh con
ó đến vải, len,
mền và cả máy
móc radio,
cassette (đây là
chỗ “ém-dấu” đô-la
tài t́nh...).
Thật đúng là “Em
gửi về cho anh
dăm bao thuốc lá,
anh đốt cuộc đời
cháy ṃn trên
ngón tay… Gửi về
cho mẹ dăm gói
chè xanh, mẹ pha
hộ con nước mắt
đă khô cằn” (Bản
nhạc Một Chút
Quà Cho Quê
Hương của Nhạc
sĩ Việt Dzũng).
Giai thoại kể
rằng lúc sáng
tác chính là lúc
anh đến bưu điện
vùng Cali gởi
quà và chứng
kiến tận mắt: Bà
con dù c̣n nhiều
thiếu thốn mà
vẫn “ào ào” gửi
đủ thứ về quê
hương; cảm xúc
dâng trào, chàng
nhạc sĩ đa tài
này vội lấy bút
bic và xin tờ
giấy viết liền
tại chỗ bài nhạc
cảm động này.
Con đường John
náo nhiệt hẳn
lên v́ đợt “gởi
quà cứu đói” của
người nước ngoài
– lúc đó chưa có
cụm từ “Việt
Kiều”. Các shop
thực phẩm Á
Châu, tạp hóa,
tiệm thịt quay
Minh-Tâm, tiệm
phở Minh nằm
trên đường Athur
có lẽ là tiệm
phở đầu tiên nấu
cũng tạm; ngoài
ra c̣n nhiều
quán ăn mọc lên
hai bên đường
này.
Thời điểm
1985-1995: Doanh
nghiệp và cách
bán buôn của
người Hoa và
người Việt tấp
nập hơn với quán
cà phê, quán
giải khát, shop
bánh ḿ, tiệm
thịt cá, tiệm
kim hoàn- nữ
trang, trung tâm
băng nhạc, buôn
bán bàn ghế,
giựng tủ xen
lẫn với shop
trái cây, shop
quần áo thời
trang; tất cả
“tưng bừng khai
trương” nhưng ít
có “âm thầm dẹp
tiệm” v́ măi lực
tiêu thụ rất
cao. Hội đồng
thành phố có kế
hoạch mở thêm
khu thương mại,
băi đậu xe và
chỉnh trang:
biến ngă ba của
hai con đường
John và Park
thành khu
Freedom Plaza
với cổng chào bề
thế, có tượng kỳ
lân ngựa, trâu
nghé, có ghế đá
đủ cả. Khu này
hàng năm tổ chức
Tết Trung Thu,
hội chợ sắc-tộc
mà số người tham
dự là hàng chục
ngàn người.
Con cháu Rồng
Tiên kéo về sinh
sống tại vùng
Tây Nam Sydney
gồm các vùng
Fairfield,
Cabramatta,
Canley Vale,
Liverpool…lên
đến 24,904 người
(số liệu vào năm
1996 của Văn
Pḥng Thống Kê
liên bang Úc
thực hiện cứ 5
năm 1 lần).Ngoài
việc buôn bán,
bà con phát
triển mạnh nghề
may tại gia:
lănh áo quần cắt
sẵn từ các chủ
người Hy Lạp,Thổ
Nhĩ Kỳ, Do
Thái…rồi th́
chồng vắt sổ vợ
đạp máy; may ăn
công 30 hoặc
40cents/1cái.
Nhiều người c̣n
“hùn hạp” mở
hăng may, làm
bưu điện, ḷ
bánh ḿ, làm
farm. Có vốn,
người Việt chú
tâm vào việc mua
nhà, mua xe,
sang shop ,mở
hăng. Cuộc sống
từng bước ổn
định và đời tị
nạn bắt đầu lên
hương và an cư
lạc nghiệp từ
đây!
Phát triển ồ ạt
th́ đương nhiên
kéo theo sự h́nh
thành băng này,
đảng kia và các
tệ trạng xă hội:
X́ ke, ma túy,
cướp giật… và
nổi tiếng với
băng đảng “5 T”:
Tiền, T́nh, Thù,
Tù, Tội. (tạm
dịch: Money,
Love, Revenge,
Jail, Sin.,
Nhưng các vị từ
tâm lại đặt là
Tuổi Trẻ Thiếu
T́nh Thương! Tai
tiếng nhất chính
là vụ nghị-viên
đảng Lao-Động
thành-phố
Fairfield; ông
Ngô-Cảnh-Phương;
người Công-Giáo
(sinh năm 1958,
tại miền Nam
Việt-Nam), đă
nhẫn-tâm ra tay
ám sát Dân Biểu
John Newman tại
ngay nhà ḿnh ở
Cabramata vào
ngày 5 tháng 9
năm 1994. Hiện
ông Phương đang
lănh-án tù
chung-thân theo
phán-quyết của
Ṭa-Thượng-Thẩm
Sydney.
