Nhận định về học
thuật Phật Giáo của nhóm Giao Điểm
Tiến sĩ Dương
Ngọc Dũng, giáo sư Phật Học đại học TP Hồ Chí Minh
Nhân dịp đọc cuốn
Đối Thọai với Giáo Hoàng Phaolô II do nhóm Giao Điểm biên soạn
và xuất bản (1995, Hoa Kỳ), tôi cảm thấy cần phải viết để phê
phán tất cả những sai lầm nghiêm trọng đầy rẫy trong một tác
phẩm đối thoại với Đức Giáo Hoàng được tiến hành do những người
có bằng cấp Ph.D (tiến sĩ) và tự nhận có trách nhiệm phải bênh
vực cho Phật Giáo. Những tác giả này chỉ trích sự hiểu biết về
Phật Giáo của Đức Giáo Hoàng và nhận định, phê phán toàn bộ
triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo một cách ngây thơ nông cạn (có
nghĩa là họ lại làm đúng cái công việc mà họ chỉ trích nơi Giáo
Hoàng). Ngay cái tựa đề “Đối Thoại” cũng đă sai lầm v́ các trí
thức Phật Giáo trong nhóm Giao Điểm (ngoại trừ một vài tác giả
thực sự có ư định đối thoại) chỉ làm một việc là công kích Thiên
Chúa Giáo một cách phiến diện, nông nổi chứ không hề có ư muốn
đối thoại trong tinh thần bao dung tôn giáo. Một tác giả trong
tuyển tập nói trên (Hoàng Hà Thanh) thậm chí lên giọng chưởi bới
Giáo Hoàng là “bố láo. Nói xàm.” (sđd:158).
Như vậy làm
sao có thể gọ là đối thoại tôn giáo trong khi tất cả các trí
thức Phật Giáo này đều tự cho ḿnh là “hiểu” đạo Phật là đạo
hiền ḥa, từ bi, không sân si, tranh chấp với ai? Vậy th́ tức
giận v́ sự hiểu lầm của một người thuộc về một tôn giáo khác th́
có đúng tinh thần đạo Phật hay không? Tại sao một người Thiên
Chúa Giáo lại có bổn phận phải nghiên cứu t́m hiểu Đạo Phật? Tại
sao các trí thức này không tự hỏi cái mà ḿnh hiểu về Thiên Chúa
Giáo như vậy có đúng là công bằng hay không? Tại sao tôi lại
phải t́m hiểu biết, học Phật Giáo trong khi chuyên môn của tôi
là thần học Thiên Chúa Giáo? Nếu Giáo Hoàng trả lời như thế th́
các tác giả trường phái Giao Điểm nói sao? Vấn đề trở nên nghiêm
trọng hơn khi chúng ta đọc đến những điều các tác giả viết về
Phật Giáo th́ mới ngă ngửa ra là ngay cả những người có bằng cấp
đầy ḿnh này cũng hiểu biết Phật Giáo một cách hết sức thô thiển.
Đặc biệt là tác giả Hoàng Hà Thanh hoàn toàn chẳng hiểu biết ǵ
cả về thần học Thiên Chúa Giáo và chỉ có những kiến thức mù mờ
sai lạc về tư tưởng Phật Giáo nhưng trong bài viết lại có thái
độ ngông cuồng ra vẻ ta đây thông thạo kinh điển, siêu quán cổ
kim, khoe khoang lố bịch “tôi vừa đọc xong hai cuốn Apology của
Plato và Xenophon (tác giả viết sai thành “Zenephon”), tôi phải
viết bài này nên tôi tạm ngưng đọc The Clouds của Aristophances
(tác giả viết sai thành “Aristophane”) (sđd:176). Tác phẩm “The
Clounds” là một hài kịch Hy Lạp chế diễu Socrates, c̣n Apology
của cả hai tác giả Plato và Xenophon th́ bênh vực cho Socrates.
Vậy th́ có liên quan ǵ tới Thiên Chúa Giáo hay Phật Giáo? Tác
giả Hoàng Hà Thanh “thông thái” đến nỗi tự dịch Phật Bà Quan Âm
ra tiếng Nhật là “Canon” và c̣n chú thích thêm đây là tên hiệu
một loại máy ảnh (sđd:167)
Nhật
đọc là “KANNON” (Quan Thế Âm) chứ chưa bao giờ là “CANON” cả. Đă
khoe khoang “kiến thức” như vậy mà tác giả lại c̣n “ca” bài ca
“khiêm tốn giả tạo”: “Kiến thức của tôi chỉ như cọng cỏ bên khe
suối” (sđd:176). Nếu tự thấy là kiến thức thấp lè tè như vậy th́
viết bài khảo cứu để làm phiền người khác làm ǵ? Đó là chưa kể
những đoạn thêm thắt tiếng Anh một cách lố lăng trong bài một
cách không cần thiết (“Zen thingking” là cái ǵ khó hiểu đến nỗi
không thể dịch ra tiếng Việt? C̣n “tội tổ tông” có ông linh mục
Mỹ nào gọi là “father’s sin” đâu, trong khi ai cũng biết phải
dịch là “original sin”). C̣n tác giả Lư Khôi Việt th́ đem hẳn
sách dịch của người khác (quyển Đức Phật và Phật Pháp của Narada
Thera do Phạm Kim Khánh dịch với đầy sai lầm sơ đẳng) chép vào
bài ḿnh, phạm tội đạo văn một cách trơ trẽn (sđd: trang 67 từ
câu “Ngài nhập Đại Bi Định…” cho đến “… tế độ ai” là chép nguyên
văn trong cuốn sách dịch của Phạm Kim Khánh xuất bản năm 1971,
tr. 207). Vậy mà Lư Khôi Việt lên giọng khinh miệt kiến thức của
Đức Giáo Hoàng là “sơ đẳng, giản lược, sai lạc một cách rất căn
bản” (sđd: 63). C̣n ḿnh th́ trích dẫn (mà không thừa nhận) từ
một cuốn sách cũng sơ đẳng về Phật Giáo chắc là cao kỳ hơn
chăng?
Tôi viết
những bài này để phê b́nh sự hiểu biết về Phật Giáo và tôn giáo
học nói chung của những người tự nhận là trí thức Phật Giáo. Tác
phẩm này có những tác hại nguy hiểm khi tạo cho những người
không chuyên môn trong lănh vực Phật Học và tôn giáo học có cảm
giác họ đang lắng nghe các chuyên gia trong ngành Phật Giáo
tŕnh bày và biện luận cho giáo lư Phật. T́nh h́nh học Phật
trong nhiều năm qua vốn đă tang thương rách nát với các luận
điệu của Nhất Hạnh cứ măi nhấn mạnh vào Thiền Tông theo quan
điểm của D. T. Suzuki như thể Thiền là tinh hoa của Phật Giáo
trong khi thâm ư của Suzuki muốn nói “Zen là tinh hoa của văn
hóa Phật Giáo Nhật Bản mà thôi (đọc bài Robert Sharp viết về
Suzuki trong The Curators of the Budda, Donald Lopez biên tập,
1996) nếu cộng thêm sự ḥ hét bát nháo của nhóm Giao Điểm th́
không biết tương lai c̣n sẽ c̣n rách nát đến như thế nào trong
một niềm tin tự kiêu kỳ quặc: “Phật Giáo là nhất, đặc biệt là
Thiền Tông, bất lập văn tự, vô ngôn, vô niệm, mọi tư duy khác
đều là cỏ rác”.
Vậy lập
trường của bài phê b́nh này là ǵ? Bênh vực cho Thiên Chúa Giáo?