Australia.
Cabramata trở
thành “kinh đô
bạch phiến” và
đẩy lùi “vương
quốc King Cross”
tại trung tâm
Sydney xuống
hàng thứ yếu!
Không những dân
Úc chính mạch
lắc đầu nhún vai
mà các sắc tộc
khác cũng ngao
ngán thở dài khi
có ai đó nói về
“Ca-Ba-Ma-Tà”
hoặc rủ đến thăm
vùng này!
Các năm 1999-
2000: Đầu năm
1999, tất cả các
vùng và các khu
phố tại Sydney
đồng loạt chỉnh
trang bộ mặt để
đón chào Thế Vận
Hội Syd¬ney 2000
khai mạc vào
tháng 9.
Cabramatta cũng
được chính phủ
tiểu bang, hội
đồng thành phố
Fairfield dành
ngân khoản và
lên kế hoạch để
sửa sang, xây
dựng bằng cách
đặt thêm trạm
cảnh sát tại góc
đường John và mở
rộng băi đậu xe,
công viên, chỉnh
tranh khu vực ga
xe lửa để nơi
này không c̣n là
“ổ x́ ke”. Đây
có lẽ là lư do
chính khiến
Ca¬bamatta trờ
thành tốt
hơn.Cộng đồng
người Việt Tự Do
tiểu bang NSW
(CĐNVTD/ NSW)
cùng với các
Cộng đồng sắc
tộc bạn hợp tác
với chính quyền
để góp phần thay
đổi bộ mặt
Cabramatta.
Chính CĐNVTD đă
tặng hơn 25ngàn
Úc Kim để mua
thêm 1 xe giúp
cảnh sát tuần
tiểu ngày đêm.
Các phương tiện
truyền thông, hệ
thống phát thanh
Việt ngữ, các
hội đoàn, các vị
lănh đạo tôn
giáo, các nhân
sĩ cùng tiếp tay
để kêu gọi,
hướng dẫn, giải
thích, khuyên
nhủ bà con, nhất
là tầng lớp
thanh thiếu
niên.
Từ đầu năm 2003
cho đến nay: Có
thể nói t́nh
h́nh an ninh và
nhiều mặt khác
của Cabramatta
có biến chuyển
tốt hơn. Lư do
là việc Chính
quyền Tiểu bang
New-South-Wales
cho dời Trung
Tâm Cảnh Sát
Miền Tây
(Western Police
Centre) về đường
Cabramatta - gần
sát văn pḥng
Centre Link- tức
là ngay trung
tâm buôn bán sầm
uất. Trung tâm
này có lực lượng
trên 120 cảnh
sát và nhân viên
ch́m- nổi thi
hành nhiệm vụ
24/24 giờ, với
phương tiện
thông tin và
điều tra dồi dào
tối tân, xe tuần
cảnh luôn ứng
trực. Chẳng
những an ninh
được cải thiện
mà việc bán buôn
chất trắng và
băng đảng đă đổi
điạ bàn chọn nơi
khác.
Trong dịp 35 năm
Nh́n Lại (1975-
2010), người
Việt tại Syd¬ney
phần nào hănh
diện khi cầm
trên tay quyển
cẩm nang mỏng (A
resource
booklet), gồm 36
trang với tựa đề
ABOUT THE
VIETNAM¬ESE
AUSTRALIA
COMMUNITY, tŕnh
bầy ngắn gọn
nhưng đầy đủ
lịch sử, đất
nước VN (A brief
History Of
VietNam), Chiến
tranh tại VN
(The Vietnam
War)… đến Cộng
đồng người Việt
tại Úc châu (The
Viet¬namese
Community in
Australia - VCA-
) với thống kê
mới nhất: Có đến
274.200 người
Việt đang sống
tại đây! (trich
trang 17). Riêng
tại thành phố
Sydney có đến
80.000 người
Việt mà khoảng
một nửa (40.000)
sống tại vùng
Cabramat¬ta.