Không có ǵ khôi hài đối với tôi bằng việc bênh vực cho các niềm
tin tôn giáo của ḿnh bằng cách chửi rủa bôi bác một tôn giáo
khác. Mục đích của tôi, với tư cách là người nghiên cứu Phật
học, đơn thuần là vấn đề học thuật. Trước khi bênh vực Phật Giáo
một cách đứng đắn để tiến hành một cuộc song thoại tôn giáo
nghiêm nghị, chu'ng ta phải có hiểu biết đầy đủ về Phật Giáo và
cả tôn giáo mà ḿnh muốn xây dựng đối thoại. Những triết gia
Nhật Bản, những thiền sư thật sự, trong nhóm Kyoto như Nishida
Kitaro, Shizuteru Ueda, Nishitani Keiji, đều có những nỗ lực
nghiêm chỉnh để t́m hiểu thần học Thiên Chúa Giáo. Đại học
Hawaii có hẳn một tạp chí chuyên san về đối thoại Phật Giáo và
Thiên Chúa Giáo (“The Journal of Buddhist-Christian Dialogue”).
Người Mỹ không coi bất cứ tôn giáo nào là quốc giáo của họ,
nhưng họ quan tâm đến vấn đề đối thoại một cách nghiêm chỉnh
(đọc Steve Odin, Donald Mitchell) chứ không khởi đầu đối thoại
bằng cách chửi đối phương, tranh luận bằng cách xuyên tạc, lẫn
lộn mọi sự kiện, thái độ ngang nhiên, hống hách, t́nh cảm sướt
mướt cải lương (“tôi tắt đèn đi ngủ. Vừa nằm xuống, nước mắt ứa
ra”, Nguyễn Tử Đóa, “Đạo Phật Trong Mắt Tôi”, sđd: 368). Tự
nhiên sao lại "nước mắt ứa ra"? Chỉ v́ ngâm mấy câu thơ rẻ tiền
của Tuệ Sĩ? Có liên quan ǵ đến đối thoại tôn giáo? Tại sao phần
trên đang tŕnh bày giáo lư Phật Giáo, phần dưới lại đệm thêm
nước mắt vào làm ǵ? Có khác ǵ một giáo sư sau khi giảng xong
thuyết tương đối Einstein lại kết thúc bằng cách ca tụng Chế
Linh? Mấy câu thơ của Tuệ Sĩ là tinh hoa của giáo lư Phật Giáo
hay sao? Khoe khoang trí thức bằng cấp một cách lố lăng trong
khi vẫn nấp sau những lời lẽ khiêm tốn, nhún nhường giả
tạo.
Nói
tóm lại, trong tất cả các tác giả tự nhận là trí thức Phật Giáo
thuộc nhóm Giao Điểm, mở cả trường dạy Phật học Lư Trần, kể cả
giáo sư Minh Chi thuộc trường cao cấp Phật học trong nước,
không một ai có bằng cấp hay chứng minh thư cho thấy được đào
tạo trong ngành Phật Học. Không một ai trong nhóm toàn "Ph.D"
này biết một ngôn ngữ Phật Giáo nào (Sanskrit, Pali, Tây Tạng,
Mông Cổ, Măn Châu, Hán Cổ, Triều Tiên hay Nhật Bản) hay một ngôn
ngữ thần học Thiên Chúa Giáo (Hy Lạp, La Tinh, Do Thái Giáo Cổ,
Đức...) nào, vậy mà đủ can đảm viết về cả hai tôn giáo có truyền
thống lớn vào bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Đ̣i đối chiếu,
đối thoại mà không hề học qua tôn giáo học tỉ giáo (comparative
religion), hiện tượng học tôn giáo (phenomenology of religion),
xă hội học tôn giáo (sociology of religion) và thông thích luận
(hermeneutics), nói chung là mù tịt về phương pháp luận tôn giáo
học, th́ sự đối chiều và so sánh sẽ diễn ra trên cơ sở nào? Đâu
phải chúng ta chỉ dựa vào một bản dịch vớ vẩn nào đấy bằng tiếng
Việt viết về Phật Giáo cũ rích từ mấy chục năm, th́ tự cho là đă
quán thông đạo Phật và có quyền che bai kẻ khác là dốt nát,
không hiểu triết lư đạo Phật? Điều nghịch lư đáng nói nhất chính
là ở điểm, một mặt chúng ta khẳng định rằng Phật Giáo là một tôn
giáo rất cao siêu về mặt tư tưởng triết học, một mặt khác không
bao giờ chúng ta hy sinh th́ giờ và tiền bạc của bản thân để học
hành, nghiên cứu đàng hoàng về Phật Giáo. Tôn kính say mê triết
học Phật Giáo th́ phải bỏ công nghiên cứu về Phật Giáo một cách
nghiêm túc. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ khi c̣n ở Việt Nam là thuộc
tôn giáo Cao Đài – (chỉ lo cổ vơ cho Đạo Giáo và tam giáo đồng
nguyên, một khái niệm tưởng tượng chưa hề có trong thực tế lịch
sử Trung Quốc và Việt Nam) – nay đột nhiên biến thành một trí
thức Phật Giáo, giống như kỹ sư Nguyễn Đăng Thục vẫn là thần
tượng của bao "trí thức Phật Giáo" khác trong nhóm Giao Điểm
(1). Người duy nhất trong cộng đồng Việt Nam tại Mỹ có bằng tiến
sĩ Phật Học (đại học Harvard) là tác giả Như Hạnh th́ lại bị
Trần Chung Ngọc thuộc nhóm Giao Điểm lên giọng dè bỉu là "chưa
bao giờ thực hành Phật Pháp", "khẩu thiền", "chưa tiêu hóa được
cái học khoa cử". ("Ư Nghĩa và Vai Tṛ Trí Thức Trong Phật Giáo",
Giao Điểm, số 22, tháng 3, năm 1996).
Sự nghịch lư này
cũng giống như một anh thợ điện lên tiếng chỉ trích tŕnh độ
hiểu biết vật lư của Einstein, hay Phạm Duy lại đi chê bai nhạc
lư của Beethoven. Cần phân biệt rơ sở thích và học thuật. Anh có
quyền thích Chế Linh, tôi có quyền thích cải lương. Anh theo
Phật Giáo tôi theo đạo Dừa. Nhưng một khi anh tiến hành phê phán
sở thích, tôn giáo của người khác, anh đă bước vào vấn đề học
thuật, tự biện, tranh luận, và không có quyền gán chữ "hí luận"
cho người khác để che đậy mặc cảm thiếu trí thức của ḿnh. Đây
là một thái độ mù ám mà tôi thấy rất nhiều "trí thức" trong cộng
đồng Việt Nam tại hải ngoại vướng phải. Học hành nghiên cứu giáo
lư Phật th́ không ra ǵ, có người học hành nghiêm chỉnh hẳn hoi
th́ lại ra sức bôi bác, dè bỉu, cho là nệ tinh thần khoa cử. C̣n
các "trí thức" trong nhóm Giao Điểm khoe nhặng bằng cấp (ai cũng
cẩn thận chua thêm hai chữ Ph.D vào sau tên ḿnh, trong khi
chẳng có ǵ cho thấy là tŕnh độ của các trí thức này qua nổi
ngưỡng cửa B.A.) chẳng phải là "nệ khoa cử" th́ "nệ" cái ǵ? Đă
mê tín bằng cấp đến mức độ đâm ra thù ghét những người có bằng
cấp như vậy mà lại tự cho là thông suốt giáo lư vi diệu của Đức
Phật, một giáo lư mà chính họ giải thích là "giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự". Thật ra chẳng có tôn giáo nào lắm văn
tự như Phật Giáo, kinh điển th́ vô số, ngôn ngữ chép kinh rất đa
dạng, một nhà nghiên cứu Phật Học ngày nay phải nỗ lực gấp ba,
gấp bốn lần các nhà chuyên môn trong các lănh vực khoa học nhân
văn xă hội khác, v́ phải học các cổ ngữ như Phạn văn, Pali, Tây
Tạng, Hán cổ, Mông cổ, Măn châu, Khotaese, các sinh ngữ như Nhật
Bản, Triều Tiên. Không thể nào chỉ tự đắc với bốn câu kệ Thiền
Tông rồi cho phép ḿnh khinh bỉ những học giả suốt đời cắm cúi
nghiên cứu kinh điển Phật Giáo là "buôn bán hí luận", "không
biết thực hành Phật Pháp", "Khẩu thiền". (trong khi ngay cả bản
thân chữ "khẩu thiền" Trần Chung Ngọc cũng hiểu sai, nhưng tôi
sẽ bàn đến bài viết của TCN trong một bài khác).