Cứ tạm kết luận:
Little Saigon là
tiêu biểu của
người Việt tại
Hoa Kỳ th́
Cabramatta cũng
được xem là bộ
mặt người Việt
tại Úc vậy!
Tương lai đang
chờ đón ở phía
trước… (ngưng
trích).
Lần trở về Úc
Châu trong mùa
Spring Break
2012 này, đi lại
con đường John
(tương-tự như
Bolsa Ave của
miền Nam
California).
H́nh ảnh một bà
cụ Việt-Nam tươi
cười ngồi bán
rau trên vỉa hè,
đầu đội mũ, cổ
quấn khăn quàng
trong không gian
lành lạnh của
mùa Thu (nên nhớ
Úc ngược mùa với
Hoa-Kỳ) đă vô
cùng “ấn-tượng”
trong tâm-khảm
chúng tôi. Bà
đồng ư cho chụp
h́nh và viết về
bà. Đây là một
“Bà Mẹ Quê”
chính hiệu con
Nai vàng...
(vườn rau xanh
ngát một màu, có
đàn gà con nương
náu. Mẹ quê
vất-vả trăm
chiều, nuôi một
đàn con chắt
chiu...)
Bà tự trồng rau,
vun bón trong
vườn nhà dù Trời
mưa hay nắng.
Hết đợt này đến
đợt khác để kiếm
tiền. Điểm đáng
nói là những số
tiền kiếm được
bà đều dùng vào
việc từ-thiện:
nuôi người nghèo
tại Việt-Nam.
Chúng tôi được
biết mới đây bà
giúp cho nhà Thờ
đến $5,000
Úc-Kim (hiện nay
tương đương với
$5,200US) để tỏ
ḷng tạ-ơn v́
Cha
Trương-Bửu-Diệp
đă ban cho bà
quá nhiều
hồng-ân.
Tư-gia của bà
rất bề-thế, ở
một vùng
sang-trọng cách
Cabramatta
khoảng 10 phút
đường lái xe.
Các con bà đều
tốt nghiệp vẻ
vang trong
xă-hội Úc-Châu
như: Nha-Sĩ,
Bác-Sĩ, Kỹ-Sư...
Cháu nội-ngoại
đầy đàn xum vầy,
quay quần sống
gần gũi chung
quanh. Thế mà bà
cụ ngoài 80
không đi Casino,
không đánh
tứ-sắc ăn tiền,
không uống rượu
giải khuây,
không lăng-phí
thời-gian, tiền
bạc vào những
chuyện vô-bổ.
Tự trong sâu
thẳm tâm-hồn,
chúng tôi vô
cùng ngưỡng mộ
bà, một bà mẹ
quê Việt-Nam. Cả
đời tần-tảo lo
cho chồng con.
Giờ vẫn tiếp tục
tảo-tần
chắt-chiu từng
đồng bán rau để
chia xẻ với
những người khốn
khó.
Có lẽ đây cũng
là món quà
tinh-thần mà
Chúa đă ban tặng
cho chúng tôi
trong mùa
Phục-Sinh tháng
tư, 2012. Tôi
chợt nhớ đến
“Tám Mối Phúc
Thật” trong
Kinh-Thánh, xin
gửi tặng quư
độc-giả trong
mùa lễ Phục-Sinh
này:
- Thứ nhất :
Phúc thay ai có
tâm hồn nghèo
khó / v́ Nước
Trời là của họ.
- Thứ hai : Phúc
thay ai hiền
lành / v́ Chúa
dành đất hứa cho
họ.
- Thứ ba : Phúc
thay ai khóc
than / v́ sẽ
được an ủi.
- Thứ bốn : Phúc
thay ai khao
khát sống đời
chính trực / v́
sẽ được thỏa dạ
no ḷng.
- Thứ năm : Phúc
thay ai biết xót
thương người /
v́ chính ḿnh sẽ
được xót thương.
- Thứ sáu : Phúc
thay ai có ḷng
trong sạch / v́
sẽ được ngắm
nh́n Thiên Chúa.
- Thứ bảy : Phúc
thay ai xây dựng
ḥa b́nh / v́ sẽ
được gọi là con
Thiên Chúa .
- Thứ tám : Phúc
thay ai bị người
đời ngược đăi,
mà vẫn sống
chính trực ngay
lành / v́ Nước
trời đă dành cho
họ.
Diamond
Bích-Ngọc
sưu-tầm & biên
soạn (Australia
April 5, 2012).