Cũng giống
như nhiều người cho rằng cứ sang Mỹ "thực hành" tiếng Anh là chu
tất chứ học ngữ pháp làm ǵ cho mất th́ giờ. "Thực hành" tiếng
Anh, hay "thực hành Phật Giáo", th́ căn cứ vào đâu để thực hành?
Đă không có một sở học vững chắc về Phật Giáo, làm sao có thể
tiến hành song thoại với Thiên Chúa Giáo hay bất cứ tôn giáo nào
khác? Chẳng lẽ khi tranh luận với một linh mục về một vấn đề
giáo lư nào đó để thuyết phục họ tin rằng triết học Phật Giáo là
cao siêu thâm thuư hơn thần học Thiên Chúa Giáo, chúng ta khi bị
bí lối, lại giở cái mánh "vừa bắn vừa chạy" bằng cách tuyên bố "Phật
Giáo là bất khả tư nghị"? Đă "bất khả tư nghị" tại sao nhóm Giao
Điểm có khả năng siêu tuyệt ǵ hơn người mà có thể đứng ra "tư
nghị" một cách lùi xùi, sơ đẳng, hạng bét, đầy sai lầm ấu trĩ,
chép sách, đạo văn, trích dẫn lung tung (mà chẳng bao giờ ghi
xuất xứ ở đâu ra)...
Chắc chắn
người đọc sau khi đọc xong các bài viết này sẽ có cảm giác tôi
đă tiến hành phê phán cuốn sách này của nhóm Giao Điểm một cách
chi tiết, một cách tàn nhẫn và thô bạo. Người đọc cũng có thể
đặt câu hỏi về động cơ cá nhân của người viết: tư thù cá nhân?
Thực ra th́ tôi chưa hề quen biết bất kỳ tác giả nào trong nhóm
Giao Điểm, và chỉ t́nh cờ đọc cuốn sách của họ trong một cơ hội
gần đây. Tôi nh́n nhận rằng sự phê phán của tôi rất nặng nề và
khó nuốt. Nhưng điều tôi muốn nói thực ra lại rất đơn giản,
chẳng có ǵ khó nuốt cả: muốn hiểu biết các vấn đề triết học hay
tư tưởng, chúng ta phải dấn thân học hỏi nghiên cứu một cách
nghiêm nghị, không nên nói nhăng nói cuội, nhai lại những câu
nói hay ư tưởng sáo ngữ đă được lập đi lập lại hàng triệu lần
trong những cuốn sách phổ thông về tư tưởng Phật Giáo, làm ra vẻ
thông thái với kiến thức "tự học" của ḿnh trong khi lại phạm
những lỗi lầm hết sức sơ đẳng trong học thuật.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Trong hầu hết sách ông viết,
Nguyễn Đăng Thục thường chêm thêm ngoại ngữ, chẳng hạn tiếng
Sanskrit (Phạn ngữ), nhưng thường là diễn giảng trật. Thí dụ một
câu hết sức quen thuộc trong Upanishads là "I'at ivam asi" (người
là Thực Thể Ấy - khái niệm đồng nhất atman / tiểu ngă
và brahman / đại ngă). Nguyễn Đăng Thục chuyển
thành "Ta là cái ấy". Trong khi chỉ cần một hiểu biết sơ dẳng về
tiếng Phạn cũng biết Ivam là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. (Xem
Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, quyển II, Quốc Vụ Khanh Văn Hóa xuất
bản, 1969, tr. 83). Cũng ngay trong quyển này (tr. 34) Nguyễn
Đăng Thục sau khi nhắc đến tên Mă Minh c̣n chua thêm tiếng Phạn
là ... Asanga. Trong khi Asanga là Vô Trước, bậc thầy khai sáng
ngành Duy Thức Học tại ấn Độ, không ai có học Phật Giáo mà không
biết v́ danh xưng Asanga quá phổ biến. C̣n Mă Minh đúng ra phải
là Asvaghosa